Hoặc vì nhân ấy, sanh về cõi trời, tuy sanh cõi trời[/COLOR], mà căn lành cũ cũng
vẫn chưa hết, nên chẳng phải sanh vào các đường ác, trên trời tận số thì
xuống nhân gian, hoặc làm Luân vương coi cả bốn châu, oai đức tự tại, an lập
vô lượng trăm ngàn hữu tình ở trong thập thiện, hoặc sanh vào những dòng
sát-đế-lị, dòng bà-la-môn, cư sĩ đại gia, lắm tiền nhiều của, kho tàng chất đầy,
hình dung đoan chánh, quyến thuộc đông đủ, thông minh trí tuệ, dũng mãnh
oai hùng, như đại lực sĩ, nếu là nữ giới, được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai, dốc lòng trì niệm, thời sau chẳng phải làm thân
gái nữa.
“Hoặc vì nhân ấy, sanh về cõi trời”, hoặc vì nhân ấy mà sanh về cõi trời.
Ở đoạn trên nói tới những ai tu hành mà có lòng, có nguyện muốn sanh về cõi Tịnh
độ, sẽ nhờ tới nguyện lực của đức Dược Sư mà được vãng sanh về cõi ấy. Đoạn
này nói về những ai không nguyện sanh về Tịnh độ, cũng có thể nhờ nguyện lực
của đức Dược Sư mà hưởng phước báo sanh về cõi trời.
“Tuy sanh cõi trời, mà căn lành cũ cũng vẫn chưa hết”, tuy sanh cõi trời,
mà căn lành cũ cũng vẫn chưa hết. Sanh cõi trời cũng là một loại phước báo hữu
lậu, nên bình thường khi hưởng hết phước rồi thì lại bị đọa lạc. Tuy nhiên, đối với
những ai được nghe danh hiệu của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, mà sanh lên
cõi trời, thì căn lành cũ cũng vẫn chưa hết, do đó họ “nên chẳng phải sanh vào
các đường ác”, chẳng phải sanh vào các đường ác nữa; họ không bị đọa địa ngục,
không phải làm ngạ quỷ, hoặc làm thân thú, mà trái lại “trên trời tận số thì xuống
nhân gian”, khi hết số trên trời, họ lại trở về nhân gian, “hoặc làm Luân vương
coi cả bốn châu”, hoặc làm Chuyển Luân Thánh Vương, coi cả bốn châu. Luân
vương cũng có bốn loại: thứ nhất là Kim Luân Vương, thống lãnh bốn đại bộ châu
101
là Đông Thắng Thần châu, Nam Thiệm Bộ châu, Tây Ngưu Hóa châu và Bắc Câu
Lư châu; thứ hai là Ngân Luân Vương, coi Nam, Tây và Đông ba đại bộ châu; thứ
ba là Đồng Luân Vương coi Nam và Tây hai đại bộ châu; thứ tư là Thiết Luân
Vương chỉ coi một bộ châu ở phương Nam.
“Oai đức tự tại, an lập vô lượng trăm ngàn hữu tình ở trong thập
thiện”. Các Chuyển Luân Thánh Vương đều có đầy đủ oai nghiêm, đức hạnh và tự
tại, khiến cho vô lượng các chúng sanh đều được cảm hóa, mà giữ được thập thiện.
Thập thiện là mười điều lành, được kể ra như sau:
Ba điều thuộc về thân nghiệp; không sát sanh, nghĩa là không làm hại đến
sanh mạng của hết thảy các chúng sanh; không trộm cắp, không lấy tài vật gì của
ai; không tà dâm, tuyệt đối không có hành động dâm ô bất chánh.
Bốn điều thuộc về khẩu nghiệp: không nói dối, nghĩa là không nói những lời
không đúng sự thật; không nói điều ác khẩu, tức những điều độc ác; không nói hai
lưỡi, tức là không nói hai lối khác nhau cốt để ly gián; không nói lời thêu dệt, như
dùng những lời kích động dâm dục chẳng hạn, nói rỡn không chánh đáng, nói đùa,
nói chơi vô ý nghĩa v.v..
Ba điều thuộc về ý nghiệp: không tham, không sân, không si. Bất cứ gặp
hoàn cảnh nào cũng không khởi tâm tham cầu, không có ý sân hận, hay có tâm si.
Ngoại trừ sanh làm Chuyển Luân Thánh Vương, những ai có căn lành nói
trên có thể sanh vào các dòng cao quý như kinh văn nói: “hoặc sanh vào những
dòng sát-đế-lị, dòng bà-la-môn, cư sĩ đại gia”, nghĩa là sanh trong dòng họ nhà
vua (sát-đế-lị), dòng bà-la-môn, những vị tu các hạnh thanh tịnh, hoặc sanh vào
nhà của hàng cư sĩ tại gia, có chánh tri chánh kiến, hoặc sanh vào các gia đình lớn,
có học thức, thuộc loại thế gia vọng tộc.
“Lắm tiền nhiều của, kho tàng chất đầy”, ăn suốt đời không hết, dùng
không hết và mặc cũng không hết; “ hình dung đoan chánh”, hình dung đẹp đẽ.
Chẳng những hoàn cảnh tốt đẹp mà thân hình cũng rạng rỡ, đoan chánh, dung mạo
102
ưa nhìn; “quyến thuộc đông đủ”, thân thuộc đầy đủ, cha mẹ anh em tất cả đều
sống hòa thuận, giúp đỡ lẫn nhau; “thông minh trí huệ”, thông minh sáng láng,
tài cao học rộng, thông đạt đạo lý. Thật là văn võ kiêm toàn vì kinh văn nói thêm:
“dũng kiện uy mãnh, như đại lực sĩ”, khỏe mạnh oai hùng như đại lực sĩ.
Vừa rồi là nói về nam giới trong cõi nhân gian, bây giờ nói về nữ giới: “nếu
là nữ giới, được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai,
dốc lòng trì niệm, thời sau chẳng phải làm thân gái nữa”, tức là đổi gái thành
trai.
Còn nữa, này ông Mạn Thù Sư Lợi! Khi đức Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai đắc đạo Bồ-đề, do sức bổn nguyện mà Ngài soi thấy các loài hữu tình,
mắc nhiều bệnh khổ, gầy còm co quắp, bệnh khát vàng da, hoặc bị bùa ếm,
hoặc bị bỏ độc, hoặc bị chết non, hoặc bị chết uổng, Ngài muốn khiến cho,
những bệnh khổ ấy, đều được tiêu trừ, điều cầu mãn nguyện.
Phục thứ, Mạn Thù Thất Lợi! Bỉ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đắc
Bồ-đề thời, do bản nguyện lực, quán chư hữu tình, ngộ chúng bệnh khổ,
sấu loan càn tiêu, hoàng nhiệt đẳng bệnh, hoặc bị yểm mị cổ độc sở trúng,
hoặc phục đoản mệnh, hoặc thời hoạnh tử, dục linh thị đẳng bệnh khổ tiêu
trừ, sở cầu nguyện mãn.
“Còn nữa, này ông Mạn Thù Sư Lợi! Khi đức Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai đắc đạo Bồ-đề, do sức bổn nguyện”, lại nữa, Ông Mạn Thù Sư Lợi! Khi
đức Dược Sư đắc đạo Bồ-đề, do sức bổn nguyện của Ngài, tức là nhân vì Ngài đã
103
từng phát nguyện trong đời quá khứ sẽ làm một vị đại y vương, để có thể chữa hết
thảy các chúng sanh mắc phải tám vạn bốn ngàn thứ bệnh, do đó mà phát sinh ra
nguyện lực, đặng “soi thấy các loài hữu tình, mắc nhiều bệnh khổ”, quán sát hết
thảy các chúng sanh mắc phải những chứng bệnh khổ. Các bệnh này sanh ra hoặc
do tình trạng bất điều hòa của bốn đại (đất, nước, gió, lửa) trong thân, hoặc do các
loại ma quỷ gây ra, hoặc bệnh bởi nghiệp chướng, tỷ như “gầy còm co quắp, bệnh
khát vàng da”, bệnh gầy ốm, hư nhược, thân hình toàn là da bọc xương; bệnh co
quắp tay chân; bệnh khát nước khô cổ (tiêu khát); bệnh vàng da, nghĩa là bao quát
các chứng thương hàn, ôn dịch, là do bốn đại trong cơ thể mất quân bình mà sanh
ra bệnh tật.
“Hoặc bị bùa ếm, hoặc bị bỏ độc” (Hoặc bị yểm mị cổ độc sở trúng). Ai bị
“yểm mị” thì khi nằm ngủ hay bị đè, không cựa quậy được, còn “cổ độc” là bỏ
trùng độc cho nạn nhân để dễ khống chế họ. Tỷ như tại Vân Nam hay các vùng
Đông Nam Á, có một số người thường nuôi những loại trùng độc, như nhện độc,
rết, bọ cạp v.v.. Họ cho tất cả vào trong một cái chậu, rồi dùng bùa chú nhốt chúng
ở đấy, cho chúng ăn thịt nhau. Con nào sống sót trong cuộc tàn sát ấy, sẽ chứa
trong mình đủ các thứ độc và nó chính là con vật độc hại nhất. Chủ con vật độc này
sẽ sai khiến nó bằng bùa chú để đi gia hại, hay gây thương tật cho những ai bị coi
là kẻ thù.
“Hoặc bị chết non”, hoặc có người bị chết non (đoản mệnh), bởi trong tiền
kiếp đã gây nghiệp sát quá nặng, nên kiếp ngày không sống lâu; “hoặc bị chết
uổng (hoạnh tử)”, hoặc chết uổng mạng, gọi là bất đắc kỳ tử, tỷ như bị tai nạn máy
bay, đắm thuyền, xe lật, xe hơi đụng nhau, chết cháy, động đất, bão lốc v.v..
Đức Dược Sư Như Lai thấy rất rõ dòng nhân quả của những nạn nhân vừa
kể nên “Ngài muốn khiến cho, những bệnh khổ ấy, đều được tiêu trừ, điều cầu
mãn nguyện”, Ngài muốn làm cho những bệnh khổ ấy đều được tiêu trừ, và
những điều chúng sanh mong cầu sẽ được mãn nguyện.
104
Lúc đó Ngài liền vào tam-ma-địa, tên là “Diệt hết khổ não cho các
chúng sanh”, đã vào định rồi, ở trong nhục kế, phóng đại quang minh, trong
đại quang minh, diễn nói thần chú, đại đà-la-ni:
Nam mô bạc già phạt đế, bệ sát xã, lụ rô thích lưu ly, bát lặc bà, hắc ra xà
dã, đát tha yết đa gia, a ra hắc đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án, bệ
sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.
Khi trong quang minh nói thần chú rồi, trái đất chấn động phóng đại
quang minh, hết thảy chúng sanh, bệnh khổ đều trừ, được vui an ổn.
Thời bỉ Thế Tôn nhập tam-ma-địa, danh viết trừ “Diệt nhất thiết
chúng sinh khổ não”, ký nhập định dĩ, ư nhục kế trung, xuất đại quang
minh, quang trung diễn thuyết đại đà-la-ni viết:
Nam mô bạc già phạt đế, bệ sát xã, lụ rô thích lưu ly, bát lặc bà, hắc
ra xà dã, đát tha yết đa gia, a ra hắc đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt
tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.
Nhĩ thời quang trung thuyết thử chú dĩ, đại địa chấn động, phóng đại
quang minh, nhất thiết chúng sanh, bệnh khổ giai trừ, thọ an ổn lạc.
“Lúc đó Ngài liền vào tam-ma-địa”, lúc ấy đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai liền vào tam-ma-địa. Tam-ma-địa (Samadhi) là chữ Phạn, dịch
nghĩa là chánh định, chánh thọ; “tên là ‘Diệt hết khổ não cho các chúng sanh’”,
định này có tên là “Diệt hết khổ não cho các chúng sanh”; “đã vào định rồi, ở
trong nhục kế, phóng đại quang minh”, khi đã nhập định rồi, ở trong nhục kế
của Ngài, phóng ra hào quang sáng rực
105
(Đến chỗ này là hết phần bổ túc thay thế cho phần thâu âm bị mất)
“Trong đại quang minh, diễn nói thần chú, đại đà-la-ni”. Nguyên Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai muốn cứu độ các chúng sanh, giải trừ cho họ thoát khỏi
bệnh tật thống khổ, cho nên trong ánh hào quang, Ngài nói thần chú. Thần chú này
chỉ có mấy câu, rất ngắn, nhưng cái diệu dụng của nó thì vô cùng tận. Tuy nhiên
muốn được lợi ích, ta phải có lòng tin, rồi trì tụng nó một cách chuyên cần.
Đối với các y sĩ làm nghề chữa bệnh, nếu một mặt họ trị bệnh bằng thuốc,
mặt khác họ lại trì tụng thêm thần chú này thì chắc hiệu nghiệm nhiều hơn và bệnh
tình sẽ chóng thuyên giảm. Cho nên trì tụng thần chú là điều rất hay, dù quý vị có
phải là thầy thuốc hay không, khi gặp người có bệnh, quý vị dùng thần chú này, vì
họ mà đọc tụng, quý sẽ thấy sự kiến hiệu.
Những câu chú đều là dịch âm, đọc lên không thấy nghĩa của nó, vả lại cũng
không cần biết nghĩa. Diệu dụng của chú là ở chỗ không thấy nghĩa của nó, đọc lên
quý vị không hiểu gì, quý vị chỉ biết chú tâm tụng, không có vọng tưởng gì khác,
bởi đó mà nó có cảm ứng. Các câu chú này, đọc lên như sau đây:
Nam mô bạc già phạt đế, bệ sát xã, lụ rô thích lưu ly, bát lặc bà, hắc ra xà
dã, đát tha yết đa gia, a ra hắc đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án, bệ
sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.2
Ví như chúng ta có thể niệm các câu trên một cách chuyên chú thì sự “cảm
ứng đạo giao” sẽ không thể nghĩ bàn, do đó:
“Khi trong quang minh nói thần chú rồi”, lúc bấy giờ, trong ánh đại hào
quang, khi đức Dược Sư nói câu chú, tức câu “Dược Sư Quán Đảnh Chân Ngôn”
xong, thời “đại địa chấn động, phóng đại quang minh”, cả trái đất rung chuyển
2
namo bhagavate bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rājāya tathāgatāya arhate samyak-saṃbuddhāya tadyathā oṃ
bhaiṣajye bhaiṣajye bhaiṣajya-samudgate svāhā.
106
tỏa ra hào quang sáng rực. Nói về sự chấn động của trái đất, thì có sáu cách sau
đây: chấn (rung), hống (rống), kích, động (chuyển động), dũng (phun lên, vọt lên)
và khởi (nâng cao); “hết thảy chúng sanh, bệnh khổ đều trừ, được vui an ổn”,
tất cả mọi thứ bệnh khổ đều được giải trừ, và được an vui.
Này ông Mạn Thù! Nếu có thấy ai, dù nam hay nữ, mắc phải bệnh khổ,
thì nên nhất tâm vì người bệnh ấy, tắm rửa súc miệng, tụng chú một trăm lẻ
tám lần vào thức ăn hoặc thuốc, hoặc nước sạch trùng, thời đem cho uống, thì
bệnh khổ gì, cũng đều tiêu hết. Nếu có cầu gì dốc lòng tụng niệm, cũng đều
được cả và lại còn được sống lâu vô bệnh, sau khi mệnh chung sanh sang cõi
kia, được ngôi bất thối, cho đến tận khi đắc đạo Bồ đề. Bởi vậy cho nên ông
Mạn Thù ơi! Nếu có nam tử nữ nhân nào mà dốc lòng cung kinh cúng dường
đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời thường trì chú, chớ để lãng
quên.
Mạn Thù Thất Lợi! Nhược kiến nam tử nữ nhân, hữu bệnh khổ giả,
ưng đương nhất tâm vị bỉ bệnh nhân, thường thanh tịnh táo thấu, hoặc
thực hoặc dược, hoặc vô trùng thủy, chú nhất bách bát biến, dữ bỉ phục
thực, sở hữu bệnh khổ, tất giai tiêu diệt; nhược hữu sở cầu, chí tâm niệm
tụng, giai đắc như thị, vô bệnh diên niên, mệnh chung chi hậu sinh bỉ thế
giới, đắc bất thoái chuyển, nãi chí Bồ đề. Thị cố Mạn Thù Thất Lợi! Nhược
hữu nam tử nữ nhân, ư bỉ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chí tâm ân
trọng, cung kính cúng dường giả, thường trì thử chú, vật linh phế vong.
“Này ông Mạn Thù! Nếu có thấy ai, dù nam hay nữ, mắc phải bệnh
khổ, thì nên nhất tâm vì người bệnh ấy”. Nếu có ai mắc bệnh khổ, hoặc nam
107
hoặc nữ, thì hãy dốc một lòng vì những người bệnh ấy; “tắm rửa súc miệng”,
thường tắm rửa và súc miệng sạch sẽ; “tụng chú một trăm lẻ tám lần vào thức
ăn hoặc thuốc, hoặc nước sạch trùng”, rồi tụng chú một trăm lẻ tám (108) lần
vào đồ ăn, thuốc, hoặc nước sạch không có trùng; “thời đem cho uống”, đem cho
người ấy uống; “thì bệnh khổ gì, cũng đều tiêu hết”, kết quả là hết thảy mọi bệnh
đều tiêu trừ. “Nếu có cầu gì dốc lòng tụng niệm, cũng đều được cả và lại còn
được sống lâu vô bệnh”, nếu lại cầu một điều gì khác thời hãy dốc lòng niệm
tụng, nghĩa là theo như trên vừa nói, tụng chú cho tới một trăm lẻ tám lần đều
được như ý, và còn được sống lâu vô bệnh, đáng chết mà không chết, thật là thần
diệu.
“Sau khi mệnh chung sanh sang cõi kia”, tới khi hết số, chết đi thì sẽ
sanh qua thế giới kia, tức cõi Lưu Ly Quang của đức Dược Sư; “được ngôi bất
thối, cho đến tận khi đắc đạo Bồ đề”, qua đây sẽ không bị thoái chuyển và thành
tựu quả A-nậu-đa-la tam miệu tam-bồ-đề cho đến khi thành Phật.
“Bởi vậy cho nên ông Mạn Thù ơi! Nếu có nam tử nữ nhân nào mà dốc
lòng cung kinh cúng dường đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, bởi
vậy cho nên, ông Mạn Thù ơi! Nếu có nam hay nữ bằng cả tấm lòng trân trọng
cúng dường đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “thời thường trì chú, chớ để
lãng quên”, thời thường xuyên trì niệm chú “Dược Sư Quán Đảnh Đà-la-ni”, chớ
để quên lãng.
Còn nữa này ông Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có nam tử nữ nhân tịnh tín
được nghe tất cả danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng
Chánh Đẳng Giác, nghe rồi tụng trì, sáng sớm trở dậy, xỉa răng tắm gội, súc
miệng sạch sẽ, dâng các hoa thơm, hương đốt, hương bôi và các âm nhạc,
cúng dường tượng Phật, rồi với kinh này, hoặc mình tự viết, hoặc bảo người
viết, nhất tâm thọ trì, lắng nghe nghĩa kinh. Với Pháp sư đó, thời nên cúng
108
dường, sắm đủ các món đủ để nuôi thân, thảy đều cấp cho, đừng để thiếu
thốn, như vậy được nhờ chư Phật hộ niệm, điều cầu mãn nguyện, và được đến
cả, đạo cả Bồ đề.
Phục thứ, Mạn Thù Thất Lợi! Nhược hữu tịnh tín nam tử nữ nhân,
đắc văn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, sở hữu
danh hiệu, văn dĩ tụng trì, thần tước xỉ mộc, tháo thấu thanh tịnh, dĩ chư
hương hoa, thiêu hương đồ hương, tác chúng kỹ nhạc, cúng dường hình
tượng, ư thử kinh điển, nhược tự thư, nhược giáo nhân thư, nhất tâm thọ
trì, thính văn kỳ nghĩa, ư bỉ Pháp sư, ưng tu cúng dường, nhất thiết sở hữu
tư thân chi cụ, tất giai thí dữ, vật linh phạp thiểu, như thị tiện mông chư
Phật hộ niệm, sở cầu nguyện mãn, nãi chí Bồ đề.
“Còn nữa này ông Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có nam tử nữ nhân tịnh tín
được nghe tất cả danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, lại
nữa! Ông Mạn Thù Sư Lợi! Nếu có người nào nam hay nữ, lòng thanh tịnh và có
tín tâm, nghe được danh hiệu của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, “tất cả danh
hiệu”, tất cả danh hiệu của Ngài, tức là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, kể tất cả là mười danh hiệu như vậy; “văn dĩ tụng trì”,
nghe xong rồi tụng trì.
“Sáng sớm trở dậy, xỉa răng tắm gội, súc miệng sạch sẽ” (Thần tước xỉ
mộc, tháo thấu thanh tịnh): “tước” nghĩa là nhai và theo tục xưa thời đức Phật,
người ta nhai một nhánh của cây dương cho sạch miệng và răng; “xỉ mộc” tức là
gỗ cây dương; “tháo thấu” là súc miệng và tắm gội.
109
“Dâng các hoa thơm, hương đốt, hương bôi và các âm nhạc”, dâng lên
hương hoa, đốt nhang, bôi hương; “và các âm nhạc cúng dường tượng Phật”,
sửa soạn các thứ âm nhạc, cúng dường tượng Phật, hoặc giả cúng dường kinh
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “rồi với kinh này, hoặc mình tự viết, hoặc
bảo người viết”, hoặc tự mình sao kinh, hoặc nhờ người khác sao kinh; “nhất tâm
thọ trì, lắng nghe nghĩa kinh”, thọ trì danh hiệu đức Dược Sư một cách nhất tâm,
lắng nghe nghĩa lý của kinh; “ư bỉ Pháp sư”, đối với vị Pháp sư ấy, tức nói vị
Pháp sư giảng kinh, viết kinh, thọ trì, và đọc tụng Kinh Bổn Nguyện Của Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai; “thời nên cúng dường”, phải lo cúng dường. Nhớ rằng
cúng dường phải cho cung kính, chớ không phải làm một cách qua loa cho xong
chuyện; cỗ trai dâng lên cho vị Pháp sư ấy cũng phải làm bằng những món ăn
thanh tịnh.
“Sắm đủ các món đủ để nuôi thân, thảy đều cấp cho, đừng để thiếu
thốn”, hết thảy những món đồ dùng để nuôi thân, phải cung cấp đủ, chớ để bị thiếu
thốn. Chẳng hạn, vị Pháp sư đó cần phải có đồ để ăn, cần quần áo, giường nằm,
thuốc thang, tức là bốn thứ nên cúng dường, các Phật tử phải nên lo cho đủ, không
thể để cho Pháp sư đó bị thiếu thốn một món nào trong các thứ nói trên.
“Như vậy được nhờ chư Phật hộ niệm”, như vậy sẽ có chư Phật hộ niệm.
Nói rõ là nếu quý vị cúng dường vị Pháp sư viết, thọ trì và đọc tụng kinh Bổn
Nguyện Của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời mười phương chư Phật sẽ hộ
niệm cho quý vị; “điều cầu mãn nguyện, và được đến cả, đạo cả Bồ đề”, cầu
điều gì sẽ được mãn nguyện, cho đến đạt được đạo Bồ đề.
※※※
※※※
※※※
Đối với chúng ta là những người theo học Phật Pháp, mọi thứ khác đều
không thể so sánh với Phật Pháp được; các loại kiến thức, các điều học hỏi cho đến
110
công việc kiếm ăn sinh sống cũng không thể quan trọng bằng Phật Pháp. Hôm nay,
chẳng phải có người nói rằng một nữ Phật tử đã ăn chay và hoan hỷ đến nghe Kinh
khi có Pháp sư “tam bộ nhất bái” đến giảng kinh ở nơi này ư? Thực là một việc
hiếm có. Như quý vị có thể trân quý thời gian nghe kinh, quý vị xem việc nghe
kinh mới là trọng yếu, thời quý vị mới chính là một đệ tử tốt của Phật. Cho nên
chúng ta phải có thành tâm và thành ý để nghe kinh.
Bấy giờ đồng tử Mạn Thù Thất Lợi bạch đức Phật rằng: Thế Tôn! Con
thề khi nào đời Tượng Pháp chuyển, dùng nhiều phương tiện, khiến người
tịnh tín, thiện nam thiện nữ được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai, cho đến lúc ngủ cũng đem hiệu Phật giác ngộ vào tai.
Nhĩ thời Mạn Thù Thất Lợi đồng tử bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã
đương thệ ư Tượng Pháp chuyển thời, dĩ chủng chủng phương tiện, linh
chư tịnh tín, thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, đắc văn Thế Tôn Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai danh hiệu, nãi chí thụy trung, diệc dĩ Phật danh giác
ngộ kỳ nhĩ.
“Bấy giờ đồng tử Mạn Thù Thất Lợi bạch đức Phật rằng:”, lúc bấy giờ,
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con thề khi nào đời Tượng
Pháp chuyển”, con xin thề, vào thời Tượng Pháp chuyển; “dùng nhiều phương
tiện”, dùng rất nhiều phương tiện, tức là các pháp nào hợp với tình thế, với căn cơ
rồi tùy duyên mà thuyết pháp. Con sẽ dùng trí huệ quan sát xem pháp nào là
phương tiện để hóa độ hết thảy chúng sanh; “khiến người tịnh tín, thiện nam
thiện nữ”, khiến cho hết thảy các thiện nam, thiện nữ, thanh tịnh và có tín tâm;
“được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, nghe được
111
danh hiệu của Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “cho đến lúc ngủ cũng
đem hiệu Phật giác ngộ vào tai”, thậm chí cả lúc đương ngủ, nếu cơ duyên đã
thành tựu, trong giấc mộng, con cũng cho nghe danh hiệu của đức Thế Tôn Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai, khiến cho họ được giác ngộ.
Vừa rồi có nói về thời Tượng Pháp chuyển. Thế nào là Tượng Pháp? Số là
Phật Pháp gồm có các thời kỳ sau: thời kỳ Chánh Pháp, thời kỳ Tượng Pháp và
thời kỳ Mạt Pháp.
Thời Chánh Pháp kể từ lúc Phật trú ở thế gian. Đó là thời của “thiền định
kiên cố”, ai nấy đều ngồi thiền tập định. Có thuyết nói thời chánh pháp kéo dài 500
năm, có thuyết nói tới 1000 năm. Kế tiếp là thời Tượng Pháp, Thời này là thời
chấp vào hình tướng. Người ta chú trọng nhiều về tướng biểu hiện bên ngoài, và
coi nhẹ phần bên trong. Chánh Pháp nhằm vào công phu “nội thánh”, còn Tượng
Pháp là công phu “ngoại vương”. Bởi chấp tướng nên trong thời kỳ Tượng Pháp,
người ta đua nhau xây nhiều chùa miếu, nên gọi thời này là “miếu tự kiên cố”, chỉ
có thiểu số tu, còn phần đông thì chẳng tu hành. Thời Chánh Pháp thì ngược lại: đa
số tu hành, thiểu số không tu. Thời gian của Tượng Pháp có thể là 1000 năm, mặc
dầu có thuyết nói 500 năm.
Sau cùng là thời đại Mạt Pháp, thời của chúng ta hiện nay. Chúng ta đã cách
Phật xa rồi. Vào thời này, thiền định chẳng “kiên cố”, mà chùa miếu cũng chẳng
“kiên cố”, chỉ có “tranh chấp kiên cố” mà thôi. Vào cái thời này ư! Người thì đấu
tranh với người, nhà nọ thì tranh chấp với nhà kia, nước này đánh nhau với nước
kia, rồi chiến tranh giữa các tinh cầu, nguyệt cầu, vậy mới gọi là đấu tranh kiên cố.
Người ta không còn biết làm gì khác ngoài việc đấu tranh với nhau, mà không đấu
tranh thì thanh toán nhau. Quả là môt thời đại khủng khiếp! Tại sao chúng ta lại
sanh vào thời đại này? Có thể nói rằng chúng ta không tạo nên điều gì tốt nên mới
sanh trong thời Mạt Pháp, khi Phật Pháp tới bước đường cùng, sắp phải tiêu ma.
112
Người ta bảo thời Mạt Pháp là 1000 năm, nhưng nay chúng ta hãy coi như thời đại
này là 10.000 năm.
Từ thời Phật tại thế đến nay là 3000 năm. Các thời Chánh Pháp và Tượng
Pháp qua đi, cứ mỗi thời kỳ là 1000 năm, vậy bây giờ chúng ta đã qua 1000 năm
của thời Mạt Pháp. Chúng ta không có may mắn được đích thân trông thấy cảnh
tượng của thời Chánh Pháp khi lúc Phật trú tại thế gian. Tuy nhiên, dầu ở trong
Mạt Pháp, chúng ta vẫn phải đề xướng Chánh Pháp, phải phát nguyện làm sao
khiến cho Mạt Pháp chuyển thành Chánh Pháp. Ai ai cũng phát nguyện, thế tất
không có Mạt Pháp. Hiện nay Phật giáo đã truyền sang phương Tây, vậy chúng ta
phải tích cực đề xướng Chánh Pháp, hoằng dương Chánh Pháp, mỗi hành vi cử chỉ
của chúng ta đều phải hướng tới mục tiêu Chánh Pháp. Đó là tôn chỉ của tôi lâu
nay. Quý vị nghe xong thời phải phát tâm Bồ đề rộng lớn và tích cực hộ trì Chánh
Pháp Nhãn Tạng.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu ai thọ trì đọc tụng kinh này, hoặc là diễn thuyết
khai thị cho người hoặc tự mình viết, hoặc khiến người viết, hoặc là tôn trọng
cung kính kinh này, đem nhiều các thức hương hoa: hương bôi, hương bột
hương đốt, tràng hoa anh lạc, phướn lọng âm nhạc, để mà cúng dường, lấy sợi
ngũ sắc, làm túi đựng kinh, quét rửa chỗ sạch, thiết lập tòa cao, làm chỗ để
kinh. Bấy giờ sẽ có bốn Đại Thiên Vương, cùng với quyến thuộc, với cả vô số
trăm ngàn Thiên chúng, đều đến chỗ ấy, gìn giữ cúng dường. Bạch đức Thế
Tôn! Nếu ở nơi nào kinh báu lưu hành, có người thọ trì, và nhờ công đức bổn
nguyện của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, được nghe danh
hiệu, nên biết chỗ ấy không còn có người bị hoạnh tử, chẳng còn ai bị bọn quỷ
thần ác đoạt mất tinh khí, ai bị đoạt rồi, lại được thân tâm an vui như cũ.
113
Thế Tôn! Nhược hữu thử kinh thọ trì đọc tụng, hoặc phục vị tha diễn
thuyết khai thị, nhược tự thư, nhược giáo nhân thư, cung kính tôn trọng, dĩ
chủng chủng hoa hương, đồ hương, mạt hương, thiêu hương, hoa mạn,
anh lạc, phan cái, kỹ nhạc, nhi vị cúng dường, dĩ ngũ sắc thải, tác nang
thịnh chi, tảo sái tịnh xứ, phu thiết cao tòa, nhi dụng an xứ, nhĩ thời tứ Đại
Thiên Vương, dữ kỳ quyến thuộc, cập dư vô lượng bách thiên Thiên chúng,
giai nghệ kỳ sở, cúng dường thủ hộ. Thế Tôn! Nhược thử kinh bảo lưu
hành chi xứ, hữu năng thọ trì, dĩ bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như
Lai bổn nguyện công đức, cập văn danh hiệu, đương tri thị xứ vô phục
hoạnh tử, diệc phục bất vị chư ác quỷ thần đoạt kỳ tinh khí, thiết dĩ đoạt
giả, hoàn đắc như cố, thân tâm an lạc.
Ngài Văn Thù Sư Lợi lại bạch Phật: “Nếu ai thọ trì đọc tụng kinh này”,
nếu có ai trong tương lai, vào thời Tượng Pháp, hoặc thời Mạt Pháp, mà thọ trì đọc
tụng kinh này - tức chỉ kinh Công Đức Bổn Nguyện Dược Sư Lưu Ly Quang Như
Lai - như có thể ngày ngày niệm kinh, lấy bổn kinh ra đọc, hay thuộc lòng kinh mà
tụng niệm; “hoặc là diễn thuyết khai thị cho người”, hoặc diễn thuyết cho người
nghe những ý nghĩa sâu xa của kinh văn, giải thích rõ ràng từng điểm một, hoặc là
khai thị bằng những thí dụ khiến người nghe được sáng tỏ nghĩa kinh và điểm
trọng yếu của kinh.
“Hoặc tự mình viết, hoặc khiến người viết”, hoặc tự mình viết hoặc bảo
người khác viết bộ kinh này; “hoặc là tôn trọng cung kính kinh này”, như lễ lạy
bộ kinh, trân quý bộ kinh, hoặc cúng dường bộ kinh bằng những thức sau: “đem
nhiều các thức hương hoa”, lấy các loại hoa và hương như “đồ hương, mạt
hương, thiêu hương”, hương bôi, hương bột, hương đốt; “tràng hoa anh lạc,
114
phướn lọng âm nhạc, để mà cúng dường”, tràng kết hoa, anh lạc, tràng phan,
lọng che, các thứ âm nhạc như các loại nhạc tán Phật, các thứ này để làm đồ cúng
dường kinh; “lấy sợi ngũ sắc, làm túi đựng kinh”, lấy chỉ năm mầu làm túi đựng
kinh; “quét rửa chỗ sạch”, quét dọn sạch sẽ một chỗ “thiết lập tòa cao, làm chỗ
để kinh”, dựng lên một vị trí cao để an trí bộ kinh, vậy là tỏ hết lòng cung kính.
“Bấy giờ sẽ có bốn Đại Thiên Vương, cùng với quyến thuộc, với cả vô
số trăm ngàn Thiên chúng”, lúc bấy giờ sẽ có bốn vị đại Thiên vương, cùng với
quyến thuộc và vô lượng vô biên hàng trăm ngàn Thiên chúng; “đều đến chỗ ấy,
gìn giữ cúng dường”, đều đến chỗ ấy để lễ lạy bộ kinh và giữ gìn bộ kinh.
“Bạch đức Thế Tôn! Nếu ở nơi nào kinh báu lưu hành”. Nếu nơi nào có
kinh quý báu này lưu hành; “có người thọ trì”, ở đó có người thọ trì, thời “nhờ do
công đức bổn nguyện của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”,
“cập văn danh hiệu”, và do nghe được danh hiệu; “nên biết chỗ ấy không còn
có người bị hoạnh tử”, thời phải biết rằng nơi đó - nghĩa là nơi có kinh điển -
không có cảnh chết một cách dữ dằn của hoạnh tử3; “chẳng còn ai bị bọn quỷ
thần ác đoạt mất tinh khí”, cũng không bị bọn quỷ thần ác đoạt mất tinh khí làm
cho nạn nhân mất hết khí lực; “ai bị đoạt rồi, lại được thân tâm an vui như cũ”,
hoặc giả nếu lỡ bị đoạt rồi thời khí lực được khôi phục và thân tâm được trở lại an
vui. Tóm lại hết sạch mọi phiền não, tai nạn thảy đều tiêu tan, không còn chết chóc
bởi tai họa, mọi điều hung hiểm không phát sinh nữa. Như vậy, bất cứ ai trong
3
Hoạnh tử còn gọi là Phi thời tử, Bất lự tử, Sự cố tử. Chết oan, do gặp phải tai họa ngoài ý muốn mà
chết. Hoạnh tử gồm có 9 thứ:
1. Bệnh mà không có thầy thuốc rồi chết.
2. Bị Luật Vua tru lục mà chết.
3. Phi nhân đoạt tinh khí mà chết.
4. Lửa cháy mà chết.
5. Nước nhận chìm mà chết.
6. Ác thú ăn thịt mà chết.
7. Té xuống sườn núi mà chết.
8. Bị thuốc độc, bùa chú mà chết.
9. Ðói khát ép ngặt mà chết.
115
chúng ta mỗi khi gặp việc gì quỷ quái, thời nên thỉnh một bộ kinh Công Đức Bổn
Nguyện của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đem về nhà để cúng dường. Đó
chính là một Pháp bảo có thể trấn giữ tà ma, mang lại niềm an tịnh cho gia đình.
Đức Phật bảo Ngài Mạn Thù Thất Lợi: Đúng thế! Đúng thế! Đúng như
ông nói, ông Mạn Thù ơi! Nếu có thiện nam thiện nữ tịnh tín mà muốn cúng
dường Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, trước hết phải tạo hình
tượng của Ngài, lập tòa thanh tịnh mà rước tượng lên, rắc các thứ hoa, đốt
các thứ hương, dùng nhiều tràng phan, trang nghiêm chỗ ấy, bảy ngày bảy
đêm, giữ tám trai giới, ăn uống thanh tịnh, tắm gội sạch sẽ, bận áo thanh tịnh,
tâm phải thanh tịnh, không chút vẩn đục, không tâm giận dữ, hại bất cứ ai.
Đối với hết thảy các loài hữu tình, khởi tâm lợi ích an vui từ bi hỷ xả bình
đẳng, cử nhạc ca tán, nhiễu quanh tượng Phật, về bên tay mặt, lại phải ghi
nhớ, công đức bổn nguyện của đức Phật kia, đọc tụng kinh này, suy nghĩ
nghĩa kinh, diễn thuyết khai thị, rồi những điều cầu, đều được toại nguyện,
cầu sống lâu được sống lâu, cầu giàu có được giàu có, cầu chức quan được
chức quan, cầu trai gái được trai gái.
Phật cáo Mạn Thù Thất Lợi! “Như thị, như thị, như nhữ sở thuyết!”
Mạn Thù Thất Lợi! Nhược hữu tịnh tín thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng,
dục cúng dường bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai giả, ưng tiên
tạo lập bỉ Phật hình tượng, phu thanh tịnh tòa, nhi an xứ chi, tán chủng
chủng hoa, thiêu chủng chủng hương, dĩ chủng chủng tràng phan trang
nghiêm kỳ xứ, thất nhật thất dạ, thọ bát phần trai giới, thực thanh tịnh
thực, tảo dục hương khiết, trước thanh tịnh y, ưng sanh vô cấu trọc tâm,
vô nộ hại tâm, ư nhất thiết hữu tình, khởi lợi ích an lạc, từ bi hỷ xả, bình
116
đẳng chi tâm, cổ nhạc ca tán, hữu nhiễu Phật tượng, phục ưng niệm bỉ
Như Lai bổn nguyện công đức, độc tụng thử kinh, tư duy kỳ nghĩa, diễn
thuyết khai thị, tùy sở nhạo cầu, nhất thiết giai toại; cầu trường thọ đắc
trường thọ, cầu phú nhiêu đắc phú nhiêu, cầu quan vị đắc quan vị, cầu
nam nữ đắc nam nữ.
“Đức Phật bảo Ngài Mạn Thù Thất Lợi: Đúng thế! Đúng thế! Đúng
như ông nói, ông Mạn Thù ơi!”, Phật bảo Ngài Văn Thù: “Ông Mạn Thù ơi!
Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói”.
“Nếu có thiện nam thiện nữ tịnh tín mà muốn cúng dường Thế Tôn
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, trước hết phải tạo hình tượng của Ngài”,
nếu có thiện nam, thiện nữ tịnh tín muốn cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu
Ly Quang Như Lai; “trước hết phải tạo hình tượng của Ngài”, thời điều trước
tiên là phải tạo hình tượng của Ngài; “lập tòa thanh tịnh”, thiết lập một tòa thanh
tịnh; “mà rước tượng lên”, rước tượng lên an vị; “rắc các thứ hoa, đốt các thứ
hương”, rắc các loại hoa, đốt các thứ nhang; “đốt các thứ hương, dùng nhiều
tràng phan, trang nghiêm chỗ ấy”, rồi lấy nhiều tràng phan trang hoàng nơi đạo
tràng đó.
Có một điều phải hiểu rằng chúng ta dâng hương hoa lên chư Phật và Bồ tát,
chẳng phải vì Phật và Bồ tát còn có tâm tham, ham ăn ham uống, muốn mọi người
cúng dường trà nước hay các món chay để thưởng thức. Nghĩ như vậy là không
đúng. Chúng ta cúng dường hương hoa là để biểu lộ tâm thành và thiện ý của
chúng ta, chớ không phải vì Phật muốn như vậy. Chúng ta dâng hương và hoa ư?
Chẳng phải vì vậy mà Phật thêm hoan hỷ. Không dâng hương hoa ư? Chẳng phải
vì vậy mà Phật buồn. Chư Phật không cầu gì nơi chúng ta, nhưng chúng ta thì chỉ
117
có một cách là dâng hương quý, hoa quý để chứng tỏ lòng thành kính đối với chư
Phật mà thôi.
Lễ cúng Phật chẳng phải giống như cách thức của một số người ngu dốt cứ
cầm cả bó nhang lớn đến trước Phật mà dâng hương. Đức Phật ở chỗ ấy, ngài
phóng quang để bảo hộ chúng sanh; bây giờ quý vị lại đốt nhiều nhang như vậy,
khói bốc lên mù mịt mờ cả mắt Phật, mờ cả hào quang, khiến cho việc cứu độ
chúng sanh không thành! Đó là tôi đã lấy sự hiểu biết của phàm phu để đo lường
cảnh giới của Phật. Song, điều tôi muốn nói ở đây là không nên dâng hương theo
kiểu đó, bởi làm như vậy có khác gì bầy thức ăn đầy cả một cái bàn dài trên 10
trượng, rồi bắt người ta ăn cho hết. Muốn cúng Phật, ta chỉ cần 3 cây hương, hoặc
giả thêm một cây nữa cho vị Hộ Pháp ở phía trước, cộng lại là 4 cây. Bình thường
một cây hương là đủ rồi. Nếu trong lòng của quý vị chân thành thì dù không có cây
hương nào, các Bồ tát vẫn hộ trì quý vị. Chỉ cần quý vị tâm niệm về đức Phật, về
Pháp, về Tăng, cũng như niệm Kinh thì chư Phật sẽ hoan hỷ. Chẳng cứ có nhang
Phật mới hoan hỷ!
Đối với chúng ta, ai xúc phạm thì buồn, ai tán thưởng thì vui. Phật không
hẹp hòi như vậy. Chúng ta không nên đem lòng dạ của kẻ phàm phu để đo tâm
lượng của bậc thánh, mà suy ra rằng Phật cũng tham như ta, thấy tiền của càng
nhiều càng tốt, nhang đốt càng nhiều càng quý. Nghĩ vậy là sai lầm. Đừng bắt
chước mấy người mê tín kia, đến chùa lễ bái một cách mê tín, dâng hương theo lối
mê tín. Quý vị có hỏi họ: “Sao đốt lắm nhang vậy?” tất họ sẽ trả lời: “Đốt càng
nhiều càng quý!” Hỏi họ quý như thế nào, họ cũng chẳng biết. Thử hỏi vậy chẳng
phải hồ đồ sao? Cho nên là tín đồ Phật giáo, chúng ta phải làm theo chân lý, theo
trí huệ chớ không thể xử sự theo lối mê tín.
“Bảy ngày bảy đêm, giữ tám trai giới, ăn uống thanh tịnh”, nghĩa là
trong bảy ngày bảy đêm, thọ trì bát quan trai giới, không ăn đồ mặn, có nghĩa là ăn
uống thanh tịnh; “tắm gội sạch sẽ, bận áo thanh tịnh”, tắm gội cho thân thể sạch
118
mùi mồ hôi và cáu ghét, dùng nước thơm để tắm, sau đó mặc quần áo đã giặt sạch,
chẳng nhất thiết là loại quần áo đẹp đẽ hay đắt tiền, cốt sao cho sạch tức là cung
kính Phật rồi.
“Tâm phải thanh tịnh, không chút vẩn đục, không tâm giận dữ, hại bất
cứ ai”, tâm phải thanh tịnh, không vẩn đục, không giận dữ, bao nhiêu tư tưởng bẩn
thỉu, rác rưởi trong đầu phải gột rửa để tâm được thanh tịnh, không chút giận dữ
tổn hại người khác; “đối với hết thảy các loài hữu tình, khởi tâm lợi ích an vui
từ bi hỷ xả bình đẳng”, đối với hết thảy các loài hữu tình, khởi tâm mong sự lợi
ích an vui cho tất cả, cùng với tâm từ bi hỷ xả và bình đẳng; “cử nhạc ca tán,
nhiễu quanh tượng Phật, về bên tay mặt”, cử nhạc rồi hát bài tán, đi nhiễu
quanh tượng đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang về bên tay phải; “lại phải ghi nhớ,
công đức bổn nguyện của đức Phật kia, đọc tụng kinh này”; “suy nghĩ nghĩa
kinh”, suy ngẫm nghĩa lý của Kinh Bổn Nguyện Công Đức của đức Phật Dược Sư
Lưu Ly Quang; “diễn thuyết khai thị, rồi những điều cầu, đều được toại
nguyện, cầu sống lâu được sống lâu, cầu giàu có được giàu có, cầu chức quan
được chức quan, cầu trai gái được trai gái”. Như vậy chúng ta đủ thấy rằng
công đức kinh của đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang to lớn biết chừng nào! Chỉ
cần thành tâm là các điều mong cầu của quý vị sẽ linh ứng.
Lại hễ có người, bỗng thấy mộng ác, những hình tướng ác, hoặc chim
quái ác, ở đâu đến đậu, hoặc có lắm sự, quái ác hiện ra, tại ngay chỗ ở, người
ấy nếu đem các thứ quý giá, cung kính cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai, thời những mộng ác, những hình tướng ác, những
điều chẳng lành, đều biến mất hết, chẳng làm hại được. Hoặc có sợ hãi tai nạn
thủy hỏa, đao binh độc chất, cheo leo hiểm nghèo, voi dữ sư tử, hùm sói gấu
bi, rắn độc bọ cạp, rết độc sâu bọ, ruồi muỗi các loại, nếu dốc một lòng, niệm
đức Phật kia, cung kính cúng dường, thời các sợ hãi, đều được giải hết. Nếu có
119
nước khác, xâm lấn quấy rối, giặc cướp phản loạn, thời người cung kính, niệm
đức Phật kia, cũng đều giải thoát.
Nhược phục hữu nhân, hốt đắc ác mộng, kiến chư ác tướng, hoặc
quái điểu lai tập, hoặc ư trú xứ, bách quái xuất hiện, thử nhân nhược dĩ
chúng diệu tư cụ, cung kính cúng dường bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai giả, ác mộng ác tướng, chư bất cát tường giai tất ẩn một,
bất năng vi hoạn; hoặc hữu thủy hỏa đao độc huyền hiểm, ác tượng, sư
tử, hổ lang hùng bi, độc xà ác yết, ngô công du diên, văn manh đẳng bố,
nhược năng chí tâm ức niệm bỉ Phật, cung kính cúng dường, nhất thiết bố
úy, giai đắc giải thoát; nhược tha quốc xâm nhiễu, đạo tặc phản loạn, ức
niệm cung kính bỉ Như Lai giả, diệc giai giải thoát.
“Lại hễ có người, bỗng thấy mộng ác”, nghĩa là giả dụ có người bỗng
nhiên gặp ác mộng, trong giấc mộng thấy chuyện chẳng lành, chẳng hạn thấy
mình chết, thấy người khác chết, mình bị đụng xe, thấy người nhảy xuống biển, đại
khái những điều chẳng lành v.v..; “những hình tướng ác”, như thấy một con quỷ
la-sát dữ tợn, một con yêu miệng rộng giơ nanh, hoặc ông thiên lôi đương cầm búa
lăm le bổ xuống, nói chung là các cảnh đất động, núi lở, sóng thần, những sự việc
kinh khủng mà người ta gặp trong cơn ác mộng; “hoặc chim quái ác, ở đâu đến
đậu”, hoặc giả các loại chim kỳ quái đến tụ tập trên nóc nhà, như loại cú đầu mèo,
cú vọ, quạ; “hoặc có lắm sự, quái ác hiện ra, tại ngay chỗ ở”, hoặc nơi cư ngụ có
cả trăm loài yêu quái xuất hiện, ban ngày thấy quỷ, ban đêm thấy ma, như thấy cây
chổi quét nhà tự nó đi đi lại lại, cái bầu nước bay lơ lửng trên không, nói chung là
trăm ngàn sự việc kỳ quái xuất hiện.
120
“Thử nhân” nghĩa là người ấy, hay gia đình ấy, “nếu đem các thứ quý
giá”, nếu dùng các đồ quý giá, thuộc loại đắt tiền; “cung kính cúng dường đức
Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời những mộng ác, những hình
tướng ác, những điều chẳng lành, đều biến mất hết”, đem những thứ đó để cúng
dường đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai một cách cung kính, thời những
mộng ác, tướng ác, tỷ dụ như trong mộng thấy rắn, thấy hổ, sói, beo, sâu bọ, tất cả
những thứ chẳng lành đó, bỗng dưng tiêu tan hết. Cho nên bất kể người nào trong
chúng ta, nếu trong nhà xảy ra những sự tình chẳng lành, chúng ta nên gấp gáp
cúng dường đức Phật Dược Sư một cách cung kính, thì ắt sẽ có điều cát tường đến,
mọi rắc rối sẽ biết mất; “chẳng làm hại được”, không còn lo ngại vấn đề gì nữa;
“Hoặc có sợ hãi tai nạn thủy hỏa, đao binh độc chất, cheo leo hiểm nghèo”,
hoặc bị nước nhấn chìm, bị lửa đốt, bị dao chém, gặp chất độc, hoặc ở chỗ cheo
leo hiểm nghèo; “voi dữ sư tử, hùm sói gấu bi, rắn độc bọ cạp, rết độc sâu bọ,
ruồi muỗi các loại”, các loại voi dữ, sư tử, hổ, báo, gấu đen, bi – “bi” cũng là một
loại ác thú - rắn độc, bọ cạp, rết, sâu du diên, tức là loài sâu chuyên hút tủy não
trong đầu, ruồi muỗi hay các loại sâu bọ có hại, nói chung các thứ gây nên sợ hãi;
“nếu dốc một lòng, niệm đức Phật kia, cung kính cúng dường, thời các sợ hãi,
đều được giải hết”, nếu như dốc lòng nhớ tới đức Phật Dược Sư, rồi cúng dường
một cách cung kính, thì tất cả mọi thứ sợ hãi đều được giải trừ; “Nếu có nước
khác, xâm lấn quấy rối, giặc cướp phản loạn, thời người cung kính, niệm đức
Phật kia, cũng đều giải thoát”, nếu có một nước khác đến xâm lược, hay là trong
nước đạo tặc hay phản loạn nổi lên, song trong lòng luôn luôn nhớ tới đức Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì các nạn này cũng được giải trừ. Tóm lại, hết thảy
các tai nạn đều nhất loạt tiêu tan, xấu đổi thành tốt, điều chẳng lành biến thành điều
may mắn.
121
Còn nữa này ông Văn thù Sư Lợi! Nếu có những người, thiện nam thiện
nữ, lòng tin thanh tịnh, cho đến hết đời chẳng thờ thần khác, chỉ dốc một lòng
quy Phật Pháp Tăng, chịu giữ cấm giới, hoặc năm giới, mười giới, bốn trăm
giới Bồ tát, hai trăm năm mươi giới Bật-sô, năm trăm giới Bật-sô-ni, nếu
trong chỗ giới, có ai vi phạm sợ đọa đường ác, mà hay chuyên niệm danh hiệu
Phật kia, cung kính cúng dường, thì quyết chẳng sanh, vào ba đường ác. Hoặc
có nữ phụ, tới khi sanh nở, chịu rất đau đớn, nếu hay dốc lòng niệm danh hiệu
Phật, lễ bái tán thán, cung kính cúng dường, thì mọi đau khổ, đều tự diệt hết,
đứa con sanh ra thân phận đầy đủ, hình dáng đoan chính, ai thấy cũng mừng,
thông minh sáng láng, an ổn ít bệnh, không bị phi nhân, đoạt mất tinh khí.
Phục thứ Mạn Thù Thất Lợi! Nhược hữu tịnh tín thiện nam tử, thiện
nữ nhân đẳng, nãi chí tận hình bất sự dư thiên, duy đương nhất tâm quy
Phật Pháp Tăng, thọ trì cấm giới, nhược ngũ giới, thập giới, Bồ tát tứ bách
giới, Bí sô nhị bách ngũ thập giới, Bí sô ni ngũ bách giới, ư sở thọ trung,
hoặc hữu hủy phạm, bố đọa ác thú, nhược năng chuyên niệm bỉ Phật danh
hiệu, cung kính cúng dường giả, tất định bất thọ tam ác thú sanh; hoặc
hữu nữ nhân lâm đương sản thời, thọ ư cực khổ, nhược năng chí tâm xưng
danh lễ tán, cung kính cúng dường bỉ Như Lai giả, chúng khổ giai trừ, sở
sanh chi tử, thân phận cụ túc, hình sắc đoan chính, kiến giả hoan hỷ, lợi
căn thông minh, an ổn thiểu bệnh, vô hữu phi nhân đoạt kỳ tinh khí.
“Còn nữa này ông Văn thù Sư Lợi!”. Đức Phật Thích-ca lại nhắc: “Còn
nữa, này ông Văn Thù Sư Lợi”; “Nếu có những người, thiện nam thiện nữ, lòng
tin thanh tịnh”, nếu có những thiện nam và thiện nữ có lòng tin thanh tịnh; “cho
122
đến hết đời”, tận hình là hết một đời; “chẳng thờ thần khác” (bất sự dư thiên),
tức là không lễ bái trời đất, quỷ thần, không theo các đạo khác v.v..; “chỉ dốc một
lòng quy Phật Pháp Tăng”, dốc một lòng nương tựa Phật Pháp Tăng; “thọ trì
cấm giới”, cấm nghĩa là không được làm, giới cấm thì phải giữ một cách nghiêm
cẩn; “hoặc năm giới” như năm giới cấm là: giết hại chúng sanh, trộm cắp, dâm tà,
nói dối, uống rượu; “mười giới”, còn gọi là giới Sa-di; “bốn trăm giới Bồ tát, hai
trăm năm mươi giới Bí-sô, năm trăm giới Bí-sô-ni”, bốn trăm giới của các vị
Bồ-tát, hai trăm năm mươi giới của các Tỳ-kheo, còn đối với các Tỳ-kheo-ni thì có
năm trăm giới.
“Nếu trong chỗ giới”, nghĩa là trong phạm vi các giới cấm; “có ai vi
phạm”, hễ có sự vi phạm, cố ý hay không cố ý; “sợ đọa đường ác”, lòng rất sợ
hãi sẽ bị đọa vào ba đường ác; “mà hay chuyên niệm danh hiệu Phật kia”, nếu
như thành khẩn và thiết tha niệm danh hiệu của đức Phật kia, nghĩa là niệm: “Nam-
mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật”; “cung kính cúng dường, thì quyết chẳng
sanh, vào ba đường ác”, thành tâm khẩn thiết cung kính và cúng dường thì người
đó nhất định không bị sa vào các đường ác, như đọa địa ngục, hoặc làm quỷ đói
hay làm kiếp súc sanh.
“Hoặc có nữ phụ, tới khi sanh nở, chịu rất đau đớn”, giả dụ trường hợp
phụ nữ, lúc sắp sanh con, đau đớn không chịu nổi; “nếu hay dốc lòng niệm danh
hiệu Phật, lễ bái tán thán, cung kính cúng dường”, nếu người đó dốc lòng xưng
tán danh hiệu, hoặc giả cung kính cúng dường đức Phật kia, tức đức Thế Tôn Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “thì mọi đau khổ, đều tự diệt hết”, thì các sự đau
đớn sẽ được giải trừ.
“Đứa con sanh ra thân phận đầy đủ”, đứa con sanh ra, dầu trai hay gái,
đều đủ cả sáu căn, không phải như trường hợp thiếu một cái tai hay thiếu một con
mắt, mũi, miệng v.v.. tóm lại thân thể hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh.
123
“Hình dáng đoan chính, ai thấy cũng mừng, thông minh sáng láng, an
ổn ít bệnh, không bị phi nhân, đoạt mất tinh khí”, đây nói về tướng mạo của
đứa trẻ thì tốt đẹp, hoàn hảo, ai trông thấy cũng ưa, các căn thì sáng láng, thông
minh lạ thường, sức khỏe tốt, ít đau ốm, lại không gặp cảnh huống bị bọn yêu quái
đoạt mất tinh khí. Tại sao được như vậy? Bởi đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai có oai thần lớn nên hết thảy các loài yêu ma quỷ quái, các loại
ngưu quỷ, xà thần đều phải xa lánh.
※※※
※※※ ※※※
Ngày hôm nay, tôi có điều này báo cho các quý vị hay là những người ở Los
Angeles đây có duyên với một trong các vị Đại Bồ-tát. Khí hậu vùng Los Angeles
cũng na ná giống vùng Cửu Hoa Sơn bên Trung Hoa, nhân duyên cũng tương tự,
cho nên mọi người trong vùng này đều có duyên với Bồ-tát Địa Tạng. Cũng vì mối
quan hệ đó mà Kim Luân Thánh Tự đã tôn ngài Địa Tạng làm chủ và thờ ngài
Quán Âm làm Hộ Pháp, hộ trì cho đạo tràng. Trong tương lai chúng ta sẽ thỉnh một
tôn tượng của Ngài Địa Tạng về chùa Kim Luân này.
Có một điểm quý vị nên lưu ý. Ai muốn đảnh lễ Ngài Địa Tạng thì hãy tới
Kim Luân Thánh Tự. Muốn đảnh lễ Đức Quán Âm, hãy đến Vạn Phật Thánh
Thành, vì ở đó Bồ-tát Quán Thế Âm làm chủ, còn ngài Địa Tạng làm Hộ Pháp, hộ
trì cho đạo tràng kể trên. Nguyên nhân là tiết trời tại khu San Francisco cùng với
Phổ-đà sơn có điểm giống nhau, khí hậu không khác bao nhiêu, thành thử đạo
tràng của Bồ-tát Quán Âm đã đặt ở nơi đó.
Vancouver là đạo tràng của ngài Văn-thù vì ngài Văn-thù thường thường thị
hiện tại đây. Ở Vancouver có một quả núi, thường phát ra ánh sáng, đó là do ngài
Văn Thù phóng quang. Đạo tràng tại Seattle thì tôn ngài Phổ Hiền làm chủ, và ngài
124
Văn-thù làm Hộ Pháp. Ai muốn chiêm bái Bồ tát Phổ Hiền thì hãy đến Seattle,
cũng giống như quý vị triều bái Nga-mi sơn vậy.
Quý vị đều cư ngụ cách xa Trung quốc, muốn triều bái Bồ-tát Quán Thế Âm
thì khỏi cần đi xa, chúng ta hãy đến Vạn Phật Thánh Thành; muốn triều bái Cửu
Hoa Sơn thì đến Kim Luân Thánh Tự; muốn đi ngũ Đài Sơn chiêm bái ngài Văn
Thù Sư Lợi thì lại đến Vancouver. Để đáp ứng nhu cầu đó mà tôi đã thỉnh cả bốn
vị đại Bồ-tát, mời các Ngài đến bốn đạo tràng của địa phương này, đặng giúp cho
quý vị tiện đường chiêm bái mà không cần phải mất công đi xa.
Tôi nói bốn vị Bồ tát trú tại các đạo tràng nói trên, không có nghĩa rằng quý
vị đến đấy ắt sẽ trông thấy các Ngài. Đó chỉ là điều cảm ứng riêng của tôi, tôi nói
ra để quý vị biết. Còn tin hay không tin là tùy tâm quý vị.
(Tới chỗ này có một đoạn chử in màu nâu do một vị đệ tử bổ giảng vì băng thâu bị
sót mất)
Bấy giờ Thế Tôn, bảo A-nan rằng: Như ta khen ngợi công đức của đức
Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đó là những chỗ rất sâu của các
hành vi chư Phật, khó hiểu đến cùng. Ông có tin không?
Nhĩ thời Thế Tôn cáo A Nan ngôn: “Như ngã xưng dương bỉ Thế Tôn
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai sở hữu công đức, thử thị chư Phật thậm
thâm hành xứ, nan khả giải liễu, nhữ vị tín phủ?”
Chúng ta tu học Phật cần phải có lòng tin chân thật, lời nguyện thiết tha thì
mới có được lợi ích. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Lòng tin là gốc của Đạo,
125
là mẹ của công đức, nuôi dưỡng và phát triển hết thảy các thiện căn”. Nếu lòng tin
của chúng ta không đủ thì công đức không thể thành tựu được.
“Bấy giờ Thế Tôn, bảo A-nan rằng:”, lúc bấy giờ Phật bảo Tôn giả A-nan
rằng; “Như ta khen ngợi công đức của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai, đó là những chỗ rất sâu của các hành vi chư Phật”, như ở trên ta vừa
tán dương mọi công đức của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đó
đều là những cảnh giới trong đó hiển xuất những hành vi thâm diệu của chư Phật;
“khó hiểu đến cùng”, khó có thể hiểu tường tận, chỉ có Phật với Phật mới hiểu
được mà thôi, còn như phàm phu thì không hiểu được, cũng không tưởng tượng
được; “Ông có tin không?”, ông A-nan! Ông có tin không? Ông có thực thà tin
những lời tôi nói mà không có chút hoài nghi nào không?
A-Nan bạch rằng: Đại đức Thế Tôn! Con đối với kinh của Phật đã nói,
chẳng sanh nghi hoặc, là vì lẽ sao? Vì rằng ba nghiệp thân ngữ ý của hết thảy
chư Phật đều thanh tịnh cả. Đại đức Thế Tôn! Vầng nhật nguyệt kia, làm rơi
xuống được, núi Diệu Cao Vương làm nghiêng đổ được, lời chư Phật nói
không có khác được.
A Nan bạch ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ngã ư Như Lai sở thuyết khế
kinh bất sinh nghi hoặc, sở dĩ giả hà? Nhất thiết Như Lai, thân ngữ ý
nghiệp, vô bất thanh tịnh. Thế Tôn! Thử nhật nguyệt luân, khả linh đọa
lạc, Diệu cao sơn vương, khả sử khuynh động, chư Phật sở ngôn, vô hữu dị
dã.
126
“A-Nan bạch rằng:”, Tôn giả A-nan đáp lại rằng; “Đại đức Thế Tôn!”
Ông A-nan dùng chữ đại đức để thưa lên Phật; “Con đối với kinh của Phật đã
nói” (Ngã ư Như Lai sở thuyết khế kinh), đối với khế kinh mà Phật đã giảng
thuyết. Chữ “khế” là khế hợp, là ăn khớp, trên thì khế hợp với đạo lý của chư
Phật, dưới thì khế hợp với căn cơ của chúng sanh; “chẳng sanh nghi hoặc, là
vì lẽ sao?” con không có điều gì nghi hoặc, lý do gì?; “Vì rằng ba nghiệp thân
ngữ ý của hết thảy chư Phật đều thanh tịnh cả”; bởi lẽ đối với hết thảy các chư
Phật, thì thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp của các Ngài, không có chỗ nào là
không thanh tịnh, không có điểm nào là ô nhiễm, không có điểm nào là không chân
thực.
“Đại đức Thế Tôn! Vầng nhật nguyệt kia, làm rơi xuống được”, bạch
Thế Tôn! Vầng mặt trăng và mặt trời kia của cái thế gian này, có thể làm cho rớt
xuống; “núi Diệu Cao Vương làm nghiêng đổ được”, Diệu Cao Sơn, hay còn gọi
là núi Tu-di. Diệu Cao Sơn kia có thể làm cho đổ, tóm lại tất cả mọi thứ trên đời
đều có thể bị biến đổi, nhưng “lời chư Phật nói không có khác được.”, những
điều chư Phật nói đều là chân thật chẳng hư dối, không có cách gì mà nói khác
được.
Bạch đức Thế Tôn! Có những chúng sanh, tín căn chẳng đủ, nghe nói
đến những công hạnh sâu mầu của chư Phật, mà nghĩ ra rằng, làm gì chỉ niệm
một danh hiệu Phật của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, mà được ngay
những thắng lợi công đức, nhiều đến như vậy! Vì chẳng tin vậy, sinh ra phỉ
báng, người đó ở chỗ đêm dài tối mịt, mất hết lợi lạc, đọa các đường ác, lưu
chuyển vô cùng.
Thế Tôn! Hữu chư chúng sanh, tín căn bất cụ, văn thuyết chư Phật
thậm thâm hành xứ, tác thị tư duy: vân hà đản niệm Dược Sư Lưu Ly
127
Quang Như Lai nhất Phật danh hiệu, tiện hoạch nhĩ sở công đức thắng lợi,
do thử bất tín, phản sinh phỉ báng, bỉ ư trường dạ, thất đại lợi lạc, đọa chư
ác thú, lưu chuyển vô cùng.
“Bạch đức Thế Tôn! Có những chúng sanh, tín căn chẳng đủ”, Tuy
nhiên, bạch Thế Tôn! Có những chúng sanh, lòng tin không đủ, hoài nghi còn
nặng, vì họ không có căn lành về tín tâm, cho nên “nghe nói đến những công
hạnh sâu mầu (thậm thâm sở hành) của chư Phật”, nghe nói tới những chỗ thâm
sâu, tức là những hành vi tạo tác của chư Phật, trong đó toàn là những điều khó
lường được về trí huệ, phước đức và thần thông diệu dụng của các Ngài; “mà nghĩ
ra rằng”, những người đó đã có sẵn lòng nghi hoặc, nên họ mới khởi lên ý nghĩ
này; “làm gì chỉ niệm một danh hiệu Phật của đức Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai, mà được ngay những thắng lợi công đức, nhiều đến như vậy!”, tại
làm sao chỉ niệm danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chỉ một
danh hiệu thôi mà lại có được vô lượng vô biên công đức và những lợi ích tột bực
như vậy?; “Vì chẳng tin vậy, sinh ra phỉ báng”, bởi vậy họ chẳng tin, mà ngược
lại còn sinh lòng phỉ báng. Họ bảo rằng: “Phật lừa gạt mọi người, nói những lời dối
trá, làm những việc dối trá”, đại khái họ thốt ra những lời điên đảo như vậy rồi còn
xui khiến người khác sanh tâm hoài nghi đối với Tam Bảo.
“Người đó ở chỗ đêm dài tối mịt, mất hết lợi lạc”, những loại người đó
như ở trong đêm dài, tối mịt, mất hết mọi thứ lợi ích và hoan lạc; “đọa các đường
ác, lưu chuyển vô cùng”. Bị đọa vào các đường ác, như vào địa ngục, hay làm
thân quỷ đói, súc sanh, rồi cứ như vậy luân chuyển không bao giờ ngừng.
Phật bảo A-nan, nếu nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai, dốc lòng trì niệm, chẳng sinh nghi hoặc, thời chẳng khi nào phải đọa
128
đường ác. Này A-nan! Đó là những công hạnh sâu mầu của chư Phật, rất khó
tin hiểu. Nay ông tin được thì nên biết rằng đó là thần lực của đức Như Lai.
Này A-nan! Hết thảy các vị, Thanh văn Độc giác, cùng các Bồ tát, hàng vị
đăng Địa, cũng đều chưa thể thực tin và hiểu. Duy hàng Bồ tát, còn một kiếp
sanh, mới thực tin hiểu. Này A-nan! Thân người khó được, có lòng tin kính,
tôn trọng Tam Bảo cũng rất khó được; nghe đến danh hiệu, Thế Tôn Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai, cũng khó như vậy. Này A-nan! Đức Thế Tôn Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai, có hạnh Bồ-tát, nhiều không xiết kể, phương tiện
khéo léo, nhiều không xiết kể, nguyện lớn cũng nhiều, không sao xiết kể. Nếu
lấy một kiếp, hay hơn một kiếp, để ta nói rộng, thì các hạnh nguyện của đức
Phật kia, cùng những phương tiện khéo léo của Ngài không bao giờ hết.
Phật cáo: A Nan! Thị chư hữu tình, nhược văn Thế Tôn Dược Sư Lưu
Ly Quang Như Lai danh hiệu, chí tâm thọ trì, bất sanh nghi hoặc, đọa ác
thú giả, vô hữu thị xứ. A Nan! Thử thị chư Phật thậm thâm sở hành, nan
khả tín giải, như kim năng thọ, đương tri giai thị Như Lai uy lực. A Nan!
Nhất thiết Thanh văn Độc giác, cập vị đăng Địa chư Bồ tát đẳng, giai tất
bất năng như thực tín giải, duy trừ nhất sinh sở hệ Bồ tát. A Nan! Nhân
thân nan đắc, ư Tam Bảo trung, tín kính tôn trọng, diệc nan khả đắc, văn
Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai danh hiệu, phục nan ư thị. A Nan!
Bỉ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, vô lượng Bồ tát hạnh, vô lượng Bồ tát
thiện xảo phương tiện, vô lượng quảng đại nguyện, ngã nhược nhất kiếp,
nhược nhất kiếp dư, nhi quảng thuyết giả, kiếp khả tốc tận, bỉ Phật hạnh
nguyện thiện xảo phương tiện, vô hữu tận dã.
129
“Phật bảo A-nan, nếu nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai”, Phật bảo Ông A-nan rằng nếu các hữu tình kia, tức là những người vừa
nói ở trên, được nghe đến danh hiệu của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai; “chẳng sinh nghi hoặc, thời chẳng khi nào phải đọa đường ác”, nghe
rồi lại dốc lòng chí thành và khẩn thiết thọ trì, chẳng có chút gì nghi hoặc, thì
những người đó chẳng khi nào phải đọa vào các đường ác; “Này A-nan! Đó là
những chỗ hành vi rất sâu của các đức Phật, rất khó tin hiểu”, đó là những chỗ
hành vi của chư Phật, những gì các chư Phật làm, có tầm trí huệ rất là thâm sâu, rất
khó tin và rất khó hiểu.
“Nay ông tin được thì nên biết rằng đó là thần lực của đức Như Lai”,
như nay ông có thể tin được và tiếp thọ thì phải biết rằng đó chẳng phải do sức của
chính ông mà do oai lực thần diệu của Phật gia bị cho ông, khiến ông có được một
lòng tin tuyệt đối như vậy. Tại sao vậy? “Này A-nan! Hết thảy các vị, Thanh văn
Độc giác”, Này ông A-nan, không kể tới các hạng phàm phu chúng sanh, ngay đến
những vị đã có tu chứng, đã được Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, Tứ quả, của hàng
Thanh văn, và Độc giác tức quả Bích-chi Phật; “cùng các Bồ tát, hàng vị đăng
Địa, cũng đều chưa thể thực tin và hiểu. Duy hàng Bồ tát, còn một kiếp sanh,
mới thực tin hiểu” cũng như các vị Bồ-tát chưa vào được Sơ địa, cũng chưa thể có
lòng tin hiểu một cách chân thật. Chỉ ngoại trừ các vị Bồ tát chỉ còn một kiếp sanh,
tức đã tới hàng Đẳng giác, hay Bồ tát nhất sinh bổ xứ mới có được lòng tin chân
thực chẳng đổi.
“Này A-nan! Thân người khó được”, Ông A-nan, làm được thân người là
khó; “có lòng tin kính, tôn trọng Tam Bảo cũng rất khó được”, trong Tam Bảo
đối với Phật, Pháp, Tăng mà có lòng tin, cung kính và trân trong, cũng là việc khó.
Vậy mà “nghe đến danh hiệu, Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cũng
130
khó như vậy”, nghe được danh hiệu của đức Phật kia là Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai thì còn khó hơn nữa.
“Này A-nan! Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, có hạnh
Bồ-tát, nhiều không xiết kể, phương tiện khéo léo, nhiều không xiết kể,
nguyện lớn cũng nhiều, không sao xiết kể”, Phật lại bảo: Ông A-nan, Thế Tôn
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia đã tu vô lượng vô biên các hạnh Bồ tát, đã
vận dụng vô lượng vô biên những phương tiện khéo léo, cũng như phát những
nguyện lớn nhiều không xiết kể; “Nếu lấy một kiếp, hay hơn một kiếp, để ta nói
rộng, thì các hạnh nguyện của đức Phật kia, cùng những phương tiện khéo léo
của Ngài không bao giờ hết”, giả dụ ta giảng giải rộng những thứ đó thì thời gian
dài trong một kiếp, hay hơn một kiếp, có thể chóng hết, mà các hạnh nguyện và
phương tiện khéo léo của ngài kể ra không thể hết được.
(Đến chỗ này là hết phần bổ túc thay thế cho phần thâu âm bị mất)
Trong chúng bấy giờ, có đại Bồ-tát, tên là Cứu Thoát, liền từ tòa khởi,
đứng dậy kéo áo, hở vai bên phải, quỳ gối bên phải, sát xuống tận đất, cúi
mình chắp tay, mà bạch Phật rằng: Đại đức Thế Tôn! Khi Tượng Pháp
chuyển, có những chúng sanh, bị nhiều hoạn nạn, làm cho khốn khổ, đau ốm
gầy mòn, chẳng ăn uống được, cổ ráo môi khô, thấy mọi phương tối, tướng
chết hiện ra, cha mẹ thân thuộc, bạn bè quen biết, xúm quanh than khóc, thân
người đau kia, vẫn nằm yên đấy, mà thấy sứ giả, của vua Diêm Ma, dẫn thần
thức mình đến trước cửa tòa pháp vương Diêm Ma. Những người hữu tình,
người nào cũng có, một thần câu sinh, người ấy làm gì, tội ấy phước ấy, đều
được ghi lại, rồi đem trình hết, cho vua Diêm Ma. Bấy giờ vua liền, xét hỏi
người ấy, tính toán mọi việc người ấy đã làm, theo chỗ tội phước, mà định xét
xử ấy. Như vào lúc ấy, có người thân thuộc, hay người quen biết, những người
131
bệnh ấy, quy y Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cho người bệnh ấy,
mời đón chư Tăng, đọc tụng kinh này, đốt đèn bảy tầng, treo phướn tục
mạng, có đủ năm màu. Lập được Pháp hội như thế, thì thần thức người ấy, sẽ
được trở về, như trong giấc mộng, thấy rõ mọi sự.
Nhĩ thời chúng trung hữu nhất Bồ tát ma-ha-tát, danh viết Cứu
Thoát, tức tòng tòa khởi thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, khúc cung
hợp chưởng, nhi bạch Phật ngôn: Đại đức Thế Tôn! Tượng Pháp chuyển
thời, hữu chư chúng sanh vị chủng chủng hoạn chi sở khốn ách, trường
bệnh luy sấu, bất năng ẩm thực, hầu thần càn táo, kiến chư phương ám,
tử tướng hiện tiền, phụ mẫu thân thuộc bằng hữu tri thức, đề khấp vi
nhiễu, nhiên bỉ tự thân ngọa tại bản xứ, kiến Diêm-ma sứ, dẫn kỳ thần
thức chí ư Diêm-ma pháp vương chi tiền, nhiên chư hữu tình, hữu câu sinh
thần, tùy kỳ sở tác, nhược tội nhược phước, giai cụ thư chi, tận trì thọ dữ
Diêm-ma pháp vương; nhĩ thời bỉ vương thôi vấn kỳ nhân, kế toán sở tác,
tùy kỳ tội phước, nhi xử đoán chi. Thời bỉ bệnh nhân thân thuộc, tri thức,
nhược năng vị bỉ quy y Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thỉnh chư
chúng Tăng chuyển độc thử kinh, nhiên thất tằng chi đăng, huyền ngũ sắc
tục mệnh thần phan, hoặc hữu thị xứ, bỉ thức đắc hoàn, như tại mộng
trung, minh liễu tự kiến.
Đoạn kinh văn nói trên cho biết về các hạnh nguyện và những phương tiện
khéo léo của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nhiều không kể xiết,
nói cho đến kiếp vị lai cũng không hết được.
“Trong chúng bấy giờ, có đại Bồ-tát, tên là Cứu Thoát”, lúc bấy giờ ở
trong đại chúng có một vị thuộc hàng đại Bồ-tát, tên là Bồ tát Cứu Thoát; “liền từ
132
tòa khởi, đứng dậy kéo áo, hở vai bên phải, quỳ gối bên phải, sát xuống tận
đất, cúi mình chắp tay, mà bạch Phật rằng:”, từ chỗ ngồi, đứng dậy, để lộ trần
phía vai bên phải, còn đầu gối bên phải thì quỳ xuống mà bạch Phật rằng :
“Đại đức Thế Tôn!” Vị Bồ-tát này xưng lên Phật là Đại đức Thế Tôn;
“Tượng Pháp chuyển thời”, khi thời Tượng Pháp chuyển, tức là khi thời kỳ
Chánh Pháp đã qua, đến thời Tượng Pháp. Thời kỳ Chánh Pháp được coi là thời kỳ
của thiền định kiên cố, nên có rất nhiều người chứng quả, đó là quả A-la-hán. Còn
thời Tượng Pháp thì được coi là thời kỳ của chùa miếu kiên cố, người ta chuyên
đúc tượng và xây chùa;
“Có những chúng sanh, bị nhiều hoạn nạn, làm cho khốn khổ, đau ốm
gầy mòn, chẳng ăn uống được, cổ ráo môi khô, thấy mọi phương tối, tướng
chết hiện ra”, có những chúng sanh bị nhiều thứ bệnh hoạn làm cho đau đớn khổ
sở, rồi lâu ngày ốm yếu, da bọc xương, ăn không được, uống không được, cổ họng
và môi khô, vậy mà nước cũng không uống được, khốn khổ vô cùng. Họ nhìn ra
xung quang thì chỗ nào cũng là đen tối, tự mình cảm thấy cái chết gần kề; “cha mẹ
thân thuộc, bạn bè quen biết, xúm quanh than khóc”, lúc đó cha mẹ, hoặc
quyến thuộc, hoặc bạn bè, những người quen biết, ai nấy đều xúm lại khóc lóc;
“mà thấy sứ giả, của vua Diêm Ma, dẫn thần thức mình đến trước cửa tòa
pháp vương Diêm Ma”, còn bản thân người bệnh, vẫn nằm yên tại chỗ, mà thấy
những sứ giả của vua Diêm-Ma dẫn thần thức của họ, hay còn gọi là thần hồn, đến
trước tòa của vua Diêm Ma.
“Những người hữu tình, người nào cũng có, một thần câu sinh, người
ấy làm gì, tội ấy phước ấy, đều được ghi lại, rồi đem trình hết, cho vua Diêm
Ma”, phàm là giống hữu tình, ai nấy đều có “thần câu sinh”, nghĩa là cùng sanh ra
với mình và theo mình suốt cả cuộc đời; thần này có khả năng ghi lại hết những
việc mình làm, những việc thiện việc ác, rồi trình lại hết cho vua Diêm ma. Cùng
lúc ấy, thần thức của những người quen biết khác cũng được đưa tới trước vua
133
Diêm Ma. Người đó thấy hết những điều người ấy đã làm trong đời, tội nào phước
nào đều hiện ra hết cả.
“Bấy giờ vua liền, xét hỏi người ấy, tính toán mọi việc người ấy đã làm,
theo chỗ tội phước, mà định xét xử ấy”, lúc bấy giờ, vua Diêm Ma mới tra hỏi
người ấy, tổng kết lại những điều người ấy đã làm, rồi cân nhắc hai phần tội và
phước mà định việc xử đoán.
“Như vào lúc ấy, có người thân thuộc, hay người quen biết, những
người bệnh ấy, quy y Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cho người
bệnh ấy”, lúc ấy, nếu có thân nhân của người bệnh như cha mẹ, anh em, vợ con,
hay những người quen biết, muốn vì lợi ích của người bệnh mà làm công đức, bằng
cách quy y đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “mời đón chư Tăng,
đọc tụng kinh này, đốt đèn bảy tầng, treo phướn tục mạng, có đủ năm màu.
Lập được Pháp hội như thế (hoặc hữu thị xứ)”, mời thỉnh các Tăng, tức là những
vị xuất gia tu hành đạo đức và giữ giới luật để tụng đọc kinh “Công Đức các Bổn
Nguyện của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, đốt đèn 7 tầng, mỗi
tầng 7 cây đèn, tổng cộng là 49 cây đèn, treo những lá phướn năm màu, gọi là
phướn tục mạng. Nếu cử hành pháp hội được đúng như thế, “thì thần thức người
ấy, sẽ được trở về, như trong giấc mộng, thấy rõ mọi sự”, thần thức của người
bệnh sẽ được trở về, giống như trải qua một giấc mộng, thấy các sự việc một cách
rõ ràng, rồi nhớ lại được các cảnh giới ấy.
Hoặc qua bảy ngày, hoặc hăm mốt ngày, hoặc ba lăm ngày, hoặc bốn
chín ngày, thần thức người ấy, khi được trở về, như tỉnh giấc mộng, tự mình
nhớ biết, quả báo của các nghiệp thiện bất thiện. Vì tự chứng kiến quả báo các
nghiệp, nên dù mắc nạn cũng chẳng dám làm những nghiệp ác nữa; vì thế cho
nên những người tịnh tín, thiện nam thiện nữ, đều nên trì niệm danh hiệu
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, tùy theo sức mình, cung kính cúng dường.
134
Hoặc kinh thất nhật, hoặc nhị thập nhất nhật, hoặc tam thập ngũ
nhật, hoặc tứ thập cửu nhật, bỉ thức hoàn thời, như tòng mộng giác, giai
tự ức tri thiện bất thiện nghiệp, sở đắc quả báo, do tự chứng kiến nghiệp
quả báo cố, nãi chí mệnh nạn, diệc bất tạo tác chư ác chi nghiệp; thị cố
tịnh tín thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, giai ưng thọ trì Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai danh hiệu, tùy lực sở năng, cung kính cúng dường.
“Hoặc qua bảy ngày, hoặc hăm mốt ngày, hoặc ba lăm ngày, hoặc bốn
chín ngày, thần thức người ấy, khi được trở về”, những thân thuộc hoặc bạn bè
hoặc đọc kinh, hoặc bái “Sám Dược Sư” với hy vọng thần thức người bệnh từ chỗ
vua Diêm la trở về, trong bao lâu chưa rõ, có thể trong 7 ngày, hay ba tuần lễ tức
21 ngày, hay năm tuần lễ tức 35 ngày, cho tới bảy tuần lễ tức 49 ngày. Khi trở về,
người đó có cảm giác “như tỉnh giấc mộng, tự mình nhớ biết, quả báo của các
nghiệp thiện bất thiện”, như y vừa ra khỏi một giấc mộng và nhớ lại rõ ràng quả
báo của các nghiệp thiện và nghiệp bất thiện; “Vì tự chứng kiến quả báo các
nghiệp, nên dù mắc nạn cũng chẳng dám làm những nghiệp ác nữa”, bởi tự
mình chứng nghiệm những quả báo do các việc làm của chính mình, cho nên dù
phải gặp nạn, người ấy cũng không dám tạo tác các nghiệp ác nữa; “vì thế cho nên
những người tịnh tín, thiện nam thiện nữ, đều nên trì niệm danh hiệu Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai, tùy theo sức mình, cung kính cúng dường”, bởi
vậy hết thảy các thiện nam và thiện nữ có lòng tin trong sạch đều nên thọ trì danh
hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nghĩa là phải nhớ và tụng danh
hiệu của Ngài, và tùy theo năng lực của mình để cúng dường đức Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai một cách thiết tha cung kính.
135
Bấy giờ Tôn giả A Nan hỏi Cứu Thoát Bồ Tát rằng: “Bạch Thiện nam
tử, nên cung kính cúng dường đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai như thế
nào? Còn đèn và phang tục mạng phải làm cách sao?”.
Ngài Cứu Thoát nói: Bạch Đại đức! Nếu có người bệnh, muốn thoát
bệnh khổ, nên vì người ấy, bảy ngày bảy đêm, chịu giữ cho đủ, tám phần trai
giới, tùy phương tiện riêng, sắm sửa đồ ăn, các thứ đồ dùng, để đem cúng
dường, các vị Bí-sô, ngày đêm sáu buổi, lễ bái hành đạo, cung kính cúng
dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đọc tụng kinh này, bốn
mươi chín lần, thắp bốn chín đèn, tạo bảy tôn tượng đức Như Lai kia, phía
trước mỗi tượng, đặt chín cái đèn, đèn nào cũng lớn như cái bánh xe, như vậy
cho đến, bốn mươi chín ngày, đèn sáng chẳng tắt; làm phướn năm màu, chiều
dài bằng cả, bốn chín gang tay, phải nên phóng sanh, cho đến bốn chín các
loài khác nhau, như vậy người bệnh, có thể qua được, ách nạn nguy khốn,
không bị bọn quỷ, hung ác bắt giữ.
Nhĩ thời A Nan vấn Cứu Thoát Bồ tát viết: Thiện nam tử ưng vân hà
cung kính cúng dường bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai? Tục
mệnh phan đăng, phục vân hà tạo? Cứu Thoát Bồ tát ngôn: Đại đức!
Nhược hữu bệnh nhân, dục thoát bệnh khổ, đương vị kỳ nhân, thất nhật
thất dạ thọ trì bát phần trai giới, ưng dĩ ẩm thực, cập dư tư cụ, tùy lực sở
biện, cúng dường Bí-sô Tăng, trú dạ lục thời lễ bái hành đạo cúng dường bỉ
Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, độc tụng thử kinh tứ thập cửu
biến, nhiên tứ thập cửu đăng, tạo bỉ Như Lai hình tượng thất khu, nhất
nhất tượng tiền, các trí thất đăng, nhất nhất đăng lượng, đại như xa luân,
nãi chí tứ thập cửu nhật, quang minh bất tuyệt, tạo ngũ sắc thái phan,
136
trường tứ thập cửu trích thủ, ưng phóng tạp loại chúng sanh, chí tứ thập
cửu, khả đắc quá độ nguy ách chi nạn, bất vi chư hoạnh ác quỷ sở trì.
“Bấy giờ Tôn giả A Nan hỏi Cứu Thoát Bồ Tát rằng:” Giảng kinh tới
chỗ này, Tôn giả A-nan thấy có điều chưa được rõ, nên ông mới hỏi Bồ tát Cứu
Thoát rằng: “Bạch Thiện nam tử, nên cung kính cúng dường đức Dược Sư Lưu
Ly Quang Như Lai như thế nào?” Xin hỏi Thiện nam tử, muốn cúng dường đức
Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai một cách cung kính, thì phải làm như
thế nào? “Còn đèn và phang tục mạng phải làm cách sao?” Cây đèn tục mạng
và cây phướn tục mạng là những cái gì? Bảy tầng đèn là ý nghĩa gì? Phương thức
chế tạo đèn như thế nào? Bày biện ra sao? Còn cách chế tạo cây phướn, phải làm
sao để chúng có khả năng tiếp nối mạng sống?
“Ngài Cứu Thoát nói:” Bồ-tát Cứu Thoát trả lời rằng: “Bạch Đại đức!
Nếu có người bệnh, muốn thoát bệnh khổ, nên vì người ấy, bảy ngày bảy đêm,
chịu giữ cho đủ, tám phần trai giới”, Bạch đại đức! Nếu về sau ở cõi Ta-bà này,
có người ốm đau mà muốn thoát khỏi bệnh khổ thì hãy vì người đó mà giữ đủ tám
phần trai giới, nghĩa là tu bát quan trai giới, trong bảy ngày bảy đêm; “tùy phương
tiện riêng, sắm sửa đồ ăn, các thứ đồ dùng, để đem cúng dường, các vị Bí-sô”,
lại phải nên sắm sửa các đồ ăn uống, cùng những thứ nhu yếu hàng ngày, tùy theo
khả năng riêng của mình để cúng dường các chư Tăng; “ngày đêm sáu buổi, lễ
bái hành đạo, cung kính cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai”, ngày đêm sáu thời, ngày ba buổi, đêm ba buổi, lễ bái đức Dược Sư Lưu
Ly Quang Như Lai với hết cả tấm lòng chí thành khẩn thiết; “đọc tụng kinh này,
bốn mươi chín lần, thắp bốn chín đèn, tạo bảy tôn tượng đức Như Lai kia”
đọc kinh Công Đức Bổn Nguyện của Ngài, bốn mươi chín lần, đốt bốn mươi chín
ngọn đèn, tạo bảy tôn tượng của Ngài Dược Sư; “phía trước mỗi tượng, đặt chín
137
cái đèn”, trước mỗi tôn tượng của Ngài thì bày bảy cây đèn; có tất cả bảy tôn
tượng vậy số đèn tổng cộng là bốn mươi chín ngọn; “đèn nào cũng lớn như cái
bánh xe”, cỡ các cây đèn này thời to nhỏ ra sao? Nói đèn lớn bằng bánh xe, nhưng
bánh xe có thứ to thứ nhỏ. Không nhất định cỡ nào, nói tóm lại điểm chủ yếu là
phải thành tâm; “như vậy cho đến, bốn mươi chín ngày, đèn sáng chẳng tắt”,
đốt đèn như vậy liên tục trong bốn mươi chín ngày, lúc nào đèn cũng phải sáng,
không được để cho tắt. Muốn giữ được như vậy, người ta phải châm dầu luôn luôn,
thì đèn mới sáng liên tục được.
“Làm phướn năm mầu, chiều dài bằng cả, bốn chín gang tay, phải nên
phóng sanh, cho đến bốn chín các loài khác nhau, như vậy người bệnh, có thể
qua được, ách nạn nguy khốn, không bị bọn quỷ, hung ác bắt giữ”. Làm phướn
đủ năm mầu, chiều dài cỡ bốn mươi chín gang tay; phải phóng sanh, đủ các loại.
Trên lá phướn, vẽ ra nhiều giống, có thể vẽ 12 con muông thú tượng trưng cho
vòng hoàng đạo rồi phóng sanh các loại đó. Nói là tạp loại nghĩa là nhiều loại khác
nhau, chủ yếu là nhiều, có khi hơn cả con số bốn mươi chín loại. Người bệnh có
thể vượt qua được ách nạn do các thứ ác quỷ, oán quỷ chi phối. Các nạn đó bao
gồm các nạn về chết đuối, chết cháy, tai nạn xe hơi, máy bay, thuyền máy v.v.., nói
tóm lại, hết thảy các tai nạn đều được miễn trừ.
※※※
※※※ ※※※
Đối với nghĩa lý của lời kinh, quý vị thấy có điểm nào hoài nghi chăng?
Hoặc giả quý vị có kiến giải riêng mới nẩy sinh, hoặc có ý kiến gì về lời giải thích
kinh văn? Quý vị cứ tự nhiên trình bầy để chúng ta cùng nhau nghiên cứu. Như có
câu nào trong kinh mà quý vị thấy có điểm hoài nghi, hay ý nghĩa trong câu chưa
được minh bạch, chúng ta cũng đưa ra để cùng thảo luận.
138
Đạo lý mà chúng ta học trong Phật giáo chẳng phải là đạo lý của quý vị hay
của tôi, mà cũng chẳng phải là đạo lý của đức Phật nữa. Đó chính là đạo lý của “lô-
gích” (logic) và của trí huệ mà mọi người cần tuân thủ. Phật giáo chẳng phải như
các tôn giáo khác, chỉ dành lấy lẽ phải riêng về mình một cách ngược ngạo, thi
hành đường lối ngu dân, độc tài, để áp chế người, bắt mọi người nghe theo mình
mà không được đặt vấn đề nào khác. Còn Phật giáo thì biểu hiện một trí huệ cộng
đồng. Cái gì có phù hợp với trí huệ thì mới gọi là chân lý; không phù hợp thì cái lý
luận đó không thể áp dụng được. Đạo lý của Phật giáo không phải là thứ gì do một
quyền lực độc tài, chuyên chế hoặc từ một chính sách ngu dân đưa ra, cho nên ai
nấy trong chúng ta đều có quyền phát biểu và chúng ta hãy dùng trí huệ của mình
để phán xét lý luận nào là đúng, lý luận nào là sai. Chúng ta phải có con mắt chọn
pháp (trạch pháp nhãn), mình làm chủ lấy mình, chớ không phải ai nói sao cũng
nghe theo làm vậy, hoặc giả không dám tự mình phát huy trí huệ sẵn có của mình.
Như vậy là sai lầm! Chúng ta còn phải tận lực khai mở loại trí huệ chân chính này
trong mỗi người của chúng ta.
Trí huệ của chư Phật là cùng một loại. Còn kinh thì kinh nào cũng cùng
chung một nguyên lý. Bộ kinh này dạy rằng chúng ta tụng niệm kinh là để giúp
cho người bệnh qua được cơn đau ốm. Nếu vì người chết mà tụng kinh thì người
chết sẽ được một phần nhỏ công đức, còn người sống đọc kinh thì công đức lại to
lớn hơn nhiều. Người chết sẽ được bao nhiêu công đức? Chúng ta không có cách gì
để biết nổi, dù khoa học cũng không thể đo lường được. Chỉ biết rằng kinh này là
do Phật nói ra nên số lượng công đức là chẳng thể nghĩ bàn.
Riêng về đến người sống thì đọc tụng kinh này sẽ mang lại cho họ bao nhiêu
công đức? Họ được những lợi ích gì? Rất nhiều lợi ích. Số là khi họ đọc tụng kinh
này, trong tâm của họ sẽ được khai mở, lòng chấp trước của họ sẽ tiêu tan. Phá
được chấp trước tức họ sẽ có vô lượng công đức. Mê lầm sanh ra tạo nghiệp rồi thọ
quả báo, và nguyên nhân là từ sự chấp trước. Do chấp trước mà tạo tội. Nếu phá
139
được chấp trước thì mọi thứ tội đều chẳng thành, cho nên pháp của Phật nói trong
kinh là nhằm phá sự chấp trước. Chỉ mang một chút ít chấp trước, người ta cũng
khó mà giải thoát được. Phá được chút ít đó thì công đức của quý vị sẽ là vô lượng
và quý vị sẽ chứng được giải thoát.
Quý vị nên khuyến khích bạn bè thân thích quy y đức Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai. Quý vị không phải là người xuất gia nên không được phép truyền
pháp quy y. Muốn học Phật thì trước tiên là phải học Phật Pháp. Muốn học Phật
Pháp thì trước đó phải quy y Tăng. Bộ kinh này đã nói rất rõ: kinh dạy rằng chúng
ta phải thỉnh các Tăng chứng minh và nhờ họ làm Phật sự. Nói Phật sự có nghĩa là
nói chúng ta phải quy y đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Đã nói quy
y thì phải thành khẩn, chúng ta đừng nghĩ rằng đây chỉ là chuyện bình thường như
các việc chúng ta làm hàng ngày một cách tùy tiện, như đói thì ăn, lạnh thì mặc
quần áo. Học Phật Pháp đòi hỏi chúng ta phải tôn kính Pháp. Pháp được lưu truyền
là nhờ đoàn thể Tăng-già. Khi nhập Niết-bàn, đức Phật đã giao trọn pháp của Ngài
cho chư Tăng để lưu truyền hậu thế. Bởi vậy, khi quy y với đức Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai, chúng ta phải chí thành khẩn thiết thỉnh chư Tăng đến, nhờ họ xếp
đặt các nghi thức cho ta. Công việc này không thể thực hiện qua loa cho xong việc,
như nói: “Ồ! Quy y thì tôi có thể tự mình làm được!” Chẳng phải dễ dàng như vậy
đâu!
Lấy một thí dụ, quý vị đến trường nhập học, trước tiên là phải qua các thầy
giáo dạy bảo, sau đó quý vị mới được bằng cấp. Còn như học lấy một mình, chẳng
nhờ ai dạy thì ai sẽ cấp bằng cho quý vị. Chuyện đó không thể có được.
Đệ tử: Kinh nói phải phóng sanh các loại khác nhau, có thể đến bốn mươi
chín loài. Như vậy các chúng sanh đó có phải là những loài mà người ta ăn thịt
không?
140
Thượng Nhân: Có loài chúng sanh nào mà người ta không ăn thịt chăng?
Mèo ư? Chuột ư? Thời nay nhiều người thích ăn thịt mèo và thịt chuột. Quý vị bảo
người ta không ăn thịt kiến ư? Có kiến đóng hộp để mọi người dùng đó! Thử hỏi,
có loài chúng sanh nào mà người ta không ăn thịt? Quý vị nói thử coi!
Đệ tử: Người bệnh đã đến tình trạng bất tỉnh, thần thức đã đến trước Diêm
Vương rồi, vậy mà do công đức của bộ kinh này, thần thức người đó còn có thể trở
về được. Thật là một điều đáng vui biết bao! Trong các tôn giáo khác, như Thiên
chúa giáo, Cơ-đốc giáo chẳng hạn, cũng có những chỗ ghi lại sự kiện giống như
trên, như trường hợp người đã chết, sau đó sống lại và còn nhớ rành rẽ những sự
việc đã xảy ra. Họ không biết giải thích sự việc kỳ lạ này ra sao, họ cho rằng đó là
do phép lạ của Chúa. Họ còn chủ trương rằng nếu người ta không tin Chúa thì nhất
định sẽ bị đọa vào địa ngục. Ai tin Chúa thì dầu làm điều bất thiện vẫn có thể được
lên thiên đàng, còn ngược lại, không tin Chúa thì chắc chắn xuống địa ngục dầu
người đó có làm những việc thiện. Lý luận như vậy thiếu “lô-gích” và chẳng thông
chút nào! Rất nhiều người bị mê hoặc vì lý luận này. Nay, chúng ta xem trong kinh
Phật, thấy mọi sự tình đều được phơi bầy một cách rành rẽ, hợp lý và tuyệt nhiên
không có điểm nào nhằm bịt tai bịt mắt mọi người, đó là điều rất đáng vui mừng
vậy!
Thượng Nhân: Kiến giải này rất đúng. Trong Phật giáo, ai có điều gì nghi
hoặc đều có thể nêu ra để được giải đáp và tuyệt nhiên không hề có sự áp đặt lòng
tin đối với mọi người. Chẳng bao giờ có trường hợp giải đáp không được một điều
gì thì lại nói rằng: “Đó là ý của Thiên chúa, hoặc giả đó là ý của Phật, ta không có
quyền được đặt vấn đề”. Chính đức Phật cũng khuyến khích việc thưa hỏi. Việc
này rất tốt bởi chúng ta không nên sống trong sự lầm lạc. Học Phật là phải hiểu đạo
lý, mỗi ngày một sáng tỏ hơn, chớ không thể mê tín, nghĩa là tin một cách mê mờ,
không hiểu rõ đầu đuôi, ai nói sao thì làm vậy. Học Phật là phải có con mắt chọn
pháp (trạch pháp nhãn), lấy trí huệ chân chánh của mình để phân biệt cái nào là
141
Pháp, cái nào chẳng phải Pháp. Càng học Phật, đầu óc càng sáng tỏ, chớ không
khải càng học càng trở nên hồ đồ. Cần nhận thức rõ chân lý, đó là sự khai mở trí
huệ. Okay?
Này ông A-nan! Lại còn như khi các Quán đỉnh vương hàng Sát-đế-lị,
tai nạn khởi lên, như là dịch nạn, nước khác xâm lấn, phản nghịch trong
nước, nạn về tinh tú, sao xấu mọc ra, nhật thực nguyệt thực, mưa gió trái
mùa, đến mùa chẳng mưa, các Quán đảnh vương và Sát-đế-lị, bấy giờ đối với
hết thảy hữu tình, khởi lòng từ bi, tha những tù tội, mà theo các pháp, cúng
dường đã nói, cung kính cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai, thời thiện căn ấy và sức bổn nguyện đức Như Lai kia, khiến cho cả
nước, liền được an ổn, mưa gió đúng thời, lúa cấy được mùa, hết thảy hữu
tình, vô bệnh mừng vui, ở trong khắp nước, không có những thần bạo ác dược
xoa, não hại hữu tình, những hình tướng ác thảy đều biến mất.
Phục thứ A Nan! Nhược Sát đế lị, Quán đỉnh vương đẳng, tai nạn
khởi thời, sở vị nhân chúng tật dịch nạn, tha quốc xâm bức nạn, tự giới
bạn nghịch nạn, tinh tú biến quái nạn, nhật nguyệt bạc thực nạn, phi thời
phong vũ nạn, quá thời bất vũ nạn, bỉ Sát đế lị Quán đỉnh vương đẳng, nhĩ
thời ưng ư nhất thiết hữu tình, khởi từ bi tâm, xá chư hệ bế, y tiền sở
thuyết cúng dường chi pháp, cúng dường bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai, do thử thiện căn, cập bỉ Như Lai bổn nguyện lực cố, linh kỳ
quốc giới, tức đắc an ổn, phong vũ thuận thời, cốc giá thành thục, nhất
thiết hữu tình vô bệnh hoan lạc, ư kỳ quốc trung vô hữu bạo ác, Dược xoa
đẳng thần, não hữu tình giả, nhất thiết ác tướng giai tức ẩn một.
142
Công đức của bộ kinh này quả là không thể nghĩ bàn. Nếu chúng ta tụng
niệm kinh Bổn Nguyện Công Đức của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì có thể
tránh được mọi thứ tai nạn và hết thảy loài thứ ác quỷ đều bó tay không hại được
chúng ta. Bởi vậy, đức Phật lại một lần nữa bảo ông A-nan: “Này ông A-nan! Lại
còn như khi các Quán đỉnh vương hàng Sát-đế-lị”, Sát-đế-lị tức là một giai cấp
Ấn độ, cũng tôn quý như giai cấp Bà-la-môn; trong hàng Sát-đế-lị thì có một Quán
đảnh vương, tức là người được tấn phong thái tử, trong một buổi lễ gọi là lễ “quán
đảnh”; người đó sau này sẽ lên ngôi vua.
“Tai nạn khởi lên”, khi trong nước gặp những tai nạn như hạn hán, lụt lội,
gió bão; “như là dịch nạn”, bệnh ôn dịch gây nhiều chết chóc trong dân chúng;
“nước khác xâm lấn”, hoặc nạn xâm lấn do nước láng giềng hay một nước khác
mang quân tới, “phản nghịch trong nước”, hoặc giả trong nước có phần tử phiến
loạn nổi lên chống lại quốc vương;
“Nạn về tinh tú, sao xấu mọc ra”, đây là nói các sao trên trời biến đổi
hình dáng một cách khác thường. Có khi người ta thấy vì sao nào đó như bốc hỏa,
có vì sao thì nổ tan, có khi sao băng đầy trời, hoặc trường hợp sao chổi tiến sát địa
cầu. Những sự biến dạng kỳ quái này thường là nguyên nhân sanh ra các tai nạn
như đao binh, hỏa tai, thủy nạn, ôn dịch lưu hành trên trái đất.
“Nhật thực nguyệt thực”, nạn nhật thực và nguyệt thực. Mặt trời hay mặt
trăng đương soi sáng rồi bỗng nhiên biến mất, đó là nhật thực và nguyệt thực. Mặt
trời vốn nóng, khi nhật thực thì đổi thành mát; ánh trăng thì đương mát đổi thành
nóng. Đó chính là những sự tình bất thường.
“Mưa gió trái mùa, đến mùa chẳng mưa”, Chưa cần có mưa thì trời lại
đổ mưa, không muốn có gió thì trời lại nổi gió. Khi mưa thì mưa lớn, còn gió thì
làm đổ nhà đổ cửa. Gió mưa như vậy là trái mùa, không đúng thời tiết, là một tai
nạn. Đến khi cần mưa thì lại xảy ra cảnh hạn hán, lại cũng là một cái nạn.
143
“Các Quán đảnh vương và Sát-đế-lị, bấy giờ đối với hết thảy hữu tình”,
giữa những lúc tai nạn như vừa kể, các Sát-đế-lị cũng như vị sẽ kế thừa ngôi báu
phải có lòng nghĩ tới mọi người, phải sám hối giống như vua Thang đời nhà
Thương xưa, mà nói rằng: “Tôi, đứa nhỏ tên Lý, xin dâng một con trâu mộng đen,
để cáo lên Hoàng Hoàng Hậu Đế”; đây là lời vua Thang tế Trời. Vua thưa lên ra
sao? Vua nói đại ý rằng nếu trẫm có tội thì hình phạt kia không nên giáng xuống
đầu của trăm họ. Giả dụ họ có gây nên nghiệp tội, thì nhà vua phải nhận mọi trách
nhiệm, bởi vua đã không biết cách giáo hóa thần dân. Vua Thang cáo trời đất và
nhìn nhận mọi sự lầm lỗi của mình.
Vì ý nghĩa đó cho nên trong khi gặp nạn, các vua quán đảnh phải “khởi
lòng từ bi, tha những tù tội”, khởi lòng từ bi mà ra lệnh ân xá cho kẻ tù tội. Họ
phải tự nghĩ rằng: “vì sao những tai họa đó xảy đến? Phải chăng ta không có lòng
từ bi?” Phải nghĩ như vậy, để phát tâm đại từ bi, ân xá cho những người phạm tội,
đương bị tù giam, ngay cả những người đáng tội chết; “mà theo các pháp, cúng
dường đã nói, cung kính cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai”, y theo cách thức vừa nói trên để cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai.
“Thời thiện căn ấy và sức bổn nguyện đức Như Lai kia”, do căn lành
cúng dường đức Dược Sư và cũng do sức đại nguyện của Ngài; “khiến cho cả
nước, liền được an ổn, mưa gió đúng thời”, mà trong nước được bình an vô sự,
mưa thuận gió hòa, như chúng ta thường nghe những câu: “cứ năm ngày thì gió,
mười ngày thì mưa, gió không làm cây rên xiết, mưa không làm đất lở”. Lại có
câu:
Thiên nhai tiểu vũ nhuận như tô
Thảo sắc dao khán cận khước vô
Tối thị nhất niên xuân hảo xứ
Tuyệt thăng yên liễu mãn hoàng đô.
Sơ Xuân Tiểu Vũ
Thiên nhai tiểu vũ nhuận như tô
Thảo sắc dao khán cận khước vô
Tối thị nhất niên xuân hảo xứ
Tuyệt thăng yên liễu mãn hoàng đô
Hàn Dũ
--Dịch nghĩa--
(mưa phùn đầu xuân)
(mưa phùn làm đường đi bóng loáng)
(từ xa nhìn như có màu cỏ, lại gần chẳng có gì)
(đây là lúc đẹp nhất của mùa xuân trong một năm)
(vì khắp kinh đô các hàng liễu như mờ trong sương khói)
-- Bản dịch của SongNguyễn HànTú --
Mưa Phùn Đầu Xuân
Thấm mưa đường bóng như thoa mỡ
Nhìn ngỡ xa xa cỏ xanh mờ
Trong năm đẹp nhất nàng Xuân thắm
Khói ôm bóng liễu khắp hoàng đô
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Mưa phùn đường láng như bơ
Xa trông sắc cỏ mơ hồ lung lay
Mùa xuân đẹp nhất lúc này
Liễu trong sương khói phủ đầy thành đô
145
Tạm dịch:
Lất phất mưa rơi ướt tựa dầu
Xa trông lầm tưởng cỏ xanh mầu
Bốn mùa chỉ độc xuân là quý
Tơ liễu khói giăng khắp đế đô
Mưa nhỏ tưới xuống, trông giống như phủ lên mặt đất một lớp mỡ. Đó là
loại mưa làm đất cát phì nhiêu, làm cho cỏ cây tươi tốt, chớ không phải như những
trận mưa trút nước khiến cho cả khối đất bị vỡ nát cuốn trôi. Còn gió thì hiền hòa,
chẳng phải là những cơn bão lốc làm đổ nhà cửa, đổ cây cối. Gió mưa thuận hòa
thì “cốc giá thành thục”, lúa cấy thì được mùa; “hết thảy hữu tình, vô bệnh
mừng vui”, như vậy thì hết thảy các loại hữu tình, con người cũng như mọi chúng
sanh đều không bị bệnh tật, sống trong cảnh an vui; trong nước không thấy các
cảnh giết người, cướp của, đốt nhà, hay những hành vi bạo lực. Nay thì ngày ngày
xảy ra những việc ấy, rất là đáng ngại, cũng bởi vì chúng ta bất hạnh sanh vào thời
nhiễu loạn như vậy.
“Ở trong khắp nước, không có những thần bạo ác Dược xoa, não hại
hữu tình, những hình tướng ác thảy đều biến mất”, những loại ác thần như
dược xoa - còn gọi là tốc tật quỷ, quỷ chạy nhanh - không còn quấy nhiễu các
chúng sanh, rồi hết thảy các loại hình tướng quái dị cũng đều biến mất không xuất
hiện nữa.
--Vô D anh--
Mưa nhỏ bên trời óng ánh tơ
Xa gần sắc cỏ gợn hững hờ
Trong năm Xuân đẹp nơi đây nhất
Phủ khắp thành vua rạng liễu mờ.
146
Các Quán đảnh vương hàng Sát-đế-lị, sống lâu mạnh khỏe, vô bệnh tự
tại, lợi ích đều tăng. Này Tôn giả A-nan! Nếu mà các vị hoàng hậu hoàng phi,
công chúa thái tử, vương tử đại thần, phụ tá cùng với thể nữ trong cung, các
quan và dân, mắc bệnh chịu khổ, và ách nạn gì, cũng nên dựng cây phướn
thần năm sắc, thắp đèn tiếp sáng, phóng sanh các loài, rải các thứ hoa, đốt các
hương quý, bệnh thời khỏi hết, tai nạn giải thoát. Bấy giờ Tôn giả A-nan hỏi
ngài Cứu Thoát: Bạch thiện nam tử! Tại làm sao mà mạng người đã hết, có
thể tăng thêm? Ngài Cứu Thoát nói: Bạch Đại đức! Ngài há chẳng nghe Như
Lai nói có chín thứ chết uổng (hoạnh tử) ư? Bởi vậy khuyên làm phướn đèn
nối mạng, tu mọi phước đức. Vì tu phước đức không bị ách nạn tới lúc mạng
chung.
Nhi Sát-đế-lị Quán đỉnh vương đẳng, thọ mệnh sắc lực, vô bệnh tự
tại, giai đắc tăng ích. A Nan! Nhược đế hậu phi chủ, trữ quân vương tử, đại
thần phụ tướng, trung cung thãi nữ, bách quan lê thứ, vị bệnh sở khổ, cập
dư ách nạn, diệc ưng tạo lập ngũ sắc thần phan, nhiên đăng tục minh,
phóng chư sanh mạng, tán tạp sắc hoa, thiêu chúng danh hương, bệnh
đắc trừ dũ, chúng nạn giải thoát.
Nhĩ thời A Nan vấn Cứu Thoát Bồ tát ngôn: Thiện nam tử, vân hà dĩ
tận chi mệnh, nhi khả tăng ích?
Cứu Thoát Bồ tát ngôn: Đại đức! Nhữ khởi bất văn Như Lai thuyết
hữu cửu hoạnh tử da? Thị cố khuyến tạo tục mệnh phan đăng, tu chư
phước đức, dĩ tu phước cố, tận kỳ thọ mệnh, bất kinh khổ hoạn.[/COLOR]
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks