14.- Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
.Ðêm 17 tháng 4 năm Tân Mão ( 1951 )


Ý nghĩa sự nhập tịnh của Ðức Hộ-Pháp


BẦN ÐẠO NHẬP TỊNH TRONG 3 THÁNG CŨNG NHƯ ÐỨC CHÚA JÉSUS RA NGOÀI SA MẠC 40 NGÀY VÀ ÐỨC PHẬT THÍCH CA VÀO VƯỜN BỒ ÐỀ

Thưa cùng chư chức sắc Thiên Phong.

Trước khi Bần Ðạo để lời về đạo đức tinh thần cho toàn con cái Ðức Chí Tôn, Bần Ðạo xin cảm ơn toàn thể nam nữ.
Nhờ tình cảm của toàn thể chư đạo hữu mà Bần Ðạo được hưởng một đặc ân của Ðức Chí Tôn ban cho.

Kể từ ngày nhập tịnh nơi Trí Huệ Cung, chắc con cái Ðức Chí Tôn đều đánh dấu hỏi ? Ðức Hộ Pháp nhập tịnh để làm gì ? Muốn làm gì ? Nghĩa lý gì mà nhập Trí Huệ Cung trong ba tháng nay ?

Vậy Bần Ðạo giải rõ hành tàng trong 3 tháng mà Bần Ðạo đã làm, cái hành tàng đó cũ kỹ chớ không mấy gì lạ. Cái hành tàng về mặt Ðạo giống như 40 ngày của Ðức Chúa Jésus ra ngoài sa mạc cầu khẩn với Ðức Chí Tôn ban bố hồng ân cho toàn nhơn loại, đặng đem cơ quan cứu thế của Ngài giao cho khắp xã hội nhơn quần được hưởng, giống như Ðức Thích Ca vào vườn bồ đề ngồi thiền định đặng xin giải thoát cho chúng sanh.

Còn về mặt thế, nó giống như vua David vì tội tình nhơn loại mà buổi nọ ra đồng sa mạc cầu đảo, xin giải pháp cứu khổ cho dân Israel.
Giống như vua Hạ Võ mặc hài gai, đội nón lá, chịu phong trần đặng cầu đảo cho quốc dân khỏi tội.

Muốn nói rõ hành tàng căn mạng của toàn thể nhơn loại và toàn thể quốc dân Việt Nam đã làm cho Bần Ðạo phải chịu 3 tháng nơi chốn tịch mịch, để cầu khẩn với Ðức Chí Tôn ban hồng ân đặc biệt đặng cứu rỗi lấy họ là đem cơ quan cứu khổ của Ngài đã thiệt hiện cho toàn thể nhơn loại nhứt là sắc dân yêu ái đồng chủng cùng Bần Ðạo là sắc dân Việt Nam.

Chúng ta thử hỏi, một người tượng trưng tinh thần của một dân tộc, tinh thần đạo đức cho nước Việt Nam đã có sứ mạng đem tinh thần đạo đức ấy cứu khổ cho thiên hạ, sửa lại cái hành tàng hung ác của người đời cho thành giọt nước Thiêng Liêng của Ðức Chí Tôn, nước thiêng liêng đạo đức của Ngài gội rửa con đường thánh đức cho sạch sẽ đừng cho nhơ bẩn, ấy là nước chí thánh của Ngài, cầm giọt cam lồ đem rưới khắp toàn thể con cái của Ngài tức là cả chúng sanh nơi mặt địa cầu nầy, người ấy còn phải làm thế nào hơn ?

Ôi ! Cái cao vọng buổi nầy ai cũng muốn làm, được hay chăng không phải do quyền của mình, kẻ xin thì khác, mà kẻ cho lại khác.

Hại thay, tạo nghiệp của nhơn loại từ khi có nơi mặt địa cầu nầy, đến bao giờ mới bảo vệ được sanh mạng của họ cấp tiến trong con đường giải khổ, họ đã gây thêm trong sự nghiệp của họ tội chướng thì nhiều mà phúc hậu lại ít, biểu sao không có trường lưu huyết !

Nếu chúng ta giở lịch sử ra xem từ năm mươi năm nay, khởi đầu thế kỷ hai mươi dĩ chí đến 1951, không buổi nào nhơn loại hưởng đặng hạnh phúc hòa bình, chỉ tương tàn tương sát với nhau mà thôi. Nếu không có quyền năng thiêng liêng kia thì bần Ðạo nói quả quyết rằng : Không ai cứu chữa tội tình nhơn loại được.

Chúng ta thương nhơn loại không bằng cha sanh ra con, đã sanh họ ra vừa hình thể vừa linh hồn tức là Ðại Từ Phụ, Ngài đã cầm quyền sanh mạng của nhơn loại mà không cứu chữa tội tình của nhơn loại được, phải chịu khoanh tay ngồi đổ lụy vì căn quả của nhơn loại đã định vậy. Chính mình Ðức Chí Tôn cũng không phương sửa cải, nếu có phương sửa cải thì không cần gì Bần Ðạo phải vào Trí Huệ Cung cầu khẩn, Ngài đã làm trước rồi.

May thay ! Nhờ đạo tâm của toàn Thánh Thể của Ngài và toàn con cái nam nữ cũng vậy, nhứt là đám thiếu niên đã làm cho cảm động Ðức Chí Tôn, nên Ngài cho Bần Ðạo hội diện quyền năng Thiêng Liêng 4 phen trong 3 tháng.

Bần Ðạo nói rằng : cái định mệnh của nhơn loại, cũng như cái định mạng của toàn thể quốc dân Việt Nam trong giờ phút nầy ở trong tay Ðức Chí Tôn và Bần Ðạo dám quả quyết rằng :

Luật nhơn quả của nhơn loại chưa hết thì chưa tạo hạnh phúc được.

Cái mơ vọng của thiên hạ đạt đặng cùng chăng là khi nào Khối Thánh Ðức của họ cao hơn phàm tâm của họ, thì giờ phút ấy hạnh phúc của họ mới có và cơ quan cứu khổ của Ðức Chí Tôn mới thiệt hiện được.
Thuyết Ðạo IV / tr 20