Chữ Tất Đàm là một dạng văn tự cổ của tiếng Phạn được dùng ở vùng Bắc Ấn Độ thời xưa. Chữ này âm Phạn đọc là Siddham có nghĩa là "thành tựu"; chữ Devanagari viết là सिद. Khi chữ này truyền sang Trung Quốc thì được phiên ra nhiều âm khác nhau: Tất Đàm, Tất Đàn, Tất Đán, Thất Đán, Thất Đàn... Khi truyền sang Nhật Bản thì người Nhật gọi chữ này là Bonji.
Lịch sử
Chân ngôn Oṃ Maṇi Padme Hūṃ được viết bằng chữ SiddhamThời điểm ra đời của loại chữ này đến nay vẫn chưa thống nhất. Trong quyển "Thư pháp linh tự Đông Phương", John Stevens cho rằng chữ này được hình thành vào khoảng sau năm 700. Tuy nhiên thực sự thì chữ này đã có trước đó rất lâu. Điển hình là lá bối có ghi bài Bát Nhã Tâm Kinh bằng chữ Siddham được mang từ Ấn Độ sang Trung Quốc rồi người Nhật thỉnh về nước vào khoảng năm 610. Một số cứ liệu cho rằng chữ này hình thành trong khoảng những năm 420-588.
Từ Phạn "Siddhaṃ" được viết bằng chữ Siddham Chữ Siddham hình thành xuất phát từ chữ cổ Gupta và sau đó nó làm nền tảng cho sự hình thành chữ Devanagari sau này. Kinh điển Phật giáo từ Bắc Ấn thời xưa truyền sang các nước lân cận ở nhiều dạng văn tự khác nhau trong đó chữ Siddham mang tầm quan trọng nhất. Kinh tạng của Ngài Huyền Trang thỉnh về từ Ấn Độ được viết ở thể chữ này.
Tại Việt Nam chữ Siddham từ xưa đến nay được mật truyền trong các tự viện. Không hình thành các văn bản lưu hành phổ thông trong đại chúng.
Ở Trung Quốc thời Đường, kinh văn chữ Phạn chính là chữ Siddham, đã xuất hiện các tác phẩm Phạn Tự Thiên Văn của Nghĩa Tịnh, Tất Đàm Tự Ký của Trí Quảng, Tự Mẫu Biểu của Nhất Hạnh.
Tại Nhật Bản chữ Siddham được gọi là Bonji, mang nghĩa là "Phạn tự". Chữ Siddham du nhập vào Nhật Bản bởi một phái đoàn Tăng nhân và du học sinh Nhật sang Trung Quốc vào năm 608. Đáng kể nhất là dòng phái Đông Mật của Ngài Không Hải đã bảo tồn và phát huy loại chữ này.
Có người cho rằng khi Trung Quốc tiếp thu chữ Nagari thì chữ Siddham bị đẩy vào quên lãng. Thời điểm này cũng là lúc bang giao giữa Nhật và Trung Quốc bị gián đoạn nên chữ Nagari và các thế hệ chữ viết sau này không được truyền sang lấn chân chữ Siddham tại Nhật. Vì lý do đó, chữ này đã trở thành tử ngữ tại Trung Quốc và ở các nước khác trừ nước Nhật. Thực tế là chữ Siddham vẫn được bảo tồn và lưu truyền trong các dòng Mật tông tại các nước trong khu vực.
Các giả thuyết về sự hình thành chữ Siddham
Chủng tử của Đại Nhật Như Lai trong Thai tạng giới
Chữ Siddham dùng để ghi lại lời Phật dạy ở cảnh giới Long Cung, do Long Thọ Bồ Tát mang về truyền dạy lại. Do đó chữ này được gọi là Long Cung Tương Thừa.
Chữ Siddham do Phạm Thiên tạo ra để làm phương tiện truyền đạt tri thức cho nhân loại. Do đó chữ này được gọi là Phạm Vương Tương Thừa hay Nam Thiên Tương Thừa.
Chữ Siddham do Phật Thích Ca truyền dạy. Do đó chữ này được gọi là Thích Ca Tương Thừa. Đến sau khi Phật nhập diệt thì các vị Văn Thù, Di Lặc, A Nan dùng chữ này để kết tập kinh điển.
Chữ Siddham do Đại Nhật Như Lai truyền dạy. Do đó chữ này được gọi là Đại Nhật Tương Thừa. Kim Cương Tát Đỏa dùng chữ này để kết tập. Về sau Long Mãnh Bồ Tát vào tháp sắt thọ nhận và lưu truyền.
Bảng mẫu tự Siddham
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%B..._%C4%90%C3%A0m
Bookmarks