Tôi xin đăng tại đây nhận xét của TS. Đỗ Đức Hạnh về quyển Tâm Vũ Trụ của tôi
Nhận xét kết quả nghiên cứu
ĐỘC GIẢ DẤU TÊN.
Trong cuốn Tâm Vũ Trụ, có các kết quả chính sau:
Chương 1
Định lý 1: Vấn đề là mối liên hệ như thế nào, vì nói giữa hai đối tượng có ít nhất là liên h ệ
“thuộc cùng vũ trụ” thì hoàn to n vô nghĩa. Định lý này không th c sự có ý nghĩa.
Sau khi khẳng định “Từ nay, khi nói đến một đối tượng ta phải hiểu nó cùng với tập hợp các mối liên hệ của nó với các đối tượng khác.
Đôi khi để nhấn mạnh ta sẽ gọi là đối tượng đầy đủ.“ thì trong tất cả những đ cập sau cần phải ghi rõ, nếu kh ông
người đọc sẽ hiểu đối tượng là đối tượng KHÔNG đầy đủ. [1]
Định Lý 2: tác giả đã nhầm lẫn nghiêm trọng khi cho rằng, tồn tạ i một hệ tọa độ cũng như sai
lầm cho rằng, khi tồn tại một h tọa độ thì vũ trụ sẽ trở th ành vô hạn. Đồng thời tác giả n hầm
lẫn nghiêm trọng về khái niệm “v ô hạn”, vì sẽ hoàn toàn là vô nghĩa khi nói về vô hạn mà không
đề cập đến khái niệm metric.
Ví dụ: xét đường tròn bán kính 1 ,
Ta có thể dễ dàng xây dựng đượ c phép nhúng đường thẳng thực R v ào vòng tròn này, cái tạo
thành một hệ tọa độ địa phươn g như tác giả đã chứng minh.
Ví dụ 2: trong không gian của cơ h c lượng tử, KHÔNG bao giờ tồn t ại một hệ tọa độ địa
phương và các trục Ox.. Tác giả ng hiễm nhiên giả sử sự tồn tại n ày, đồng nghĩa với việc bác bỏ
hoàn toàn tất cả các kết quả c a cơ học lượng tử đã được ki ểm định thực tế.
Một lý thuyết bất kỳ trước hết phải phù hợp với thực tế trư c khi được công nhận.
Định lý 3:hiển nhiên.
Định nghĩa 2: kết quả này hoàn to àn không rõ rang, khi không đề cập đối tượng ở đây là đầy đủ
hay đối tượng không đầy đủ. Xem [1].
Nếu như là đối tượng không đầy đủ, thì két quả này sai hoàn to n. Nếu là đối tượng đầy đủ thì
toàn bộ phải được viết lại đ bảo đảm tính thống nhất.
Định lý 5, 6: hiển nhiên.
Kể cả như vậy, Định Lý 4,5,6 n ày có thể tóm gọn bằng 1 câu: tồn tại một quy luật bao hàm sự
vận động của mọi vật trong Vũ t rụ”, một kết quả đã biết cách đây 2000 năm, gọi là Đạo. Quy
luật đó được nghiên cứu trong Kin h Dịch đã từ lâu, Dịch có nghĩa là biến động.
Định nghĩa của tác giả về thời gian rất không rõ rang, sai về bản chất. Có thể hiểu, tác giả đề cập
đến thời gian như một dạng tiên đề KHÔNG chứng minh mà chỉ có th mô tả nó thông qua
“trình tự, độ dài sự kiện”… Tuy nhiên, đây là định nghĩa kiểu vòng tròn “con gà là cái nở ra quả
trứng, quả trứng sinh ra con gà”.
Kể cả khi tạm thời bỏ qua định nghĩa này, thì cũng chỉ suy ra đư ợc “tồn tại một quy luật bao
hàm sự vận động của mọi vật t rong Vũ trụ, nhưng không thể gọi t ên nên tạm gọi là Đạo”, vì
vận động thì phải có thời gian t hì khái niệm vận động mới có ý nghĩa.
Định lý 8: Hiển nhiên. Nó chỉ là một dạng của “mọi sự việc, h iện tượng trên đời đều có sinh có
diệt, diệt rồi lại sinh”.
Định lý 9: Đây là cái kết quả đã biết trong tu đạo.
Tổng kết lại, toàn bộ chương 1 c hỉ cần nói một câu duy nhất: “t ồn tại một quy luật bao hàm sự
vận động của mọi vật trong Vũ t rụ, nhưng không thể gọi tên đượ c gọi là Đạo”. Cái này trùng
với kết quả của Lão Tử:
http://nhantu.net/TonGiao/DaoDucKinh/DaoDucKinh.htm
1. Đạo chính là Tuyệt đối, là Bản thể thường hằng cửu vũ trụ. Vì Tuyệt đối, nên Đạo khó bàn cãi, khó xưng danh.
2. Đạo chính là nguồn gốc sinh xuất vũ trụ quần sinh. 3. Đạo có thể ở vào một trong hai trạng thái: tĩnh và động. Tĩnh là
trạng thái chưa hiển dương. Động là trạng thái đã hiển dương. Chưa hiển dương thời minh linh, ảo diệu, không biết đâu
là bến bờ. Đã hiển dương, thời mới thấy công trình vân vi, giới hạn. 4. Nhưng hiển dương hay không hiển dương, vẫn
chỉ là một đạo thể siêu vi. Danh hiệu tuy khác nhau nhưng tựu trung vẫn là một thực thể. Đạo thể siêu vi ấy là cửa
thiêng sinh xuất ra mọi điều huyền vi ảo diệu. 5. Quan niệm của các nhà bình giải về chữ Đạo: Các nhà bình giải và các
dịch giả Âu châu thường hiểu Đạo là Nguyên lý vũ trụ. Wieger dịch Đạo là Principe (Nguyên lý). A. Rémusat dịch Đạo là
Logos (Thần ngôn). Stanislas Julien dịch Đạo là La Voie (Đường). P. B. Blakney dịch Đạo là The Way (Đường). Các
dịch giả người Đức dịch Đạo là Weg (Đường), Vernunft (Lý), Wort (Logos, Thần ngôn), Wahrheit (Chân lý). A. W. Watts
dịch Đạo là Réalité ultime (Thực thể tối hậu). Trong bản dịch Đạo Đức Kinh đầu tiên ra tiếng Latinh chữ Đạo đã được
dịch là: Lý; Nguyên lý; Tạo hóa. [3] A. Rémusat, giáo sư Hoa ngữ ở Đại học Paris, dịch giả Đạo đức kinh, cho rằng chỉ
có thể dịch chữ Đạo bằng chữ Logos với nghĩa là Nguyên thể, Nguyên lý, Nguyên âm. [4] Hardwick, giáo sư đại học
Cambridge, cho rằng chữ Đạo phải được hiểu là Nguyên nhân trừu tượng, là Nguyên lý, Nguyên sinh vô hình, vô tượng,
vô thủy vô chung, vô biên tế, v.v. [5] Các nhà bình giải Đạo đức kinh, Hoa hay Việt cũng đều giải Đạo là Nguyên lý tối
cao, là nguồn gốc sinh ra trời đất vạn vật, là Thái cực, v.v.
Chương 2
Định nghĩa 3: Thông tin là tập hợp tất cả các” mối liên hệ” từ A vào B.
Tuy nhiên, định nghĩa này hoàn toàn không rõ ràng.
Định lý 10: Có thể phát biểu “tất cả các mối liên hệ giữa tất cả các đối tượng trong vũ trụ
cũng biến dịch, tuân theo các quy luật của Dịch”.
Định lý 11: Mối quan hệ giữa các đối tượng bất kỳ cũng tuân theo các nguyên tắc của Đạo.
Định lý 12: Đạo đứng đằng sau tất cả các mối quan hệ của mọi đối tượng trong vũ trụ.
Định lý 13: Định lý sai. Rất có thể tại thời điểm t0 đó mối liên hệ này thể hiện thông tin trước đó
thì sao?
Định lý 14: Hiển nhiên, đây là điều đã biết từ lâu.
Toàn bộ chương này có thể tóm gọn: tất cả các mối liên hệ giữa tất cả các đối tượng trong vũ
trụ cũng biến dịch, tuân theo các quy luật của Dịch”.
Chương 3
Định nghĩa 4: Tác giả đưa ra định nghĩa mới về năng lượng nhưng không có nghĩa đó là khái
niệm năng lượng quen biết. Cụ thể hơn, không thể đưa ra khái niệm “công suất của sự biến đổi
tình yêu” là bao nhiêu W. Vì vậy, tôi xin phép dùng từ NL thay cho Năng Lượng tác giả dùng vì
rất có thể gây ra nhầm lẫn.
Định lý 15: theo đúng khái niệm NL, thì A chứa năng lượng không có nghĩa là tâm vũ trụ chứa
năng lượng. Lý do đơn giản, tâm vũ trụ là duy nhất, vậy nếu như tâm vũ trụ biến đổi thì nó
không còn là duy nhất nữa. Nên do đó tâm vũ trụ phải là bất biến. Định lý này sai.
Định lý 15:Sự vận động của mối quan hệ của các đối tượng bất kỳ cũng tuân theo các quy luật
của Đạo.
Đây là cái quen biết.
Ví dụ điển hình: quan hệ giữa giai cấp thống trị và bị trị còn được gọi là mâu thuẫn xã hội. Chính
sự biến đổi, lên xuống của mâu thuẫn xã hội (mối quan hệ này) cũng tuân theo quy luật dịch lý.
Hệ quả của nó, đấu tranh xã hội cũng tăng giảm, và khi đạt đến cực điểm thì sẽ hình thành đấu
tranh giai cấp.
Định lý 18: sai cùng lý do với đ nh lý 13.
Chương 4
Định nghĩa 5:Đối tượng hữu hình= vật chất. Tuy nhiên, khái niệm nà y mâu thuẫn với cơ học
lượng tử, vì trong cơ lượng tử không phải đối tượng vật chất n ào cũng có kích thước.
Kích thước tức là tồn tại ánh x ạ không tầm thường từ một không gian nào đó vào đường thẳng
thực R. Tuy nhiên, không phải lúc n o ánh xạ này cũng tồn tại theo n ghĩa cổ điển.
Ví dụ: electron có thể ở cùng nhi u vị trí trong không gian với các xác suất khác nhau. Vậy
khoảng cách giữa 2 electron là bao nh iêu? Và do đó kích thước nguyên t /bán kính của các
orbital bằng bao nhiêu?
Định nghĩa 6: Đối tượng vô hình= ý thức.
Định lý 19: phải chứng minh được rằng NL của vật chất và ý thứ c có cùng một bản chất, cùng
một đơn vị đo và có thể chuyển hóa qua lại.
Định lý 20: tóm gọn lại: Ý thức cũng biến đổi theo quy luật của Đạo.
Định lý 21:mọi vật trong vũ trụ đều có phần vật chất và ý thứ c.
ĐL 22: hiển nhiên. Mọi mối liên h ý thức đều biến đổi theo Dị ch.
ĐL 23: có thể nói đơn giản, mọi phần ý thức của mọi vật đều biến dịch.
ĐL 26: có thể nói đơn giản, vậ t chất luôn biến đổi.
Phần chú ý:khái niệm “gần tâm v trụ hơn” có thể nói đơn giản “hiểu về Đạo, về Dịch hơn”.
Định lý 28, 29: hiển nhiên.
Định lý cầu được ước thấy 30: Chuyện gì xảy ra nếu như tập A và tập B có số lượng phần tử
khác nhau?
" Mọi sự tưởng tượng của chúng ta dù điên rồ đến đâu bao giờ cũng tồn tại một thực tế thực
trong vũ trụ vật chất đúng như ta tưởng tượng"
Kết quả này sai. Định lý 30 chỉ chứng tỏ sự tồn tại của một song ánh nối A và B, nhưng không ch ng tỏ
sự tồn tại của một đẳng cấu bảo toàn cấu trúc đưa A sang B. N n toàn bộ kết quả trang 61 là sai .
Từ đây, suy ra định lý 31 cũng sa i.
Định nghĩa 40: bản số không thể lấy giá trị âm, cũng như không nh t thiết lấy giá trị trên R.
Toàn bộ chương 6: kết quả hoàn to àn vô nghĩa, do tác giả không đ nh nghĩa rõ khái niệm
“hướng về tâm vũ trụ” “hướn g ra xa tâm vũ trụ” nghĩa là gì. Khái niệm này chỉ có nghĩa khi ta
xét không gian 1 chiều. còn nếu khô ng gian có nhiều hơn 1 chiều thì n trở thành vô nghĩa.
Chương 7
Định nghĩa 41:vô nghĩa, khi tác gi không định nghĩa khái niệm “tá c động nhỏ”, “tác động lớn”
nghĩa là gì. Nhỏ hay lớn tùy thuộ c vào quan điểm, và rõ ràng là ph thuộc vào metric mà ta xét.
Ví dụ: một ít thuốc chuột trong l y cà phê là chuyện lớn.
Định lý 51: Có thể nói đơn giản : quy luật biến động của mọi đ i tượng trong vũ trụ nắm vai trò
quan trọng nhất để điều khiển đ ối tượng đó.
Định lý 57: kết quả này không đ ợc chứng minh một cách “dễ dàng ” như tác giả đề cập. Hoàn
toàn không hiển nhiên khi chứng minh điều này.
Ví dụ, người ta có thể phát biể u:”Huyệt đạo của mọi ý thức c a một quốc gia nào đó chính là
chủ tịch nước”. Chỉ cần chủ tịch nước bị ung thư/ ám sát là cả quốc gia lao đao.
Chương 8
Khái niệm Thiền của tác giả trùng với khái niệm “tu Đạo”, “hi u Dịch Lý” trong tôn giáo.
Tài liệu tham khảo:
Đạo Đức Kinh:
Có một vật hỗn độn mà thành tr ớc cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không t hay đổi vĩnh cửu,
vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó nó là mẹ của vạ n vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì,
tạm đặt tên cho nó là đạo.
Đạo trời không tranh mà khéo thắng , không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự tới, bình thản vô tâm mà
khéo mưu tính mọi việc. Lưới trờ i lồng lộng, thưa mà khó lọt.
Lời nói chân thật thì không hoa m , lời nói hoa mĩ thì không chân th ật. Người thiện thì không cần ph i biện giải [vì
hành vi tốt rồi], người nào phải biện giải cho m nh là người "không thiện". Người biết thì không nói, người nói là
người không biết.
Người ta sinh ra thì mềm yếu mà k hi chết thì cứng đơ. Thảo mộc si nh ra thì mềm dịu mà khi chết đi thì lại khô
cứng.
Cho nên cứng mạnh là cùng loài vớ i chết, mềm yếu là cùng loài với sống. Vì vậy binh mạnh thì không thắng, cây
cứng thì bị chặt. Cứng mạnh thì phải ở dưới, mềm yếu lại đư c ở trên.
Mạnh mẽ về dám làm [tức quả cảm, cương cường] thì chết, mạnh mẽ về không dám làm [tức thận trọng, nhu
nhược] thì sống. Hai cái đó cùng là mạ nh mẽ, mà một cái thì được lợi , một cái lại bị hại; ai mà bi t được tại sao trời
lại ghét cái đó [quả cảm, cương cường]?
Người nào hứa một cách dễ dàng quá thì khó tin được, người nào cho việc gì cũng dễ làm thì sẽ g ặp nhiều cái khó.
Cho nên người hiểu đạo coi việc gì cũng khó mà rốt cuộc không gặ p cái gì khó.Cái có từ cái không mà ra. Không có
nghĩa là không có gì cả nhưng phả i có cái gì thì mới có cái không có.
Cái gì an định thì dễ nắm, giòn thì dễ vỡ, nhỏ thì dễ phân tán . Ngăn ngừa sự tình từ khi chưa m anh nha, trị loạn từ
khi chưa thành hình.
Cây lớn một ôm, khởi sinh từ mộ t cái mầm nhỏ; đài cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu
từ một bước chân.
Người ta làm việc , thường gần t ới lúc thành công thì lại thất b i, vì không cẩn thận như lúc ban đầu, dè sau như
trước thì không hỏng việc.
Người hiểu đạo trị thiên hạ the o chính sách vô vi, giữ thái độ iềm đạm. Xem cái nhỏ cũng như c i lớn, cái ít như
nhiều, lấy đức báo oán. Giải quy t việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ [vì việc khó trong thiên
hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn k hởi từ nhỏ]. Cho nên thánh nhân trước sau không làm việc gì lớn mà thực hiện ược
việc lớn.
Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhâ n nghĩa, mưu trí xuất hiện rồi m i có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu từ,
nước nhà rối loạn rồi mới có t ôi trung.
Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh nhân bất nhân, c oi trăm họ như chó rơm [Luật thiên nhiên
không có tình thương của con người , cứ thản nhiên, vô tâm với vạn vật, mùa xuân tươi tốt, mùa đông điêu tàn...].
Khoảng giữa trời đất như cái ốn g hơi; hư không mà không kiệt, càng chuyển động hơi lại càng ra. Càn g nói nhiều lại
càng khốn cùng, không bằng giữ sự hư tĩnh.
Muốn cho vật gì thu rút lại thì t ất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi thì tất hãy làm cho họ mạnh lên đã.
Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ lên đã. Muốn cướp lấy vật gì thì tất hãy cho đã. Hiểu như vậy là sâu kín mà
sáng suốt. Vì nhu nhược thắng đư c cương cường.
Ngũ sắc làm cho người ta mờ mắt; ngũ âm làm cho người ta ù tai; ng ũ vị làm cho người ta tê lưỡi, ruỗi ngựa săn
bắn làm cho lòng người ta mê muội , vàng bạc làm cho hành vi người t a đồi bại. Cho nên bậc đắc đạ o cầu no bụng
mà ko cầu vui mắt, bỏ cái xa xỉ, đa dục mà chọn cái chất phác, v ô dục. Bậc đắc đạo bận áo v i thô mà ôm ngọc quý
trong lòng.
Trời đất trường cửu. Sở dĩ tr i đất trường cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được.
Vì vậy thánh nhân [người đắc đạo] đặt thân mình ở sau mà thân lạ i được ở trước, đặt thân mình ra ngoài mà thân
mới còn được. Như vậy chẳng ph i vì thánh nhân không tự tư mà th ành được việc riêng của mình ư ?
Người quân tử gặp thời thì mặc áo gấm mà ngồi xe ngựa, không g p thời thì mặc áo vải thô mà đ i chân đất.
Không trọng người hiền để dân kh ông tranh, không quý của hiếm để dân không trộm cắp, không phô bày cái gì gợi
ham muốn, để lòng dân không loạn.
Chính trị của thánh nhân là làm ch o dân lòng thì hư tĩnh, bụng thì n o, không ham muốn, không tranh giành, xương
cốt thì mạnh.
Khiến cho dân không biết, không muố n mà bọn mưu trí thì không dám hà nh động. Theo chính sách vô vi thì mọi
việc đều trị.
Không học thì không phải lo. Càng t heo học thì mỗi ngày dục vọng, "h ữu vi" càng tăng, theo đạo thì mỗ i ngày dục
vọng càng giảm, vô vi càng tăng.
Ta có ba vật báu mà ta ôm giữ c n thận, một là lòng nhân ái, hai là tính tiết kiệm, ba là không dám đứng trước
thiên hạ. Vì nhân ái mà sinh ra dũ ng cảm, vì tiết kiệm mà sinh ra su ng túc, rộng rãi, vì không dám đứ ng trước thiên
hạ mà làm chủ được thiên hạ.
Nếu không nhân ái mà mong được d ng cảm, không tiết kiệm mà mong đ ược rộng rãi, không chịu đứng sa u mà
tranh đứng trước người thì tất h ỏng việc. Trời muốn cứu ai thì c ho người đó lòng nhân ái để tự bảo vệ, lấy lòng
nhân ái mà giúp người đó.
Người sáng suốt nghe đạo thì gắn g sức mà thi hành, người bình thư ng nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ , người tăm
tối nghe đạo thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là ạo nữa ?
Nước là vật cực mềm mà lại th ng được vật cực cứng là đá [nước chảy đá mòn]. Nước là vật cực kì mềm mại, nó
luôn tìm chỗ thấp mà tới [khiêm nhường], ngày đêm chảy không ngừng, bốc lên thì thành mưa, chảy xuống thì
thành sông rạch, thấm vào lòng đấ t để nuôi vạn vật. Tự nó không ngừng biến đổi, lại sinh ra mọi loài. Nó không
tranh với ai, lựa chỗ thấp mà tớ i, gặp cái gì cản thì nó uốn kh c mà tránh đi, cho nên đâu nó cũn g tới được.
Vật gì bén nhọn thì dễ gẫy. Rán g giữ cho chậu đầy hoài, chẳng b ng thôi đi; con dao cố mài cho bén nhọn thì lại
không bén lâu.
Vàng ngọc đầy nhà, làm sao mà gi nổi ? Giàu sang mà kiêu căng là tự rước họa vào thân.
Ba mươi nan hoa cùng qui vào 1 cái b ánh, nhưng chính nhờ khoảng trống k hông trong cái bánh mà xe mới dùng
được. Nhồi đất sét để làm ché n bát, nhưng chính nhờ cái khoảng t rống không ở trong mà chén bát mớ i dùng được.
Đục cửa, cửa sổ để làm nhà, c hính nhờ cái trống không đó mà nh à mới dùng được.
Vậy ta tưởng cái "có" [bánh, chén bát, nhà] có lợi cho ta mà thực ra cái "kh ng" mới làm cho cái "có" hữu ích.
Người đời được vinh hay bị nhụ c thì lòng sinh ra rối loạn, sợ v lớn thì sinh ra rối loạn. Tại sao vinh, nhục thì lại sinh
ra rối loạn ? Là vì vinh thì đư c tôn, nhục thì bị hèn; được th ì lòng rối loạn [mừng rỡ mà!]; mất thì lòng rối loạn [rầu
rĩ mà!]; cho nên mới bảo là vinh, nhục si nh ra rối loạn. Vậy phải làm sao ? Chúng ta sỡ dĩ sợ vạ lớn là vì chúng ta có
cái thân. Nếu chúng ta quên cái thâ n mình đi, thì còn sợ gì lòng sinh ra rối loạn nữa ?!
Cho nên kẻ nào coi trọng sự hy sin h thân mình cho thiên hạ, thì có th ể tin cậy vào kẻ đó được.
Ai có thể đang đục mà lắng xuốn g để từ từ trong ra ? Ai có thể đang hư tĩnh mà phát động để l ần lần sinh động lên
? Người nào giữ được đạo ấy thì không tự mãn, không cố chấp, cũng không tự ái. Vì vậy nên mới có thể bỏ cái qua
cái cũ mà chấp nhận cái mới đư c.
Kẻ đứng 1 chân thì không thể đ ng được lâu, kẻ xoạc chân ra th không thể đi được, kẻ tự bi u hiện mình thì
không bao giờ chói lọi, kẻ tự k công thì không có công, kẻ tự p hụ thì chẳng khuyên bảo được ai, kẻ vẽ rắn thêm
chân thì không trường cửu. Thái đ đó được ví như đồ ăn thừa, những ung nhọt ai ai cũng ghét.
Ai cũng cho cái đẹp là đẹp do đ mà phát sinh ra quan niệm cái xấu ; ai cũng cho cái thiện là thiện do đó mà phát
sinh ra quan niệm về cái ác. Tại s ao con người thích cái đẹp mà lạ i không thích cái xấu ? Là vì "có" và "không" sinh
ra lẫn nhau, "dễ" và "khó" tạo nên lẫn nhau, cao thấp dựa vào nhau m tồn tại ...
Kẻ biết người là người khôn, k tự biết mình là người sáng su t. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được
mình là kiên cường. Kẻ biết thế nào là đủ là người giàu; kẻ g ng sức là người có chí. Kẻ nào ko rời bỏ những điều
trên thì sẽ được lâu dài, chết mà không mất là trường thọ.
Hồn nhiên, vô tư, vô dục như đứ a trẻ mới sanh là có đức dày, ai cũng yêu quý, muốn đạt như vậy không phải là dễ.
Đứa trẻ mới sinh độc trùng ko ch ích, mãnh thú không ăn thịt, ác đi ểu ko vồ. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất
chặt, suốt ngày gào hét mà giọng ko khản, như vậy là khí cực hòa.
Dứt thánh hiền, bỏ mưu trí dân l i gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, d ân lại hiếu từ; dứt trí xảo b lợi, không có trộm
giặc.
Ba cái đó (thánh trí, nhân nghĩa, x o lợi) vì là cái văn vẻ bề ngo ài không đủ để trị dân nên ph i bỏ; khiến cho dân
quy về điều này: ngoài thì mộc m c, trong thì giữ sự giản phác, gi ảm tư tâm bớt dục vọng mới là tích cực.
Dạ (giọng kính trọng) khác với ơi (giọng xem thường) bao nhiêu ? Thi n với ác khác nhau như thế nào ? Cái mọi
người sợ ta không thể không không sợ. Việc học rộng lớn thay, khôn g sao hết được.
Mọi người hớn hở như hường bữ a tiệc lớn, như mùa xuân lên đài; riêng ta điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như
đứa trẻ chưa biết cười, rũ rư i mà đi như không có nhà để về . Mọi người có thừa, riêng ta như thiếu thốn, lòng ta
ngu muội, đần độn thay ! Mọi ngư ời đều có chỗ để dùng, riêng t a ngoan cố mà bỉ lậu. Riêng ta kh c người mà quý
mẹ của muôn loài (tức đạo)
Vạn vật tuần hoàn, âm cực dương sinh, lúc sinh lúc tử, trăng tròn tr ăng khuyết. Vạn vật biến đổi r i trở lại cái bản
thể của nó (trở về với đạo). Từ xưa đến nay, đạo tồn tại ho ài, nó sáng tạo ra vạn vật. Chúng ta do đâu biết được
bản chất vạn vật ? Đó là do đ o.
Thánh nhân ôm giữ lấy đạo làm ph ép tắc cho thiên hạ. Không tự bi u hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là
phải nên mới chói lọi, không tự kể công nên mới là có công, không tự phụ cho nên mới hơn người. Chỉ vì không
tranh với ai nên không ai tranh với mình được.
Người xưa bảo: "Cong (chịu khuất p hục) thì sẽ được bảo toàn", đâ u phải hư ngôn! Nên chân thành giữ vẹn cái đạo
mà về với nó. Trong trời đất có bốn cái lớn mà người là một. Người bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt
chước tự nhiên.
Ít nói thì hợp với đạo. Cho nên gió lốc không thể thổi suốt buổ i sáng, mưa rào không suốt ngày. Ai làm nên những
cái ấy? Chính là do trời đất. Tr i đất còn không thể lâu được, huống hồ là con người ?
Vì binh khí là vật bất tường (ch ng lành, gây họa), ai cũng ghét cho nên người giữ đạo không dùng bi nh khí. Bất đắc
dĩ phải dùng đến nó, mà dùng đ n thì điềm đạm là hơn cả. Thắ ng cũng không cho là hay, nếu cho là hay tức là
thích giết người. Kẻ nào thích gi t người thì không trị được thi n hạ.
Việc lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trọng bên phải. Giết hạ i nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến
thắng thì nên lấy tang lễ mà xử.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)




Bookmarks