Lấy gì đánh thức nhơn sanh,
Ðời toan tìm dữ, bỏ lành thì thôi.
Thấy càng thêm chán lắm ôi!
Nhơn tình như thế đứng ngồi không an.
Thói đời nhiều sự dị đoan,
Làm mê hoặc chúng mơ màng viển vông.
Họa chung khôn thể lường đong,
Thấy vầy Thầy đổ lụy ròng vì con.
Ðể cho tâm chí tiêu mòn,
Tinh thần tiền tụy sắt son mấy người.
Làm chi để tiếng trò cười,
Thấy đời hổ thẹn thói đời hủ thay.
Văn minh tấn bước đua tài,
Mở mang trí óc hoát khai tinh thần.
Làm sao cho rạng mười ân,
Làm cho ích nước lợi dân thì làm!
Ðỉnh chung lợi lộc đừng ham,
Trau giồi trí hóa tánh phàm dứt đi.
Xưa nay hễ vị thì vì,
Tùy theo việc phải đừng tùy bất công.
Chung nhau Nam, Bắc, Tây, Ðông,
Kết giây đoàn thể đại đồng trị an.
Làm cho Ðạo-đức mở mang,
Làm cho cơ thể vững vàng bền lâu.
Siêng cần dầu phải dãi dầu,
Phấn tâm lập chí mới hầu nên thân.
Người mà trì trệ tinh thần,
Biếng làm Ðạo-đức, không cần nghĩa nhơn.
Trong đời có đặng điều hơn,
Là nhờ lập chí gội ơn phước lành.
Nhược không lập chí tu hành,
Già đời mãn kiếp không thành món chi.
Nhơn gian bất hoặc là gì,
Biết thân lập chí ắt thì thành công.
Người tu lập chí sửa lòng,
Nhược bằng biếng nhác thì không ích gì.
Muốn trừ khử một món chi,
Phải bền lập chí ắt thì việc xong.
Những lời Thầy đã ước mong,
Mong con lập chí thức-thông chơn-truyền.
Noi gương của bực Thánh Hiền,
Sửa mình đến cảnh Thần Tiên hưởng nhàn.
Chán đời tìm chốn tịnh an,
Học theo quân tử, lánh đàng tiểu nhơn.
Khó khăn chí vẫn đâu sờn,
Hữu duyên nghe lọt tiếng đờn vô-vi.
Làm người cần phải nghĩ suy,
Hai đường qua lại chọn đi đường nào.
Khổ tâm bước thấp bước cao,
Tầm sư học đạo công lao chớ phiền.
Xưa kia NGHIÊU-ÐẾ cầu Hiền,
Bao phen khó nhọc mà truyền kế ngôi.
TẦM-DO đã suốt mồ hôi,
HỨA-DO lòng vẫn chán rồi lợi danh.
Thị đời là vũng hôi tanh,
Nên chi lánh trược tầm thanh ẩn nhàn.
Ngôi cao vương đế không màng,
Quét tiêu bợn tục giàu sang há cầu.
Nhưng còn SÀO-PHỦ cao sâu,
Nghe qua sợ nhiểm lòng trâu nữa kề.
Ðời đà bắt chán bắt chê,
Ðáng khi đáng thị mết mê nỗi gì?
Non cao khiển hứng phú thi,
Xa nghe tiếng tục rầm rì bên tai.
Nhẫn kiên HÀN-TÍN đại tài,
Lòn trôn giữa chợ chẳng nài xấu xa.
NHAN-HỒI tháng lại ngày qua,
Ẩn thân nơi chốn rừng già luyện tu.
Nghêu ngao trong cảnh Trời Thu,
Ðai cơm bầu nước vân du ta bà.
Tâm hồn thích hợp trung hòa,
Mấy năm lậu hạng mới là trượng phu.
An nhàn tâm trí thanh u,
Chán đời giã dối hèn ngu bạo tàn!
TỬ-NHA ngồi chốn thạch bàn,
Thả câu sông Vị ẩn tàn Thiên-Cơ.
Lúc nguy phải chịu dại khờ,
Bao lần sôi nổi đợi chờ hội thi.
Làm ăn chẳng đặng món gì,
Thành ra hư hõng mãi đi bao lần.
Có thân thiệt khổ cho thân,
Sớm khuya buôn tảo bán tần đủ đâu.
Ðói no vui với Ðạo mầu,
Suốt đời thong thả mà cầu trường sanh.
Bảy năm Dủ-Lý nhọc nhằn,
Hà-Ðồ Bát-Quái dịch thành Lạc-Thơ.
Cho đời rõ máy huyền cơ,
Tiên-thiên chia sắp cõi bờ hậu-thiên.
Ðời sau dễ kiếm chơn truyền,
VĂN-VƯƠNG thọ ngục chẳng phiền trách ai.
Trọn niềm trung hiếu chẳng phai,
Mặc người bội nghĩa, mặc ai bạc tình.
Lỗi mình, mình trước sửa mình,
Lỗi người phú có Thần minh chứng lòng.
Chi bằng nhẫn nhịn thì xong,
Mặc ai thêu dệt cua còng thì thêu.
Kìa như TỬ-LỘ thân nghèo,
Trọn niềm hiếu Ðạo, vẹn điều thỉ chung.
Ðáp đền hiếu thảo đến cùng,
Dẫu cho nát thịt cũng trung trọn tình.
LỘ là một bực thông minh,
Ai mà chỉ lỗi sửa mình mừng vui.
TRƯƠNG-LƯƠNG nếm Ðạo biết mùi,
Níu nương cửa Phật an vui tinh thần.
Công khanh tể tướng không cần,
Biết lo lánh trước cái thân sau này!
Học cho suốt lý đủ đầy,
Thí như HẠNG-THÁC làm thầy TRỌNG-NI.
Bạc riêng bạc, chì riêng chì,
Vàng thau lẫn lộn rồi nguy lắm mà.
Chánh riêng chánh, tà riêng tà,
Người lành kẻ dữ khác xa hai đường.
Hữu xạ thì tự-nhiên hương,
Cần chi mà phải đem trương với đời!
Bánh xe chuyển kiếp luân-hồi,
Cứ quay mãi mãi cứ nhồi luôn luôn.
Thói đời hãm chặt vào khuôn,
Ðương còn cá chậu chim chuồng khổ lao.
Kẻ chịu thấp, người ưa cao,
Trèo lên trợt xuống lộn nhào leo lên.
Miễn sao tâm chí vững bền,
Ðài cao trăm trượng biết lên kiếm tìm.
Sắt cục mài trở nên kim,
Dày công mới đặng đừng hiềm khó khăn.
Lỗi rồi mà biết ăn năn,
Hóa Mê thành Giác mới rằng tài ba.
Hai đường là Phật với Ma,
Ðọa siêu chỉ tại chánh tà, do tâm!