Bậc thiền không nhiều đâu , chỉ có 12 bậc thiền thôi hè.
Còn 16 bực thiền mà bà bà nói là 16 tuệ minh sát dùng để kiểm tra sự chứng đắc của hành giả ở tầng thánh nào, vì ngày xưa khi Phật còn tại thế, Ngài có thể quán sát vị nào đắc đạo quả nào, và Ngài ấn chứng cho vị đó, sau khi Ngài nhập diệt thì không còn ai chứng đạo cho ai được, nên các vị đệ tử của Phật tự đặt ra 16 thiền tuệ quán và còn gọi là 16 tuệ vipassana để giúp hành giả tự kiểm chứng mình đã đắc thánh quả hay chưa.
Đó là Tuệ thứ I- Nàmarùpa paricchedanàna - Tuệ Phân Tách Danh Sắc.
Tuệ thứ II - Paccayapariggalanàna - Tuệ Phân Tách Nhân Quả
(Tuệ Phân Biện Nhân Duyên).
Tuệ thứ III - Sammasananàna - Tuệ suy xét thấy Danh Sắc là vô thường, khổ não, vô ngã. (Tuệ Thấu Đạt)
Tuệ thứ IV - Udayabbayanàna - Tuệ thấy sự Sanh-Diệt của Danh Sắc.
Tuệ thứ V - Bhanganàna - Tuệ Diệt
Tuệ thứ VI - Bhayanàna - Tuệ Sợ
Tuệ thứ VII - Adinavanàna - Tuệ thấy Hiểm Nguy của Ngũ uẩn.
Tuệ thứ VIII - Nibbidanàna - Tuệ Chán nãn.
Tuệ thứ IX - Mũncitukamyatanàna - Tuệ muốn Giải thoát.
Tuệ thứ X - Patisankhanàna - Tuệ Suy Tư
Tuệ thứ XI rất quan trọng, do đó có 6 chi sau đây:
1) Hành-giả không buồn, không vui, có tâm xả. Có trí nhớ theo dõi các điểm đụng ở hai vòng vai.
2) Hành-giả không vui thích với ngũ-uẩn và cũng không còn sợ ngũ-uẩn.
3) Hành-giả không cố gắng, mà niệm dễ dàng như có cố gắng.
4) Hành-giả có thể đi kinh hành lâu, hoặc ngồi lâu không thấy mệt mỏi.
5) Hành-giả khi niệm Phồng, Xọp, Ngồi, Đụng, thấy rõ rệt, lần lần nhỏ nhỏ, vi tế, không thô như trước.
6) Tâm Hành-giả luôn luôn khắng khít với các điểm đụng trong thân, Tâm không phóng túng nữa.
Đại Đức Thiền Sư Raja Siddhimuni nhấn mạch rằng khi có đủ 6 chi này, đạo quả mới phát sanh. Nếu không có đủ 6 chi mà nói có đạo quả là giả dối. Trong 6 chi có cái nhanh, cái chậm, có cái dễ thấy, có cái khó thấy vì phát sanh nhanh rồi diệt. Nhứt là cái chi thứ 6 phải cần cho thấy rõ rệt.
Nếu Hành-giả là người đã có Pháp học (Abhidhamma) thường hay móng Tâm (móng là tham) cho nên lâu có kết quả, vì 6 chi trồi sụt, mất nhiều thời giờ, mà đạo quả không phát sanh.
Có 3 trạng thái cần phải biết:
a) Nếu Tuệ thứ XI yếu, không thể đi đến Niết-Bàn.
b) Nếu Tuệ thứ XI vừa, cũng không đi đến Niết-Bàn.
c) Nếu Tuệ XI mạnh, Hành-giả có thể đi đến Niết-Bàn. Nói "có thể" là vì cần phải có Tuệ thứ XII giúp đở mới đắc đạo quả được.
Tuệ thứ XII - Anulomanàna - Tuệ Thuận-Thứ
Từ Tuệ XIII đến Tuệ thứ XVI là Thánh-tuệ.
Tuệ thứ XIII - Gotrabhunàna - Tuệ Chuyển Tánh
(còn gọi là Tuệ "Cắt dòng phàm")
Tuệ thứ XIV - Magganàna - Đạo-Tuệ
Tuệ thứ XV - Phalanàna - Quả-Tuệ
Tuệ thứ XVI - Pacechavkkhananàga - Tuệ Kiểm-soát Phiền-não và Tuệ Niết-Bàn.
Nếu bà bà muốn kiểm tra mình đã hoá thánh chưa thì hãy hành theo pháp nầy .
Chính cái mà bà bà cho là ở tuốt phía dưới, là cái mà Phật dạy cho đệ tử của Ngài đắc quả Arahan. Đó là tứ thiền hữu sắc .
Vì bà bà nghĩ rằng cái vô sắc ở trên cái hữu sắc nên cho là nó ở dưới , nhưng thật sự nó là vô cùng quan trọng.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)




Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks