kết quả từ 1 tới 11 trên 11

Ðề tài: Không Thể So Sánh Giữa Ma Với Phật

  1. #1

    Mặc định Không Thể So Sánh Giữa Ma Với Phật

    Không Thể So Sánh Giữa Ma Với Phật

    Vào thời Triều Minh, Đại sư Liên Trì (1535-1615) sau khi xuất gia đã đi khắp nơi để tìm minh sư học đạo. Sau khi vào kinh đô, Ngài đến tham bái hai vị đại lão đạo cao, đức trọng trong Thiền Tông là Biến Dung và Tiếu Nham. Đại sư Liên Trì sau khi được nhị vị lão sư khai pháp chỉ điểm, Ngài bèn đi đến Đông Xương và khi nghe tiếng trống thì bỗng nhiên giác ngộ. Nhân đó Ngài làm bài kệ:

    Nhị thập niên tiền sự khả nghi,
    Tam thiên lý ngoại ngộ hà kỳ!
    Phần hương trịch kích hồn như mộng,
    Ma Phật không tranh thị dữ phi.

    Nghĩa là:

    Mối nghi từ hai mươi năm trước
    Lạ thay cái ngộ ngoài ngàn dặm!

    Đốt nhang ném kích như trong mơ
    Ma Phật, phải trái uổng công tranh.

    Bất luận là đọc Kinh hay xem Luận, chúng ta cũng phải dùng trí tuệ để phân biệt phải trái. Điều tối kỵ là chúng ta dùng tâm, ý và thức để suy đoán.tâm, ý và thức chỉ là để dối lừa người. Ba thứ nầy có sức mê hoặc rất lớn, khiến cho con người không phân biệt được phải trái, lý sự chẳng minh bạch, đen trắng lẫn lộn thành ra hỗn độn không rõ ràng. Có một số lý luận, mới nghe thì hình như có đạo lý, nhưng người có trí vừa xem qua là biết không đúng, còn người vô trí thời bị mắc lừa và nghe theo một cách thích thú. Có một số khác thì như người mù dắt kẻ đui, không phải vì cố ý, mà vì tự bản thân họ cũng chưa hiểu rõ. Cho nên họ đưa đẩy người khác lạc hướng vào lối rẽ, cuối cùng chẳng đến được nơi tốt lành. Bởi vậy chúng ta đừng nên xem thường việc phát biểu ý kiến của mình. Nếu trên vấn đề căn bản mà chúng ta luận giải xằng bậy, thì đó sẽ như câu nói: “Sai một hào một ly thì khác biệt một trời một vực,” thậm chí còn làm cho cả thế giới rơi vào hoàn cảnh đen tối, không ánh sáng. Do đó, trên nguyên tắc lý luận, chúng ta phải có sự nhận thức chính xác, rõ ràng. Nếu chúng ta chỉ dựa vào tâm, ý, thức mà suy đoán, rồi phê bình lung tung và tùy ý khen chê, tức là bỏ Phật để gia nhập vào bọn ma quỷ, là chuyện không thể được.

    Như nói về vấn đề ma và Phật, chúng ta không nên chạy theo lý luận xằng bậy. Ví như có một số người cho rằng: “Ma, Phật như một, hai mà không hai.” Nhưng người Phật tử đâu thể nào giống như ma quỷ; nếu giống thì người ta đâu cần phải tin Phật mà cứ tin theo những lời ngông cuồng của ma quỷ cũng được vậy! Có người nói: “Ma là bộ mặt trái của bậc Thiện tri thức đến giúp đỡ chúng ta.” Đó vốn là nói về hoài bão của lòng từ bi, cũng là một lối nói để an ủi cái tự ngã, dùng tâm lý dỗ dành trẻ con là bảo nó chớ quá giận dữ. Cách nói như thế cũng vẫn là để hóa giải việc phân tranh và oán hận ở bên trong, bởi không muốn xem ma quỷ như kẻ thù địch. Nếu nói mặt trái của ma quỷ là giúp đỡ người, nhưng nó cứ lần lượt nuốt sống con người, hoặc là đưa con người vào chỗ chết, như thế thì gọi là “giúp đỡ” sao?

    Do đó chúng ta cần phải giữ vững lập trường căn bản, giờ khắc nào cũng giữ chánh niệm. Một khi chúng ta sanh tâm tham, hoặc tham mau, tham thần thông, tham có hiệu quả nhanh chóng, tham linh cảm thì ma liền nhân đó mà xâm nhập vào. Có một số người rất thông minh, nhưng tại sao cũng có lúc họ bị tâm ma khí quỷ? Là bởi đối với những nguyên tắc căn bản, họ chưa có nhận thức rõ ràng. Nếu họ nắm được căn bản rõ ràng, thời bùa chú của ma cũng không linh nghiệm đâu. Chúng ta không cần phải niệm chú, mà chỉ cần không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ là ma sẽ không có cách gì nhập được.

    Sau nhiều năm học Phật, tôi kết luận rằng “Lục đại tông chỉ” nầy là có nhiều hữu dụng nhất. Phật Pháp không phải là bàn luận cao xa, rộng lớn hoặc nói chuyện huyền diệu, lạ kỳ. Lại càng không phải là đoán xằng nói bậy về họa phước, hoặc bói toán hung kiết, hên xui. Trên thế giới nầy không biết đã có bao nhiêu người biết bói đoán tiên tri như thế. Nhưng đó là mánh lới của bọn giang hồ thích nói về thần thông, dùng những lời lẽ yêu quái hoang đường để mê hoặc dân chúng. Đó là họ đang rao bán thuốc cao thuốc dán đấy. Và đúng thật là những người đó có thể biết được quá khứ vị lai. Ví như họ nói với quý vị rằng: “Tôi biết ngày mai sẽ có người đến thăm anh, người đó lại còn nói với anh như thế nầy, thế nầy...” Hoặc như: “Trước kia anh đã làm những việc gì, tôi đều biết rõ cả...” Nhưng họ đều có chỗ sơ sót là không dứt được dâm dục, hoặc háo tài, hoặc luyến sắc. Đó đều là cảnh giới của ma quái. Nếu người nào có tâm tranh, tâm tham, cầu danh cầu lợi, hoặc tuyên truyền đề cao cá nhân mình để cho người khác sùng bái mình, lại còn ích kỷ tự lợi và không nói lời chân thật thì chúng ta nên biết rằng, người nầy đang trong cảnh giới của ma.

    Nhân dịp Đại Sư Liên Trì tham bái hai vị Lão Sư Biến Dung và Tiếu Nham, Đại Sư được hai vị khuyên bảo rằng: “Người xuất gia tu đạo là vì sanh tử đại sự. Đừng để danh lợi làm liên lụy!Lúc bấy giờ tại đạo tràng đó cũng có một số người tham gia học tập, nhưng không mấy ai để ý gì đến lời khai thị nầy. Duy chỉ có Đại Sư Liên Trì là thâm hiểu được ý nghĩa sâu xa mà tâm trí đầy hứng khởi. Cho nên khi rời Kinh Sư đến Đông Xương, Đại Sư bỗng hoát nhiên khai ngộ bèn làm bài kệ trên. Thật ra bốn câu thơ đó chỉ là thứ yếu. Còn lời lẽ tối trọng yếu là không được tìm cầu danh lợi, đó mới là chìa khóa chủ yếu của câu chuyện nầy.

    Quý vị đừng tưởng rằng Đại Sư Liên Trì đến Đông Xương mới khai ngộ. Mà ngay từ lúc đầu, Đại Sư đã từng bước, từng bước đi trên con đường khai ngộ rồi. Đến lúc đứng trước mặt hai vị Lão Sư Biến Dung và Tiếu Nham, bị hai Ngài hét cho một tiếng lớn vào đầu khiến Đại Sư hoát nhiên khai đại ngộ ngay. Sau khi xuất gia thì không đam mê danh lợi, đó là bài chú có hiệu quả nhất, có thể chiến thắng tất cả bọn ma quân. Chúng ta hãy xem lời văn của bài kệ như sau:

    Mối nghi từ hai mươi năm trước. Chuyện sanh tử đại sự nầy đã khiến Đại sư Liên Trì bối rối nghi hoặc từ lâu. Bởi chưa hiểu nên Đại Sư phải xuất ngoại tham vấn, cầu bậc Thiện tri thức giải quyết dùm mối nghi ngờ.

    Lạ thay cái ngộ ngoài ngàn dặm. Trải qua ba ngàn dặm, sau đó Đại Sư đến Đông Xương thì đột nhiên khai ngộ. Điều nầy sao mà kỳ diệu quá! Bao chấp trước của Đại Sư bỗng nhiên tiêu tán hết!

    Đốt hương ném kích như giấc mộng. Thắp nhang cúng Phật là chuyện tốt, còn ném đao kích, đánh lộn với ma quân là chuyện xấu. “Trịch kích” cũng có thể là ném bỏ khí giới, tức là không đánh nhau nữa. Tất cả những điều đó cũng giống như giấc mộng thôi! Vì sao giống như giấc mộng? Bởi vì mình chưa hiểu rõ một cách triệt để.

    Ma Phật, phải trái uổng công tranh. Bây giờ Đại Sư đã hiểu rồi. Trước đây vì Đại Sư cứ dụng công ở chỗ hư vọng thị phi, phải trái, cho nên đều là uổng phí tâm sức! Đại sư Liên Trì cũng không nói rằng: Phật và Ma như là một. Mà ma là ma, Phật là Phật. Hai bên đều đã không quan hệ với nhau thì có thị phi, phải trái gì đáng phải tranh cãi hả? Những cuộc bàn luận phải trái lúc trước đều là hư vọng, chẳng phải thật.

    Nếu muốn hàng phục bọn ma, quý vị phải có chút ít công phu chân thật, không phải chỉ thiền nơi miệng mà có thể làm được.

    Còn một cách khác là: “Vô ma bất hiển Phật, Vô Phật bất hiển ma,” không có Ma thì Phật chẳng hiện, không có Phật thì Ma chẳng hiện. Ma và Phật cũng là pháp tương đối với nhau, chứ không phải khi Phật khai ngộ rồi thì Ma và Phật nhất như là một đâu. Sau khi Phật khai ngộ rồi thời Ma, Phật cũng vẫn như trước, chỉ ngoại trừ - Phật thì không có tư tưởng thù địch. Phật xem tất cả chúng sanh bình đẳng và Ma cũng là một phần tử trong chúng sanh, cho nên Phật xem Ma là đồng đẳng. Nhưng Ma đối với Phật có bình đẳng hay không? Tuyệt đối là không! Vì lúc nào Ma cũng muốn lật đổ Phật.

    Qua hai mươi năm sau, Đại sư Liên Trì mới hiểu rõ đạo lý không tranh. Đại Sư giác ngộ rằng trước đây mình chỉ tranh cãi phải trái ở bề ngoài một cách vô ích. Lúc đó Đại Sư đã không hồi quang phản chiếu và không quét dọn sạch sẽ cái tự tánh của mình, cho nên hễ người ta tranh là Đại Sư liền phiền não.

    Tôi nói đạo lý rất là đơn giản, hy vọng quý vị ngẫm nghĩ lại cho kỹ càng. Bởi vì trên nguyên tắc, chúng ta không được phạm lầm lỗi. Quý vị đều còn trẻ, và cũng không nên tùy tiện nói “Ma Phật như là một.” Hoặc giả người đã đại triệt, đại ngộ rồi thì có thể nói như thế, bởi vì cảnh giới hiểu biết của họ không giống với quý vị. Nhưng chúng ta hãy còn là trẻ con, cho nên không được dối mượn đạo lý của người xưa, để rồi gượng gạo luận giải một cách sai lầm. Ví như trẻ con chưa biết lái xe, mà quý vị để cho nó lái thì rất dễ gây ra tai nạn, đến nỗi mất mạng là khác.

    Có một số người khi nghe nói “Ma Phật Nhất Như” thì họ nghĩ rằng: “Thế thì mình lạy Phật để làm gì? Mình làm nghiệp ma thì cũng không phải là nghiệp Phật hay sao?” Vì vậy trên nguyên tắc phân biệt, chúng ta phải hiểu cho rõ ràng, chớ có nghe ngóng một cách lẫn lộn như vậy, rồi cho rằng mắt con cá là ngọc trai.

    Giảng ngày 29 tháng 8 năm 1985

    Hòa Thượng Tuyên Hóa
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  2. #2

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi tuyenhoa1985 Xem Bài Gởi
    .

    Như nói về vấn đề ma và Phật, chúng ta không nên chạy theo lý luận xằng bậy. Ví như có một số người cho rằng: “Ma, Phật như một, hai mà không hai.” Nhưng người Phật tử đâu thể nào giống như ma quỷ; nếu giống thì người ta đâu cần phải tin Phật mà cứ tin theo những lời ngông cuồng của ma quỷ cũng được vậy! Có người nói: “Ma là bộ mặt trái của bậc Thiện tri thức đến giúp đỡ chúng ta.” Đó vốn là nói về hoài bão của lòng từ bi, cũng là một lối nói để an ủi cái tự ngã, dùng tâm lý dỗ dành trẻ con là bảo nó chớ quá giận dữ. Cách nói như thế cũng vẫn là để hóa giải việc phân tranh và oán hận ở bên trong, bởi không muốn xem ma quỷ như kẻ thù địch. Nếu nói mặt trái của ma quỷ là giúp đỡ người, nhưng nó cứ lần lượt nuốt sống con người, hoặc là đưa con người vào chỗ chết, như thế thì gọi là “giúp đỡ” sao?

    Giảng ngày 29 tháng 8 năm 1985

    Hòa Thượng Tuyên Hóa
    Trong câu “Ma, Phật như một, hai mà không hai.” hoặc câu:“Ma là bộ mặt trái của bậc Thiện tri thức đến giúp đỡ chúng ta.” Theo tôi nghỉ nó còn có một ý khác .
    Trong lời của ngài HUỆ NĂNG có nói tỉnh ngộ là PHẬT,mê là chúng sanh ,từ phàm mà chết thì là MA ,từ ma quỷ ,luân hồi cũng lại là phàm .
    Từ phàm tu chuyển thành thánh thành PHẬT ,chỉ trong một con người mà phải luân chuyển lệ thuộc vào cách tu ,cách hành trì .
    Theo tôi nghỉ câu :ma ,PHẬT ,như một ,hai mà không hai ,ý trong một con người thành ma cũng do mình thành PHẬT cũng do mình .
    Còn câu :ma là bộ mặt trái của bậc thiện tri thức ,cũng chính sát ,người mà có trí tuệ ,thiện tri thức ,một khi họ trở mặt trái thì ngay người bình thường sẽ là miếng mồi ngon để lợi dụng ,một con người thiện cũng là mình ,ma cũng là mình ,Trong thiện ẩn TÂM ma không ai biết đâu là đúng hay sai nữa
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  3. #3
    micronbmt
    Guest

    Mặc định

    Như thật tôi nghe, một thời Đức Phật ở thành Câu-thi-na. Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ. Thế tôn tĩnh lặng , ngài không nói một lời và hào quang không xuất hiện. Ngài A-nan cung kính đảnh lễ và hỏi:

    “Bạch Thế tôn, từ trước đến nay khi nào Thế tôn thuyết pháp, ánh sáng oai nghi của Thế tôn đều tự nhiên xuất hiện, nhưng hôm nay trong đại chúng, không thấy ánh hào quang ấy từ Thế tôn tỏa ra nữa, chắc hẳn có nhân duyên gì, chúng con mong muốn nghe Đức Thế tôn giảng giải.”

    Đức Phật vẫn im lặng không trả lời, cho đến khi A-nan cầu thỉnh đến ba lần, lúc đó Đức Phật mới bảo A-nan:

    “Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, khi giáo pháp bắt đầu suy yếu, trong đời ngũ trược ác thế, ma đạo sẽ rất thịnh hành, ma quỷ biến thành sa-môn, xuyên tạc phá hoại giáo pháp của ta. Chúng mặc y phục thế tục , ưa thích y phục đẹp đẽ, cà sa sặc sỡ; uống rượu, ăn thịt; giết hại sinh vật tham đắm mùi vị; không có lòng từ, thường mang sân hận, đố kỵ lẫn nhau.

    “Vào lúc ấy, sẽ có các vị Bồ-tát, Bích-chi Phật, A-la-hán hết sức tôn kính, siêng năng tu đức, được mọi người kính trọng tiếp đãi., họ đều giáo hóa bình đẳng. Những người tu đạo này thường cứu giúp kẻ nghèo, quan tâm người già, cứu giúp người gặp cảnh nghèo cùng khốn ách. khuyến khích mọi người thờ phượng, hộ trì kinh tượng. Họ thường làm công đức, hết lòng từ bi làm lành, không hại kẻ khác. hy sinh giúp đỡ không tự lợi mình , thường nhẫn nhục nhân hòa.

    “Nếu có những người như vậy, thì các tỷ-khưu tà ma đều ganh ghét họ, ma quỷ sẽ nổi ác phỉ báng, xua đuổi trục xuất các vị tỷ-khưu chân chính ra khỏi tăng viện. Sau đó, các tỷ-khưu ác ma này không tu đạo đức, chùa chiền tu viện sẽ bị hoang vắng, cỏ dại mọc đầy. Do không chăm sóc bảo trì, chùa chiền trở thành hoang phế và bị lãng quên, các tỷ-khưu ác ma sẽ chỉ tham lam tài vật tích chứa vô số của cải không chịu buông bỏ, không tu tạo phước đức.

    “Vào lúc đó các ác ma tỷ-khưu sẽ buôn bán nô tỳ để cày ruộng, chặt cây đốt phá núi rừng, sát hại chúng sanh không chút từ tâm. Những nam nô trở thành các tỷ-khưu và nữ tỳ thành tỷ-khưu ni không có đạo đức, dâm loạn dơ bẩn, không cách biệt nam nữ. Chính những người này làm đạo suy yếu phai dần. Những người chạy trốn luật pháp sẽ tìm đến quy y trong đạo của ta, xin làm sa-môn nhưng không tu giới luật. Giữa tháng cuối tháng tuy có tụng giới, nhưng chỉ là trên danh nghĩa. Do lười biếng và phóng dật, không còn ai muốn nghe nữa. Những ác sa-môn này sẽ không muốn tụng toàn văn bản kinh, tóm tắt đoạn đầu và cuối bản kinh theo ý của họ . Chẳng bao lâu, việc tụng tập kinh điển cũng sẽ chấm dứt. Cho dù vẫn còn có người tụng kinh, nhưng họ lại không hiểu câu văn. vẫn khăng khăng cho họ là đúng, tự phụ, kiêu căng mong cầu danh tiế ng , ra vẻ tao nhã để mong cúng dường.

    Khi mạng căn của các ma ác tỷ-khưu này chấm dứt, thần thức của họ liền đọa vào địa ngục A-tỳ. Đã phạm phải 5 tội trọng, nên họ phải tái sinh liên tục chịu khổ trong loài quỷ đói và súc sinh. Họ sẽ nếm những nỗi thống khổ trong vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng. Khi tội hết, họ sẽ tái sinh ở những vùng biên địa, nơi không có Tam bảo lưu hành.

    “Khi chánh pháp sắp biến mất, phụ nữ sẽ trở nên tinh tấn và thường làm việc công đức. Đàn ông sẽ trở nên lười biếng và sẽ không còn ai giảng pháp . Những vị sa-môn chân chính sẽ bị xem như đất phân và không ai tin ở các vị ấy nữa. Khi chánh pháp sắp suy tàn, chư Thiên sẽ bắt đầu khóc lóc, sông sẽ khô cạn và năm thứ cốc loại không chín (mất mùa, đói kém). Bệnh dịch thường xuyên xảy ra, cướp đi vô số mạng người. Dân chúng phải làm việc cực khổ, quan chức địa phương mưu tính lợi riêng, không thuận theo đạo lý, đều ưa thích rối loạn. Người ác gia tăng nhiều như cát dưới biển, người thiện rất ít, hầu như chỉ có được một hoặc hai người.

    “Khi kiếp sắp hết, vòng quay của mặt trời và mặt trăng trở nên ngắn hơn và mạng sống của con người giảm lại. Bốn mươi tuổi đầu đã bạc . Đàn ông dâm dục, cạn kiệt tinh dịch nên sẽ chết trẻ, thường là trước 60 tuổi. Khi mạng sống của nam giới giảm, thì mạng sống cuả nữ giới tăng đến 70, 80, 90 hoặc đến 100 tuổi.

    «Những dòng sông lớn sẽ dâng cao bất thường không đúng với chu kỳ tự nhiên, nhưng con nguời không để ý hoặc không quan tâm. Khí hậu khắc nghiệt được xem là điều bình thường. Người các chủng tộc lai tạp lẫn nhau không phân quý tiện, chìm đắm, trôi nổi như cá rùa kiếm ăn .

    «Lúc đó các vị Bồ-tát, Bích-chi Phật, A-la-hán bị chúng ma xua đuổi trục xuất không còn cùng dự trong chúng hội . Giáo lý Tam thừa vẫn được lưu hành ở vùng hẻo lánh, những người tu tập vẫn tìm thấy sự an lạc và thọ mạng kéo dài. Chư thiên sẽ bảo vệ và mặt trăng sẽ chiếu sáng họ, giáo pháp Tam thừa sẽ có dịp hòa nhập và chính đạo sẽ hưng thịnh. Tuy nhiên, trong năm mươi hai năm, kinh Thủ-lăng-nghiêm và Kinh Bát-chu Tam-muội sẽ bị sửa đổi trước tiên rồi biến mất. Mười hai bộ kinh sau đó sẽ dần dần bị tiêu trầm cho đến khi hoại diệt hoàn toàn và không bao giờ xuất hiện lại nữa. Văn tự kinh điển sau đó hoàn toàn không được biết đến, giới y của sa-môn sẽ tự bị biến thành màu trắng.

    «Khi giáo pháp của ta sắp biến mất, cũng giống như ngọn đèn dầu tỏa sáng lên trong chốc lát trước khi tàn lụi, chánh pháp cũng bừng sáng rồi suy tàn. Từ đó về sau khó nói chắc được điều gì sẽ xảy ra.

    «Thời kỳ này sẽ kéo dài suốt mười triệu năm. Khi Đức Di-lặc sắp thị hiện ở thế gian để thành vị Phật tiếp theo, các cõi nước đều được hoàn toàn an vui. Khí độc sẽ bị tiêu tán, mưa nhiều và đều đặn, n ăm thứ cốc loại tươi tốt , cây cối sum suê cao lớn, và loài người sẽ cao đến tám trượng (hơn 24 mét) tuổi thọ trung bình của con người sẽ đến 84.000 năm, chúng sanh được độ khó có thể tính đếm được.»

    Ngài A-nan thưa thỉnh Đức Phật :

    «Bạch Thế tôn, chúng con nên gọi Kinh này là gì, và làm thế nào để phụng trì kinh ấy?»

    Đức Phật bảo :

    «Này A-nan, kinh này gọi là Pháp Diệt Tận. Hãy dạy cho mọi người truyền bá rộng rãi kinh này. Những ai truyền bá kinh nầy, công đức của những người ấy không thể nghĩ bàn, không thể nào tính đếm được.»

    Khi bốn chúng đệ tử nghe nói kinh này rồi, họ đều rất đau lòng và buồn tủi, mỗi người đều phát tâm tu đạo để đạt đến quả vị Thánh tối thượng, họ cung kính đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra.

    HẾT

  4. #4

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi tuyenhoa1985 Xem Bài Gởi
    Không Thể So Sánh Giữa Ma Với Phật

    Vào thời Triều Minh, Đại sư Liên Trì (1535-1615) sau khi xuất gia đã đi khắp nơi để tìm minh sư học đạo. Sau khi vào kinh đô, Ngài đến tham bái hai vị đại lão đạo cao, đức trọng trong Thiền Tông là Biến Dung và Tiếu Nham. Đại sư Liên Trì sau khi được nhị vị lão sư khai pháp chỉ điểm, Ngài bèn đi đến Đông Xương và khi nghe tiếng trống thì bỗng nhiên giác ngộ. Nhân đó Ngài làm bài kệ:

    Nhị thập niên tiền sự khả nghi,
    Tam thiên lý ngoại ngộ hà kỳ!
    Phần hương trịch kích hồn như mộng,
    Ma Phật không tranh thị dữ phi.

    Nghĩa là:

    Mối nghi từ hai mươi năm trước
    Lạ thay cái ngộ ngoài ngàn dặm!

    Đốt nhang ném kích như trong mơ
    Ma Phật, phải trái uổng công tranh.

    Bất luận là đọc Kinh hay xem Luận, chúng ta cũng phải dùng trí tuệ để phân biệt phải trái. Điều tối kỵ là chúng ta dùng tâm, ý và thức để suy đoán.tâm, ý và thức chỉ là để dối lừa người. Ba thứ nầy có sức mê hoặc rất lớn, khiến cho con người không phân biệt được phải trái, lý sự chẳng minh bạch, đen trắng lẫn lộn thành ra hỗn độn không rõ ràng. Có một số lý luận, mới nghe thì hình như có đạo lý, nhưng người có trí vừa xem qua là biết không đúng, còn người vô trí thời bị mắc lừa và nghe theo một cách thích thú. Có một số khác thì như người mù dắt kẻ đui, không phải vì cố ý, mà vì tự bản thân họ cũng chưa hiểu rõ. Cho nên họ đưa đẩy người khác lạc hướng vào lối rẽ, cuối cùng chẳng đến được nơi tốt lành. Bởi vậy chúng ta đừng nên xem thường việc phát biểu ý kiến của mình. Nếu trên vấn đề căn bản mà chúng ta luận giải xằng bậy, thì đó sẽ như câu nói: “Sai một hào một ly thì khác biệt một trời một vực,” thậm chí còn làm cho cả thế giới rơi vào hoàn cảnh đen tối, không ánh sáng. Do đó, trên nguyên tắc lý luận, chúng ta phải có sự nhận thức chính xác, rõ ràng. Nếu chúng ta chỉ dựa vào tâm, ý, thức mà suy đoán, rồi phê bình lung tung và tùy ý khen chê, tức là bỏ Phật để gia nhập vào bọn ma quỷ, là chuyện không thể được.

    Như nói về vấn đề ma và Phật, chúng ta không nên chạy theo lý luận xằng bậy. Ví như có một số người cho rằng: “Ma, Phật như một, hai mà không hai.” Nhưng người Phật tử đâu thể nào giống như ma quỷ; nếu giống thì người ta đâu cần phải tin Phật mà cứ tin theo những lời ngông cuồng của ma quỷ cũng được vậy! Có người nói: “Ma là bộ mặt trái của bậc Thiện tri thức đến giúp đỡ chúng ta.” Đó vốn là nói về hoài bão của lòng từ bi, cũng là một lối nói để an ủi cái tự ngã, dùng tâm lý dỗ dành trẻ con là bảo nó chớ quá giận dữ. Cách nói như thế cũng vẫn là để hóa giải việc phân tranh và oán hận ở bên trong, bởi không muốn xem ma quỷ như kẻ thù địch. Nếu nói mặt trái của ma quỷ là giúp đỡ người, nhưng nó cứ lần lượt nuốt sống con người, hoặc là đưa con người vào chỗ chết, như thế thì gọi là “giúp đỡ” sao?

    Do đó chúng ta cần phải giữ vững lập trường căn bản, giờ khắc nào cũng giữ chánh niệm. Một khi chúng ta sanh tâm tham, hoặc tham mau, tham thần thông, tham có hiệu quả nhanh chóng, tham linh cảm thì ma liền nhân đó mà xâm nhập vào. Có một số người rất thông minh, nhưng tại sao cũng có lúc họ bị tâm ma khí quỷ? Là bởi đối với những nguyên tắc căn bản, họ chưa có nhận thức rõ ràng. Nếu họ nắm được căn bản rõ ràng, thời bùa chú của ma cũng không linh nghiệm đâu. Chúng ta không cần phải niệm chú, mà chỉ cần không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ là ma sẽ không có cách gì nhập được.

    Sau nhiều năm học Phật, tôi kết luận rằng “Lục đại tông chỉ” nầy là có nhiều hữu dụng nhất. Phật Pháp không phải là bàn luận cao xa, rộng lớn hoặc nói chuyện huyền diệu, lạ kỳ. Lại càng không phải là đoán xằng nói bậy về họa phước, hoặc bói toán hung kiết, hên xui. Trên thế giới nầy không biết đã có bao nhiêu người biết bói đoán tiên tri như thế. Nhưng đó là mánh lới của bọn giang hồ thích nói về thần thông, dùng những lời lẽ yêu quái hoang đường để mê hoặc dân chúng. Đó là họ đang rao bán thuốc cao thuốc dán đấy. Và đúng thật là những người đó có thể biết được quá khứ vị lai. Ví như họ nói với quý vị rằng: “Tôi biết ngày mai sẽ có người đến thăm anh, người đó lại còn nói với anh như thế nầy, thế nầy...” Hoặc như: “Trước kia anh đã làm những việc gì, tôi đều biết rõ cả...” Nhưng họ đều có chỗ sơ sót là không dứt được dâm dục, hoặc háo tài, hoặc luyến sắc. Đó đều là cảnh giới của ma quái. Nếu người nào có tâm tranh, tâm tham, cầu danh cầu lợi, hoặc tuyên truyền đề cao cá nhân mình để cho người khác sùng bái mình, lại còn ích kỷ tự lợi và không nói lời chân thật thì chúng ta nên biết rằng, người nầy đang trong cảnh giới của ma.

    Nhân dịp Đại Sư Liên Trì tham bái hai vị Lão Sư Biến Dung và Tiếu Nham, Đại Sư được hai vị khuyên bảo rằng: “Người xuất gia tu đạo là vì sanh tử đại sự. Đừng để danh lợi làm liên lụy!Lúc bấy giờ tại đạo tràng đó cũng có một số người tham gia học tập, nhưng không mấy ai để ý gì đến lời khai thị nầy. Duy chỉ có Đại Sư Liên Trì là thâm hiểu được ý nghĩa sâu xa mà tâm trí đầy hứng khởi. Cho nên khi rời Kinh Sư đến Đông Xương, Đại Sư bỗng hoát nhiên khai ngộ bèn làm bài kệ trên. Thật ra bốn câu thơ đó chỉ là thứ yếu. Còn lời lẽ tối trọng yếu là không được tìm cầu danh lợi, đó mới là chìa khóa chủ yếu của câu chuyện nầy.

    Quý vị đừng tưởng rằng Đại Sư Liên Trì đến Đông Xương mới khai ngộ. Mà ngay từ lúc đầu, Đại Sư đã từng bước, từng bước đi trên con đường khai ngộ rồi. Đến lúc đứng trước mặt hai vị Lão Sư Biến Dung và Tiếu Nham, bị hai Ngài hét cho một tiếng lớn vào đầu khiến Đại Sư hoát nhiên khai đại ngộ ngay. Sau khi xuất gia thì không đam mê danh lợi, đó là bài chú có hiệu quả nhất, có thể chiến thắng tất cả bọn ma quân. Chúng ta hãy xem lời văn của bài kệ như sau:

    Mối nghi từ hai mươi năm trước. Chuyện sanh tử đại sự nầy đã khiến Đại sư Liên Trì bối rối nghi hoặc từ lâu. Bởi chưa hiểu nên Đại Sư phải xuất ngoại tham vấn, cầu bậc Thiện tri thức giải quyết dùm mối nghi ngờ.

    Lạ thay cái ngộ ngoài ngàn dặm. Trải qua ba ngàn dặm, sau đó Đại Sư đến Đông Xương thì đột nhiên khai ngộ. Điều nầy sao mà kỳ diệu quá! Bao chấp trước của Đại Sư bỗng nhiên tiêu tán hết!

    Đốt hương ném kích như giấc mộng. Thắp nhang cúng Phật là chuyện tốt, còn ném đao kích, đánh lộn với ma quân là chuyện xấu. “Trịch kích” cũng có thể là ném bỏ khí giới, tức là không đánh nhau nữa. Tất cả những điều đó cũng giống như giấc mộng thôi! Vì sao giống như giấc mộng? Bởi vì mình chưa hiểu rõ một cách triệt để.

    Ma Phật, phải trái uổng công tranh. Bây giờ Đại Sư đã hiểu rồi. Trước đây vì Đại Sư cứ dụng công ở chỗ hư vọng thị phi, phải trái, cho nên đều là uổng phí tâm sức! Đại sư Liên Trì cũng không nói rằng: Phật và Ma như là một. Mà ma là ma, Phật là Phật. Hai bên đều đã không quan hệ với nhau thì có thị phi, phải trái gì đáng phải tranh cãi hả? Những cuộc bàn luận phải trái lúc trước đều là hư vọng, chẳng phải thật.

    Nếu muốn hàng phục bọn ma, quý vị phải có chút ít công phu chân thật, không phải chỉ thiền nơi miệng mà có thể làm được.

    Còn một cách khác là: “Vô ma bất hiển Phật, Vô Phật bất hiển ma,” không có Ma thì Phật chẳng hiện, không có Phật thì Ma chẳng hiện. Ma và Phật cũng là pháp tương đối với nhau, chứ không phải khi Phật khai ngộ rồi thì Ma và Phật nhất như là một đâu. Sau khi Phật khai ngộ rồi thời Ma, Phật cũng vẫn như trước, chỉ ngoại trừ - Phật thì không có tư tưởng thù địch. Phật xem tất cả chúng sanh bình đẳng và Ma cũng là một phần tử trong chúng sanh, cho nên Phật xem Ma là đồng đẳng. Nhưng Ma đối với Phật có bình đẳng hay không? Tuyệt đối là không! Vì lúc nào Ma cũng muốn lật đổ Phật.

    Qua hai mươi năm sau, Đại sư Liên Trì mới hiểu rõ đạo lý không tranh. Đại Sư giác ngộ rằng trước đây mình chỉ tranh cãi phải trái ở bề ngoài một cách vô ích. Lúc đó Đại Sư đã không hồi quang phản chiếu và không quét dọn sạch sẽ cái tự tánh của mình, cho nên hễ người ta tranh là Đại Sư liền phiền não.

    Tôi nói đạo lý rất là đơn giản, hy vọng quý vị ngẫm nghĩ lại cho kỹ càng. Bởi vì trên nguyên tắc, chúng ta không được phạm lầm lỗi. Quý vị đều còn trẻ, và cũng không nên tùy tiện nói “Ma Phật như là một.” Hoặc giả người đã đại triệt, đại ngộ rồi thì có thể nói như thế, bởi vì cảnh giới hiểu biết của họ không giống với quý vị. Nhưng chúng ta hãy còn là trẻ con, cho nên không được dối mượn đạo lý của người xưa, để rồi gượng gạo luận giải một cách sai lầm. Ví như trẻ con chưa biết lái xe, mà quý vị để cho nó lái thì rất dễ gây ra tai nạn, đến nỗi mất mạng là khác.

    Có một số người khi nghe nói “Ma Phật Nhất Như” thì họ nghĩ rằng: “Thế thì mình lạy Phật để làm gì? Mình làm nghiệp ma thì cũng không phải là nghiệp Phật hay sao?” Vì vậy trên nguyên tắc phân biệt, chúng ta phải hiểu cho rõ ràng, chớ có nghe ngóng một cách lẫn lộn như vậy, rồi cho rằng mắt con cá là ngọc trai.

    Giảng ngày 29 tháng 8 năm 1985

    Hòa Thượng Tuyên Hóa
    Hơi mâu thuẫn, chưa bàn đến độ đúng sai vì k dùng tâm, ý thức để suy đoán, nhg trên diễn giải khác dưới, đọc đoạn sau lại thấy tâm phân biệt giữa Phật và ma.
    Ngoài tâm không động
    Ðộng chẳng phải tâm
    Tâm chẳng phải động
    Ðộng vốn không tâm
    Tâm vốn không động
    Ðộng không lìa tâm
    Tâm chẳng lìa động
    Ðộng là dụng của tâm
    Dụng là cái tâm động

  5. #5

    Mặc định

    Điều tối kỵ là chúng ta dùng tâm, ý và thức để suy đoán
    Xin hoan hỷ chỉ cho đệ, ta không dùng tâm, ý, thức thì dùng gì để suy đoán ?

  6. #6

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hyuugaasmita Xem Bài Gởi
    Xin hoan hỷ chỉ cho đệ, ta không dùng tâm, ý, thức thì dùng gì để suy đoán ?
    cùng ý kiến,nói riết tui chẳng hiểu nữa
    Trân trọng

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hyuugaasmita Xem Bài Gởi
    Xin hoan hỷ chỉ cho đệ, ta không dùng tâm, ý, thức thì dùng gì để suy đoán ?
    :coffee: A Di Đà Phật !

    Theo mình nghĩ dùng tâm ý thức ở đây là tâm ý thức theo quan niệm cá nhân lập trường riêng tư tình cảm của mình mà phán đoán suy luận kinh điển thì hiểu không đúng ý nghĩa kinh thành ra xuyên tạc sai nghĩa kinh .

    Theo như Pháp Sư Tịnh Không dạy cách nghe Giảng Kinh là buông xuống mọi vọng niệm tư tưởng , một lòng lắng đọng nghe kinh , chẳng cần phải suy nghĩ cho hiểu , chỉ nghe , lắng hết lòng mà nghe , không cần lưu lại luôn , cứ như vậy thì mình sẽ không bị cái tư tưởng cá nhân làm bóp méo nghĩa kinh .

    Để hiểu đúng nghĩa kinh thì cần phải Trì Giới luật để làm cơ bản cho một nội tâm chân chánh vì tâm chân chánh thì mới có cái hiểu chân chánh không bị pha trộn tà kiến do cái tâm xảo quyệt phá giới biến chế ...

    Tiếp đó là nghe giảng Kinh bằng thái độ không phân biệt , nên nghe các bài giảng của các Tổ sư , Thiện Tri Thức giới đức nghiêm minh , thanh tịnh vì chúng ta vẫn còn non kém như một đứa trẻ cho nên vẫn chưa phải là lúc tham học lung tung .
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  8. #8

    Mặc định

    Theo như Pháp Sư Tịnh Không dạy cách nghe Giảng Kinh là buông xuống mọi vọng niệm tư tưởng , một lòng lắng đọng nghe kinh , chẳng cần phải suy nghĩ cho hiểu , chỉ nghe , lắng hết lòng mà nghe , không cần lưu lại luôn , cứ như vậy thì mình sẽ không bị cái tư tưởng cá nhân làm bóp méo nghĩa kinh .
    cảm ơn huynh đã chỉ dạy, nhưng xin đệ lại đuọc hỏi, ta dùng giới luật để làm nền tảng nội tâm là đúng rồi, nhưng nghe giảng kinh thì lúc nào thế tôn cũng khuyên chúng đệ tử rằng "hãy khéo tác ý ta sẽ giảng", thì đệ nghĩ với nền tảng giới luật tâm ta đã khéo uyển chuyển thì ta khéo léo hướng ý thức mình về chánh niệm tỉnh giác, suy nghĩ theo chánh tư duy thì mới hiểu được cái nghĩa của bài kinh để mà hành trì theo? Chứ nếu mà nghe mà không suy nghĩ, cứ nghe mà không lưu lại thì đâu có khác gì nghe nhạc thư giãn đầu óc đâu ?

  9. #9
    Đai Đen Avatar của thiệntâm 123
    Gia nhập
    Dec 2010
    Nơi cư ngụ
    Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    563

    Mặc định

    Đệ mạn phép! sai xin huynh tha thứ ! theo đệ ĐỨC THẾ TÔN không yêu cầu đệ tử học thuộc kinh lầu lầu mà chỉ cần ta hiêu những gì ngài nói
    Phân thân hiện khắp cõi trần,

    Trăm ngàn vạn kiếp hóa nhân gian này.

    Đáp lời cầu nguyện ứng ngay

    Thuyền từ cứu khổ không giây tạm ngừng.

    rose4rose4rose4rose4

  10. #10

    Mặc định

    nhưng xin đệ lại đuọc hỏi, ta dùng giới luật để làm nền tảng nội tâm là đúng rồi, nhưng nghe giảng kinh thì lúc nào thế tôn cũng khuyên chúng đệ tử rằng "hãy khéo tác ý ta sẽ giảng"
    ,

    Theo như mình hiểu " khéo léo tác ý " ở đây có nghĩa là hãy chú ý , hướng tâm hoàn toàn lắng nghe , đừng vọng tưởng lung tung ....để nghe trọn vẹn hoàn toàn lời dạy của Thế Tôn .

    suy nghĩ theo chánh tư duy thì mới hiểu được cái nghĩa của bài kinh để mà hành trì theo?
    Chánh Tư Duy là mọi suy nghĩ chánh đáng để đi đến không tham không sân không si , nhưng vừa nghe lại vừa suy nghĩ e rằng không nghe được trọn vẹn bài Pháp .


    Chứ nếu mà nghe mà không suy nghĩ, cứ nghe mà không lưu lại thì đâu có khác gì nghe nhạc thư giãn đầu óc đâu ?
    Cố tình lưu lại thì sẽ bị xa mất thực tại , Thiền Sư Ajhan Cha dạy hãy để cho thời pháp trôi qua như dòng nước chảy , khi nào cần tự nó sẽ hiện .

    Mình chỉ chia sẽ những gì mình học được từ các Thiện Tri Thức , hoàn toàn không phải ý riêng của mình .
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  11. #11

    Mặc định

    Cảm ơn huynh đã chia sẻ

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Kinh Vô Lượng Thọ Phật !
    By kinhdich in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 31-05-2012, 04:26 PM
  2. hỏi bài giảng kinh Bát Nhã
    By Dieuchi in forum Đạo Phật
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 03-02-2012, 03:21 PM
  3. Tây Phương Du Kí
    By cloudstrife in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 01-10-2011, 11:28 AM
  4. Truyền thọ tam quy
    By phúc minh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 21-03-2011, 06:28 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •