ĐỆ TỬ QUY

LỜI TỰA

Khổng Lão Phu Tử là một nhà giáo dục cũng là một vị thầy vĩ đại, đối với văn hóa của Trung Quốc có sức ảnh hưởng rất sâu. Tư tưởng của Ngài lưu truyền cho đến nay đã khắp trên thế giới. Ngài tin sâu nền giáo dục đạo đức, kỷ luật và phẩm đức là nền tảng giáo dục của nhi đồng, từ lúc nhỏ thì đã thực hành trong cuộc sống hằng ngày của thời thơ ấu. Không giống như hiện nay cha mẹ phản đối xử phạt, thời xưa ở Trung Quốc các bậc cha mẹ còn cảm ơn và khích lệ thầy giáo trách phạt khi con cái của họ không ngoan. Vào thời xưa các bậc cha mẹ đều nghĩ rằng, trước hết phải đắp nền tảng đạo đức phẩm hạnh cho con cái của mình cho đàng hoàng, sau đó mới có thể tiến thêm một bước học tập những khoa mục khác. Nếu không có đắp nền tảng đạo đức phẩm hạnh cho đàng hoàng, mà học tập những khoa mục khác thì cũng uổng công. Mục đích sự cầu học của cổ nhân là chí tại Thánh Hiền, vì muốn phục vụ cho nhân dân, không vì danh văn lợi dưỡng.


Mấy ngàn năm nay, quyển sách nhỏ này là tiêu chuẩn của người làm học trò, cũng là sự chỉ dẫn đạt đến hạnh phúc mỹ mãn của đời người. Nếu theo tiêu chuẩn này dùng trong thời đại hiện nay thì hình như rất nghiêm khắc, nhưng cổ nhân nghĩ rằng từ thuở nhỏ phải có kỷ luật và tu dưỡng phẩm đức, đó mới là điều quan trọng. Nếu không có kỷ luật và tu dưỡng phẩm đức thì khi con cái lớn lên sẽ không có thành tựu. Thí như nói nếu trẻ em từ nhỏ không biết hiếu thuận cha mẹ và không biết tôn kính sư trưởng, sau khi con cái trưởng thành thì làm sao biết được tuân theo lễ phép. Hiện nay trong gia đình không phải là con cái nghe lời cha mẹ, mà là cha mẹ phải nghe lời con cái. Thầy giáo cũng không dám dạy dỗ và xử phạt học sinh, bởi vì thầy giáo sợ trái với nhân quyền nhi đồng dưới sự bảo vệ của pháp luật, cũng sợ bị cha mẹ của học sinh tố cáo.


Con người sanh trong thời đại loạn thế, mối quan hệ giữa người với người, mối quan hệ giữa người và hoàn cảnh, mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ, mối quan hệ giữa vợ và chồng, mối quan hệ giữa quân và thần (người lãnh đạo và người bị lãnh đạo) đã hoàn toàn tan rã. Cha mẹ không giống cha mẹ, con cái không giống con cái.Giữa người với người không còn chú trọng luân lý đạo đức. Tâm lý của chúng ta bị ô nhiễm bởi hoàn cảnh. Chế độ gia đình của chúng ta đã bị phá vỡ. Tình trạng ly dị đã đạt đến mức độ cao. Địa cầu đã bị ô nhiễm bởi hoàn cảnh, cũng có thể rất mau thì không thích hợp cho nhân loại sinh sống. Làm bậc cha mẹ và thầy giáo đối với tương lai đời sau của con em mình đều cảm thấy lo âu. Hy vọng quyển sách nhỏ này có thể cung cấp cho mọi người làm tham khảo để làm phương châm chỉ dẫn cho chúng ta hầu mong giúp được tương lai đời sau đạt đến thế giới xã hội hòa bình. Vào thời xưa ở Trung Quốc coi trọng phái nam, chỉ có con trai mới có thể đi học. Vì vậy trong quyển sách nhỏ này có rất nhiều danh từ đều dùng cho phái nam. Thế nhưng đối với xã hội hiện nay, quyển sách nhỏ này rất thích hợp cho tất cả các em nhi đồng cũng bao gồm cả phái nam và phái nữ đều có thể học tập.

Ban phiên dịch Tịnh Tông Học Viện Úc Châu




ĐỆ TỬ QUY. THÁNH NHÂN HUẤN.
THỦ HIẾU ĐẠO. THỨ CẨN TÍN

Đệ tử quy. Thánh nhân dạy.
Trước hiếu thuận. Sau cẩn tín.

Dịch nghĩa: Quyển sách Đệ Tử Quy này là lời dạy của cổ thánh tiền hiền Trung Quốc. Trước hết là dạy cho chúng ta phải hiếu thuận với cha mẹ và tôn kính thương yêu anh em chị em của chúng ta. Sau đó dạy cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày đối xử với người, đối xử với việc, đối xử với vật phải làm sao giữ cho tâm mình luôn luôn cẩn thận, phải làm thế nào để cho mọi người tin tưởng chúng ta. Chúng ta cũng tin tưởng lời dạy của cổ thánh tiên hiền.

PHIẾM ÁI CHÚNG, NHI THÂN NHÂN.
HỮU DƯ LỰC, TẮC HỌC VĂN.

Thương chúng sanh, học đạo đức.
Có dư thời, siêng học tập.

Dịch nghĩa: Kế đến là dạy cho chúng ta phải bình đẳng thương yêu tất cả chúng sanh. Phải thân cận với những vị có lòng nhân từ và đức hạnh, đi theo họ học tập. Trước hết chúng ta nhất định phải làm hết trách nhiệm bổn phận của mình. Nếu còn có dư thời gian và sức lực, lại tiến thêm một bước nghiên cứu học tập nghệ thuật văn học, để nâng cao phẩm chất cuộc sống tinh thần của mình.

NHẬP TẮC HIẾU

Chương thứ nhất

Ở nhà hiếu thuận với cha mẹ



PHỤ MẪU HÔ, ỨNG VẬT HOÃN.
PHỤ MẪU MẠNG, HÀNH VẬT LÃN.

Cha mẹ gọi, lập tức vâng.
Cha mẹ sai, phải làm ngay.

Dịch nghĩa: Khi cha mẹ gọi chúng ta, thì chúng ta phải lập tức trả lời. Cha mẹ sai bảo chúng ta làm việc gì, chúng ta phải tức khắc làm ngay.

PHỤ MẪU GIÁO, TU KÍNH THÍNH.
PHỤ MẪU TRÁCH, TU THUẬN THỪA.

Cha mẹ dạy, cung kính nghe.
Cha mẹ trách, phải thừa nhận.

Dịch nghĩa: Đối với lời dạy của cha mẹ, chúng ta phải cung kính lắng nghe.

Khi cha mẹ quở trách, thì chúng ta phải thật sự thừa nhận và phải nỗ lực tự sửa đổi hết.

ĐÔNG TẮC ÔN, HẠ TẮC SẢNH.
THẦN TẮC TỈNH, HÔN TẮC ĐỊNH.

Lạnh làm ấm, nóng làm mát.
Sáng quan tâm, tối an lòng.

Dịch nghĩa: Mùa đông chúng ta phải làm thế nào cho thân thể của cha mẹ được ấm áp, mùa hè phải làm cho được mát mẻ. Mỗi ngày buổi sáng chúng ta phải vấn an cha mẹ, tức là chúng ta tỏ ra quan tâm cha mẹ, buổi tối chúng ta phải để cho cha mẹ ngủ được ngon giấc.

XUẤT TẤT CÁO, PHẢN TẤT DIỆN.
CƯ HỮU THƯỜNG, NGHIỆP VÔ BIẾN.

Đi cho hay, về cho biết.
Ở cố định, không đổi nghề.

Dịch nghĩa: Khi chúng ta muốn ra khỏi nhà, trước hết phải thưa với cha mẹ để cho cha mẹ biết chúng ta đi đâu, bởi vì cha mẹ lúc nào cũng lo lắng con cái của mình. Sau khi về đến nhà thì liền gặp cha mẹ để cho cha mẹ biết chúng ta đã về rồi. Cũng là khiến cho cha mẹ được yên tâm. Chỗ ở của chúng ta phải cố định, cuộc sống của chúng ta phải có quy cũ. Làm việc cũng phải nhẫn nại vững bền, không nên tùy ý thay đổi ý chí của mình.

SỰ TUY TIỂU, VẬT THIỆN VI.
CẨU THIỆN VI, TỬ ĐẠO KHUY.

Việc không hợp, chẳng nên làm.
Nếu đã làm, thì bất hiếu.

Dịch nghĩa: Tuy là một việc nhỏ, nếu không hợp tình không hợp lý, thì mình không nên làm. Nếu như đã làm, tức là bất hiếu. Bởi vì cha mẹ không muốn thấy con cái của mình làm việc không hợp tình, không hợp lý, không hợp pháp.

VẬT TUY TIỂU, VẬT TƯ TÀNG.
CẨU TƯ TÀNG, THÂN TÂM THƯƠNG.

Vật tuy nhỏ, không tự cất.
Nếu tự cất, cha mẹ buồn.

Dịch nghĩa: Đồ vật tuy nhỏ, không nên tự mình cất giấu để làm của riêng. Nếu tự mình cất giấu đồ vật này, khi cha mẹ biết được thì nhất định sẽ rất đau lòng.

THÂN SỞ HIẾU, LỰC VI CỤ.
THÂN SỞ Ố, CẨN VI KHỨ.

Cha mẹ thích, tận lực làm.
Cha mẹ ghét, phải trừ bỏ.

Dịch nghĩa: Cha mẹ ưa thích những chuyện hợp tình, hợp lý, hợp pháp, thì chúng ta phải tận tâm tận lực vì cha mẹ làm cho tốt đẹp. Trong phạm vi hợp lý, nếu như đối với người, đới với việc, đới với vật làm cho cha mẹ chán ghét, thì chúng ta phải hết lòng cẩn thận trừ bỏ ngay.

THÂN HỮU THƯƠNG, DI THÂN ƯU.
ĐỨC HỮU THƯƠNG, DI THÂN TU.

Thân bị thương, cha mẹ lo.
Đức hạnh kém, cha mẹ tủi.

Dịch nghĩa: Nếu thân thể của chúng ta bị thương, thì cha mẹ sẽ lo âu. Nếu đức hạnh của chúng ta không tốt, thì cha mẹ cũng cảm thấy tủi hổ.

THÂN ÁI NGÃ, HIẾU HÀ NAN.
THÂN TĂNG NGÃ, HIẾU PHƯƠNG HIỀN.

Cha mẹ thương, dễ hiếu thuận.
Cha mẹ ghét, vẫn hiếu kính.

Dịch nghĩa: Nếu cha mẹ thương yêu chúng ta thì chúng ta hiếu thuận cha mẹ không khó. Nhưng nếu cha mẹ chán ghét chúng ta, chúng ta vẫn phải hiếu thuận cha mẹ, đó mới là phù hợp cái hạnh tiêu chuẩn hiếu thuận của thánh hiền.

THÂN HỮU QUÁ, GIÁN SỬ CANH.
DI NGÔ SẮC, NHU NGÔ THANH.

Cha mẹ lỗi, phải cố khuyên.
Tỏ ra vui, lời nhu hòa.

Dịch nghĩa: Khi cha mẹ có lỗi lầm, chúng ta phải hết lòng khuyên bảo họ sửa lỗi. Lúc chúng ta khuyên cha mẹ sửa lỗi, nên tỏ ra thái độ dịu dàng, lời nói phải nhu hòa.

GIÁN BẤT NHẬP, DUYỆT PHỤC GIÁN.
HIỆU KHẤP TÙY, THÁT VÔ OÁN.

Khuyên không được, vẫn phải khuyên.
Thì nên khóc, đánh không giận.

Dịch nghĩa: Nếu cha mẹ không tiếp nhận chúng ta khuyên bảo, chúng ta phải có tâm nhẫn nại đợi khi tâm trạng của cha mẹ vui vẻ thì chúng ta lại đến khuyên họ. Nếu cha mẹ vẫn không chịu tiếp nhận lời khuyên, chúng ta cũng có thể dùng phương cách đau lòng đến khóc để khiến cho cha mẹ biết sửa lỗi. Cho dù có bị cha mẹ mắng hay đánh đi nữa, tâm chúng ta cũng không bao giờ có oán trách họ.

THÂN HỮU TẬT, DƯỢC TIÊN THƯỜNG.
TRÚ DẠ THỊ, BẤT LY SÀNG.

Cha mẹ bịnh, nếm thuốc trước.
Thường chăm sóc, không lìa khỏi.

Dịch nghĩa: Khi cha mẹ có bịnh, chúng ta sắc thuốc xong phải nếm trước. Chúng ta sớm hôm chăm sóc cha mẹ cho đàng hoàng, không được lìa khỏi họ.

TÁNG TAM NIÊN, THƯỜNG BI YẾT.
CƯ XỨ BIẾN, TỬU NHỤC TUYỆT.

Tang ba năm, nhớ ơn mãi.
Không vui chơi, tiệc ăn uống.

Dịch nghĩa: Sau khi cha mẹ vãng sanh, nhất định phải để tang cha mẹ 3 năm, chúng ta phải thường nhớ công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ mà cảm thấy đau lòng xót xa. Trong thời gian để tang cha mẹ, chúng ta phải xếp đặt trong nhà cho có không khí thương tiếc, không nên tham gia những cuộc vui chơi ăn uống linh đình.

TÁNG TẬN LỄ, TẾ TẬN THÀNH.
SỰ TỬ GIẢ, NHƯ SỰ SANH.

Trọng tang lễ, lòng thành kính.
Đối người mất, như sanh tiền.

Dịch nghĩa: Tang lễ của cha mẹ, chúng ta phải làm đúng theo nghi lễ, đến ngày cúng giỗ, chúng ta phải dùng tâm chí thành cúng tế cha mẹ. Chúng ta phụng thờ cha mẹ đã vãng sanh cũng phải cung kính như lúc họ còn sống không khác.