3.4. ÂM DƯƠNG CỦA BÁT QUÁI HẬU THIÊN

Khi ba hào hiệp thành một quẻ, quẻ nào có một hay ba hào dương là quẻ thuộc dương. Tương tự, quẻ nào có một hay ba hào âm là quẻ thuộc Âm.

Vậy Càn , Khảm , Cấn , Chấn là Dương còn Tốn , Ly , Khôn , Đoài là Âm. Chiều quay của hai phần âm dương này do đó sẽ khác nhau như ở hình 16.


Theo hướng Càn Khảm Cấn Chấn thì dương tính của Càn chủ động đi vào trung, thượng và hạ thể còn theo hướng Đoài Khôn Ly Chấn thì âm tính của Khôn đi vào thượng, trung rồi hạ thể.

Sau đây là bản so sánh hai phần trái phải trong Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái:


Trong thân thể Hậu Thiên của con người bất phân nam nữ, tả âm hữu dương, trên mặt đất thì Đông và Bắc thuộc Dương, Tây và Nam thuộc Âm.

Khí Thiên sinh Dương Thủy 1 và Dương Mộc 3 vẫn ở Bắc và Đông phương còn Khí Địa sinh Âm hỏa 2 cùng Âm Mộc 4 vẫn thuộc Nam và Tây Phương nhưng đổi thay chỗ ở:
Nhị Hỏa (Địa Hỏa hay Âm Hỏa) và số thành của nó là Thất Hỏa (Thiên hay Dương Hỏa) sang ở nhà Kim bên Tây Phương. Ấy là nhà của Kim Mẫu (Kim Đoài Mẫu Khôn ).

Tứ Kim (Địa Kim hay Âm Kim) và số thành của nó là Cửu Kim (Thiên Kim hay Dương Kim) sang ở nhà Hỏa bên Nam Phương. Ấy là nhà của Lão Hỏa có Dương Hỏa (cũng là Âm Mộc Tốn : Mộc sinh Hỏa) và Âm Hỏa Ly .

Hỏa 2,7 khiến nhà của Kim Mẫu chuyển động. Kim 4,9 khiến nhà của Lão Hỏa chuyển động. Số 7 trong Hà Đồ là Tốn Âm Mộc cũng là Dương Hỏa, số 4 trong Hà Đồ là Đoài Âm Kim. 7 Hỏa vào nhà 4 Kim khiến Kim hành Nguyên Tử Khí (Dương Kim Càn ). 4 Kim vào nhà 7 Hỏa (cũng là Âm Mộc Tốn trong Hậu Thiên Đồ) khiến Hỏa hành Nguyên Tử Lực (Dương Mộc Chấn ).

Những rung động của Kim trong nhà Hỏa hay Hỏa tong nhà Kim là những rung động Thiên Thiều. Nguyên Tử Lực trong bản thân là Thiên Tinh.

Vậy Tiên Thiên Bát Quái nói sự sinh, thành còn Hậu Thiên Bát Quái nói sự chuyển, hóa. Sinh Tiên Thiên, thành Hậu Thiên. Chuyển Hậu Thiên hóa Tiên Thiên.

Đồ Tiên Thiên là từ đốm vằn trên lưng con Long Mã hiện trên sông Hà, đồ Hậu Thiên là từ ốc xoáy trên lưng con Kim Quy hiện trên sông Lạc. Long Mã nói chuyện vừa bay trên trời vừa chạy trên mặt đất, Kim Quy nói chuyện vừa bò trên mặt đất vừa bơi trong nước. Chúng có chung một nơi thi thố là mặt đất trên cạn nhưng cũng có khác chỗ chuyên môn: một đàng là trời đầy chất khí và một đàng là biển đầy chất nước. Nhưng dù sao thì phải biển sâu mới chở nổi thuyền to nơi thế gian, khí dày mới đỡ được cánh bằng trên trời cao.

Khí dày nói đây tượng cho Hỗn Ngươn Khí (Tiên Thiên Khí + Hậu Thên Khí) và Nguyên Tử Khí. Nước sâu nói đây tượng cho Thiên Thủy 1 và Địa Thủy 6. Thiên Thủy là ngôi con một của Trời, đến từ Thiên đỉnh vào với tâm un ấp ý cao vời hiệp thượng. Địa Thủy là ngôi con một của Đất, đến từ Thiên để vào với tâm chiu chắt lòng ái từ nhuận hạ.

Xét những tương quan nội tại (giữa chu kỳ) của thế vận chuyển sinh khí Hậu Thiên hoặc tương đối với Tiên Thiên (ở các điểm đầu hay cuối của chu kỳ) người ta có thể được thêm các lý giải liên quan đến những chuyển biến trên các phần khác nhau của địa cầu hay của những đơn vị không gian nhỏ hơn, gọi chung đó là môn Phong Thủy. Cũng có thể do theo đây mà xét trong bản thân con người. Các độ số và chu kỳ sinh lực đến với từng bộ phận trong bản thân cũng từ các mấu chốt này mà suy ra.

Do tính Nam tả Nữ hữu và Âm tả Dương hữu này mà khi hiệp hai Bát Quái Tiên và Hậu Thiên lại, cần có một sấp một ngửa đối mặt nhau để dòng chuyển lưu sinh khí được thông.