Chữ quốc ngữ xuất hiện cách đây khoảng 500 năm, đến nay đã ổn định, mang tính biểu đạt cao. Tiến sĩ ngôn ngữ Trần Trí Dõi, tác giả cuốn Ngôn ngữ và sự phát triển văn hóa xã hội mới xuất bản đã có cuộc trò chuyện chung quanh sự phát triển của chữ quốc ngữ.

- Một số ý kiến tỏ ra nghi ngờ giá trị tiên phong của Alexandre De Rhodes trong việc tạo ra chữ Quốc ngữ. Chúng ta phải dựa vào tiêu chí nào để đánh giá đúng công lao của giáo sĩ Đắc - Lộ (tên Việt của giáo sĩ Alexande De Rhodes) đối với văn hóa Việt?

- Đây là một vấn đề lớn, phức tạp, đòi hỏi phải có cái nhìn bao quát, khoa học. Trong bài tựa của bộ Từ điển Việt - Bô-la, giáo sĩ Đắc - Lộ đã nhắc đến công lao của hai giáo sĩ Gaspar d'Amaral và Autonio Barbosa, một người soạn bộ từ điển Việt - Bồ, một người soạn từ điển Bồ - Việt. Giáo sĩ Đắc - Lộ khiêm cung thừa nhận sự ảnh hưởng của hai giáo sĩ này. (Sự khiêm cung thường gặp của tất cả các nhà khoa học đối với người đi trước dù có nhiều trường hợp ảnh hưởng của người đi trước không lớn thực sự). Tuy nhiên chúng ta không thể tìm ra được hai cuốn từ điển đó. Giới khoa học có lẽ chỉ dựa vào lời của giáo sĩ Đắc - Lộ mà phán đoán. Tôi cho là mọi điều cần phải được chứng minh bằng văn bản, tư liệu rõ ràng. Trong những tư liệu, văn bản mà chúng ta xác định được thì giáo sĩ Đắc - Lộ chính là người đầu tiên tạo ra một hệ thống chữ viết hoàn chỉnh bằng cách dùng ký tự la-tinh để ghi âm tiếng Việt. Hệ thống đó là nền tảng cơ bản của tiếng Việt hiện đại: năm 1651, tại La-mã, giáo sĩ Đắc - Lộ đã xuất bản ba cuốn sách in đầu tiên của chữ Quốc ngữ. Đó là ba cuốn: Phép giảng tám ngày, Văn phạm Việt ngữ, Từ điển Việt - Bồ - La.

- Nhưng nhiều nhà nghiên cứu của ta và Pháp đã khẳng định rằng có một vài văn bản chữ Quốc ngữ xuất hiện trước năm 1651 của các giáo sĩ khác. Đặc biệt là các văn bản chép tay của giáo sĩ Francessco de Pina, thầy dạy tiếng Việt của giáo sĩ Đắc - Lộ?

- Đó là vấn đề chuyên biệt của ngôn ngữ mà ta phải hiểu rõ. Có thể tồn tại những văn bản như các nhà khoa học nói tới, không chỉ một mà nhiều văn bản. Nhưng vấn đề chúng ta đang đề cập đến không hẳn ở đó. Khi các nhà ngôn ngữ lên miền núi nghiên cứu về tiếng nói của các dân tộc anh em, mỗi người đều có cách "ghi" ký hiệu riêng về tiếng nói vùng đó. Đó là ký hiệu có tính chất "cá nhân" hoàn toàn không phải là chữ viết. Những ký hiệu đó chỉ biến thành chữ viết thực sự khi nó có hệ thống ngữ pháp, từ điển rõ ràng. Tôi cho rằng nếu tồn tại các văn bản như trên thì có thể chúng tồn tại ở dạng ký hiệu cá nhân. Giáo sĩ Đắc - Lộ có thể tiếp xúc và học hỏi ở các văn bản này. Tôi xin nhắc lại trong những văn bản đã được xác định thì chỉ có các tác phẩm của giáo sĩ Đắc - Lộ tạo ra được một hệ thống chữ viết thực sự.

- Như vậy, chúng ta có thể khẳng định giáo sĩ Đắc - Lộ là người tạo ra chữ Quốc ngữ?

- Chúng ta phải hiểu rõ khái niệm "Quốc ngữ". Bất kỳ loại ngôn ngữ nào muốn trở thành "Quốc ngữ" phải được cộng đồng dân tộc cùng sử dụng. Giáo sĩ Đắc - Lộ ghi âm tiếng Việt có tính chất khách quan, để phục vụ công cuộc truyền giáo của mình. Đó chưa thể gọi là chữ Quốc ngữ được. Nhưng do để học đạo dễ dàng hơn, cộng đồng công giáo bắt đầu dùng chữ của giáo sĩ Đắc - Lộ. Tuy nhiên, việc sử dụng chỉ giới hạn trong đời sống cộng đồng ấy. Tôi cho rằng chính họ, những người dân Việt đã góp phần "truyền sự sống" cho chữ viết của giáo sĩ Đắc - Lộ. Một điểm đáng chú ý là ngay cả chữ Nôm một thời cũng được coi là chữ Quốc ngữ. Như vậy khái niệm "Quốc ngữ" dành cho hệ thống ký tự của giáo sĩ Đắc - Lộ chỉ xuất hiện bắt đầu từ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục khi các nhà yêu nước thấy sự tiện dụng của chữ viết này.

- Sự bùng nổ của phong trào Thơ Mới phải chăng do tác động của sự kiện giới trí thức tiếp nhận sử dụng chữ Quốc ngữ?

- Về khía cạnh ngôn ngữ, phong trào Thơ Mới và Tự Lực Văn Đoàn đóng góp những giá trị vô cùng quan trọng. Các nhà văn, nhà thơ đã tạo ra một thứ tiếng Việt trong sáng về ngữ âm, ngữ pháp đạt tới độ chuẩn tiếng Việt hiện đại. Hơn nữa, trong các tập thơ, tiếng Việt được thay đổi kết cấu, tạo ra nhiều nghĩa mới. Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã chính xác khi đặt Tản Đà ở phần mở đầu. Tiếng Việt của Tản Đà một phần theo lối hiện đại, một phần vẫn theo lối cổ. Nhưng đến các nhà thơ Mới thì tiếng Việt thay đổi hoàn toàn. Nhiều tác phẩm thời đó vẫn còn là chuẩn mực về khía cạnh ngôn ngữ trong nền văn học hiện đại.

- Sự tác động của ngôn ngữ này đến một ngôn ngữ khác khi giao lưu với nhau là điều tất yếu. Ngôn ngữ của các dân tộc anh em ảnh hưởng đến tiếng Việt như thế nào?

- Ngôn ngữ của các nhà dân tộc anh em liên quan mật thiết đến ngôn ngữ Việt. Nhiều yếu tố "tối cổ" của tiếng Việt được lưu giữ lại trong các ngôn ngữ khác. Khi đọc bản dịch Quốc Âm Thi Tập, giáo sư Kenji Tonyta (đại học Osaka), một người rất giỏi tiếng Việt, nói rằng tiếng Việt chỉ có chữ "là" khi ảnh hưởng tiếng Pháp, vậy tại sao lại dịch là "Đường đi là đá mòn". Sau khi nghiên cứu ngôn ngữ của người Rục, chúng ta mới tìm được chữ "đá" là chữ "latá". Hay trong ngôn ngữ của người Thái, là ngôn ngữ của một dân tộc có sự cộng cư và hòa huyết với dân tộc Việt, dấu vết tiếng Việt cổ còn đậm nét hơn. Từ "sâu thẳm" chẳng hạn. Chữ "Thẳm" trong tiếng Thái là "Hang", hay "chim chóc", "cỏ rả" phần "chim", "cỏ" là tiếng Việt còn "chóc", "rả" của người Thái (vẫn có nghĩa là "chim", "cỏ")... Ngôn ngữ của các dân tộc anh em một mặt lưu giữ lại các yếu tố cổ của tiếng Việt, một mặt làm phong phú thêm cho tiếng Việt.

- Trong sự giao lưu văn hóa của đời sống hiện đại, tiếng Việt chịu tác động từ nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau. Vậy tiếng Việt gặp khó khăn nào trong đời sống hiện đại?

- Ngôn ngữ như khí thở, ai cũng hít thở được nhưng không phải ai cũng biết không khí có bị ô nhiễm hay không! Tiếng Việt hiện đại dùng sai nhiều cả ngữ pháp lẫn cách phát âm. Học sinh lại lười học tiếng Việt. Hơn nữa ngay các trường cũng không chú trọng đến việc dạy tiếng Việt. Nhiều trường dùng các thầy cô ở bộ môn khác để dạy tiếng Việt. Điều đó dẫn tới môn tiếng Việt trở nên khô cứng, nhàm chán. Nhiều sinh viên học tiếng Anh, tiếng Pháp, khi ra trường không thạo công việc của mình vì đơn giản là họ không thạo tiếng Việt. Theo tôi thì chúng ta phải chấn chỉnh lại hệ thống dạy tiếng Việt trong nhà trường.

- Trong văn học, cũng không ít các nhà văn làm tổn hại đến tiếng Việt quý giá bằng những hình thức ngô nghê của mình. Một nhà văn cần phải sử dụng tiếng Việt thế nào để được gọi là nhà văn đạt đến sự sáng tạo tinh khiết của tiếng Việt?

- Tôi cho rằng văn bản phải tuân theo các quy tắc ngữ pháp phổ thông. Tác phẩm phải để cho người đọc hiểu trọn vẹn tầng nghĩa, ngữ pháp - tầng nghĩa đầu tiên. Thứ hai là bằng sự kết hợp mới không nằm ngoài chuẩn ngữ pháp, nhà văn tạo ra những tầng nghĩa sâu hơn tầng nghĩa ngữ pháp. Thông qua tầng nghĩa ngữ pháp, người đọc sẽ hiểu các tầng nghĩa khác. Đó là lao động ngôn ngữ chân chính. Tiếng Việt sẽ bừng nở và tỏa hương đối với nhà văn nào trân trọng và yêu mến tiếng Việt thực sự.

Quỳnh Nhi thực hiện
(Báo Văn nghệ)

( nguồn : http://www.cinet.gov.vn/vanhoa/vanho...iengvietst.htm )