Còn Bán nguyệt Ngũ Lôi Đài bề cao 1m4 cộng là số Ngũ với bề kính tâm Bán nguyệt là 1m28 phân chính đó Ngai của Đức Hộ Pháp, nếu 1m2 là con số Khai Nguơn của12 Địa Chi 1m2 cộng là 3 có nghĩa Tam Châu, 8 là số Chưởng Quyền Bát Bộ vòng bán nguyệt 3m6 cộng là 9 tức số định vị cho bát phẩm chơn hồn, còn vòng bán nguyệt Đức Thượng Phẩm với Đức Thượng Sanh đồng ngự 6m24phân, nếu cộng 12. Chia ra là 2 con 6 với đạo là ngôi luật, với thế là ngôi pháp giới chúng sanh, nên băng gian bán nguyệt 8 tấc tức nhiên Thế Đạo vận hành trong số Bát Quái .
Còn 3 cấp của chư vị Thời Quân ngự Bảo Hiến Khai mỗi cấp băng gian 6 tấc 2 thành 3 con số bát của 3 ngôi Đạo Pháp Thế, 3 cấp này nối liền qua 2 bên nam nữ, nên mọi người vào bái lễ phải để bước trên đó có nghĩa chúng ta phải tùng pháp Tam Qui Thường Bộ của Hiệp Thiên Đài.
Còn Tịch Địa Đài giữa cấp Địa Thánh với ô vuông chỗ Hành Pháp Độ Thăng và Pháp Hôn Phối phải ở ngay 12 tấm gạch đen in bông hình bánh đúc ở giữa lót hàng đôi ngang qua 6, dọc 6 hình thành pháp Tứ Tượng thêm vào mỗi nách một miếng gạch với hình thập tự nhai có 12 gốc cộng là 24 miếng gạch màu đen tiêu biểu dưới đó có rồng đen do Đức Hộ Pháp đã trấn pháp xong kế bị lưu đày. Hầm tư vuông mỗi mỗi 1m2 nếu cộng là 48 cũng 12 ở cấp Địa Thánh, với con số Thập Nhị Địa Chi của Phật Mẫu, còn từ đáy lên chí miệng hầm 1m2 vốn số Thập Nhị Khai Thiên của Đức Chí Tôn, nếu chia ra là 6 vốn con số của Đạo Pháp ở nơi đàn hành pháp.
Còn Cung Đạo nối liền với tòa Bát Quái thành ra 10 cột rồng vàng tiêu biểu pháp Thập Thiên Can, nhưng Cung Đạo 2 cột thể hiện cho nguyên lý âm dương của trời đất , Bát Quái Đài nơi thờ Đức Chí Tôn bằng Thiên Nhãn trên quả Càn Khôn để tượng trưng nguyên hồn của Vũ Trụ là Đấng Thượng Đế nắm quyền Vi Chủ, thì Bắc Cù Lư Châu và địa cầu 68 của chúng ta ở hiện nay cũng không ngoài tầm tay của Vì Thiên Đế, nơi ngôi thờ có 8 rồng trắng bằng gỗ nằm day 8 hướng chia thành 8 cung do pháp Bát Quái vận hành mỗi hướng phải có sanh khí. Đó là nguyên lý Đạo của Cung Đoài với 4 chữ Tây Phương Bạch Đế, tòa Bát Quái cái chấm ở giữa là một Tầng độc nhứt, hình cổ bồng chia thành 3 cấp núm đá mài màu xanh ngậm lấy cốt quả Càn Khôn cũng màu xanh, viền núm bao quanh đá mài màu đỏ cao lên 1m2 dưới bày ra 12 cấp mỗi cấp cao 1 tấc. Cấp thứ nhứt mặt đá mài màu đỏ có 8 Cung ; Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài cũng đá mài màu vàng, cấp thứ nhì cũng đá mài chia thành màu Tam Thanh tám hướng y nhau, còn bao nhiêu cũng đá mài màu đỏ trên có ít cấp viền xanh, cấp chót hết lại viền trắng , 8 cột rồng trong nhìn ra 2 cột mặt tiền đứng cấp thứ 7 còn 6 cột kia đều đứng cấp thứ 5 cũng là số 12, bên tả tượng trưng cho dương, bên hữu tượng trưng cho âm. Nên phía nam phái 3 cột đứng theo gốc Bát Quái lú cổø da qui chừng 4 phân, còn bên phía nữ phái mặt nền liền đến ngấn trái bí tìm hiểu về nguyên lý đặc biệt có một cây đứng trong ốp luôn vuông gốc tiêu biểu cho sự Công bằng về pháp ở ngôi đức, phần tròn thể hiện cho sự bác ái ấy là luật của ngôi đạo, giáp vòng trên cũng như dưới cũng tiêu biểu số 12. Về thiên tượng là Thập Nhị Thời Thần, còn địa hình là Thập Nhị Thời Quân cộng là 24 nên lễ cúng đại đàn hầu Bát Quái phải 24 vị. Nam 12, Nữ cũng 12 do Đức Hộ Pháp phân định lạ một điều Lễ Sanh với Giáo Thiện đồng phẩm nhưng đi cúng Giáo Thiện đi sau Lễ Sanh còn hầu Bát Quái Giáo Thiện đứng cấp thứ 5 mỗi khoảng cột rồng 3 vị. 2 khoảng 6 vị. Người đứng đầu ngang Long Vị Đức Chưởng Đạo, còn Lễ Sanh người đứng đầu ngang bàn nội nghi nhưng mỗi vị mỗi cấp, 2 vị phái Thái đứng cấp thứ 6 và thứ 7, 2 vị phái Thượng đứng cấp thứ 8 và thứ 9, 2 vị phái Ngọc đứng cấp thứ 10 và thứ 11, vị Lễ Sanh đứng trước còn nhìn thấy Thiên Nhãn cấp lại thấp hơn, còn Giáo Thiện đứng thục vô mà cấp trên, về mặt yếu lý Thượng Đế là Đấng tánh đức toàn thiện và háo sanh nên phẩm dạy lành hầu cận hơn, còn phẩm giữ hạnh cũng hầu nhưng bủa rộng ra ngoài, bên nữ cũng vậy mỗi mỗi phải 12 số 12 là số chẳng khác nào ở mặt hữu vi của nền Tôn Giáo chúng ta. Cùng một gốc Tòa Thánh Tây Ninh trong cơ loạn đạo mới biến sinh 12 chi phái để chia rẽ con cái của Thầy, tức là 12 bóng. Cái bóng tuy giống cái hình ta hãy cẩn thận để mắt nhìn đừng vô tình mà bỏ hình theo bóng. Tòa Thánh Tây Ninh Đạo Cao Đài thể hình Bạch Ngọc Kinh tại thế. Nên ngôi đền thờ Đức Thượng Đế phải có 12 đài phần tách rời ra ngoài có 12 chi phái, cũng như xưa kia Đức Chúa Trời dạy ông Moise tạo Đền Thánh tạm và một bàn thờ tại chân núi Sinai dựng 12 cột trụ chỉ về 12 phái của dân Israel. Mà hôm nay dân Việt Nam cũng thế. Dầu chi phái cũng đồng con cái Thầy do người làm đầu mà đến buổi này về Chơn Pháp buổi Tam Kỳ các Chơn Linh bên chi phái chưa hưởng được kinh tận độ của Toà Thánh Tây Ninh từ Thiên Đạo đến Thế Đạo.
Giáp vòng tòa Bát Quái chi phái nên để mắt nhìn kỹ 8 chữ ( Tam Giáo qui nguyên, Ngũ Chi hiệp nhứt) Đoài thì Nhứt Tiền, Chấn thì Nguyên Hậu, khi chúng ta đê đầu khấn bái thần hướng vào ngay 2 chữ Nhứt Nguyên, Tòa Bát Quái điểm xoáy ốc ở giữa là 9ø làm cơ định vị cho quả Càn Khôn để thờ Đức Chí Tôn. Thấy chấp chóa những tinh cầu là chơn tướng hữu vi của Cửu Thiên Khai Hóa, coi như phần âm trầm ở Hạ phương Thế giái của Phật Mẫu, nhưng có ngôi Bắc Đẩu để làm tòa ngự cho Đức Chí Tôn tức thị trong âm phải có dương.
Phần trên thấy những tinh cầu hiển hiện để định danh ở cái có dưới đó hầm Bát Quái tượng lý ở cái không của thuở Hồng Mông về cơ mầu đạo pháp, Hồng Mông có nghĩa nguyên khí tự nhiên rộng lớn mênh mang mờ mịt. Cũng là nơi để đưa hoàn xá lợi của các Chư Thánh trở vào nguyên thỉ với mớ tro tàn. Nắp hầm nằm vựa chân tường của khuôn thiên nhãn thứ 12 do đôi bên tính dồn lại tại chánh đông là 12, thang bước xuống có 8 cấp. Chính giữa là chân trụ cốt của quả Càn Khôn trên ngôi thờ Chí Tôn nối liền xuống đứng chính giữa rún hầm Bát Quái cột chiều cao đụng dạ nền Bát Quái là 3m3 bề hoành châu trụ 4m5+9. Mỗi hướng mỗi cung có 8 bức tường 45cm cộng là 9, châu vô cột trụ của quả Càn Khôn, hình đứng lên cuốn vòng nguyệt cửa tường dính liền cột trụ như 8 cầu vòng tựa rồng phun nước, hướng Chánh Tây dưới đây là cung Đoài còn ngay ở bên trên ngôi đền là cung Đạo, đặc biệt cung Đoài dựa chân tường ngang có một cái bàn để tro tàn của Chư Thánh đã được Thiêu Cốt, 1) là Đức Quyền Giáo Tông, 2) là Đức Cao Thượng Phẩm, 3) là Ngài Ca Bảo Đạo, 4) là Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh. 5) là Ngài Đầu Sư Ngọc Trang Thanh, 6) là Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh. Phần này có 6 búp sen bằng đồng đề thánh danh mỗi vị còn hai cái thố bằng pha lê chẳng đề thánh danh.
Khoảng giữa bức tường cung Đoài chắc Đức Hộ Pháp, Ngài dạy cách tường chừng 7 tấc đối diện 2 bên từ dưới tính lên mỗi bên có 10 lỗ ngang vuông không sâu cở vừa viên gạch thẻ chập vào mỗi lỗ lòng cũng tô kỹ như mặt tường vậy, Bát Quái là con số âm, Cung Đoài Chánh Tây cũng thuộc âm, còn 10 là 2 con số lão âm, sẽ sanh dương, nên Cung Đoài trở thành Cung Đạo tức 2 âm một dương do sự biến dịch của cơ tạo đoan, tổ tiên của người Việt dầu sống ở thế gian nhưng đã ảnh hưởng nền minh triết đó, về đạo phu thê có nghĩa thay Trời tạo thế trong cơ sanh hóa, gây mối nhơn luân chi bổn, với tuổi còn nặng phần nhơn dục, thường gọi 2 vợ chồng , tức 2 âm 1 dương, chừng tuổi quá kỳ tri thiên thì nói 2 ông bà bởi con người càng già càng hướng về thiên lý ở đạo Trời đất tức 2 dương 1 âm.
Người Nữ tượng thể cho âm, Nam tiêu biểu cho dương, cả 2 tác hợp lại thì gọi 2 vợ chồng, thành thử nữ phái nặng ở phần sanh hóa nên tạm gọi thêm 2 âm nữa, cũng như Đức Phật Mẫu là ngôi âm. Nước đất cũng âm nhờ 2 âm đó mới có cơ sanh hoá và trưởng dưỡng vạn vật. Nên ngôi thờ của Đức Chí Tôn nơi Cung Đạo Đền Thánh cũng tượng lý số ở cung Đoài 2 liền là dương, 1 vạch nối là âm, còn trên bao lam Thần Vọng hết một Nữ Phật nơi Nghi Tam Trấn phô bày nơi ngôi thờ đều có ý nghĩa về đạo pháp ta làm sao hiểu thấu. Đó là ngày 8 tháng 10 Giáp Tuất, Ban Kiến Trúc được lịnh Hội Đồng cho tu bổ hầm Bát Quái lót gạch và tô tường lại. Về phần điều hành Tổng Giám Xệ chịu trách nhiệm với Hội Đồng, nên cho công thợ tô kín hết những lỗ màThầy chừa lại; tôi mới hỏi 8 Kiệt là Phó Tổng Giám cùng làm với các Phó Tổng Giám đều cầm bay chớ không một ai đứng chỉ tay 5 ngón , Tám Kiệt trả lời với tôi, nói chắc Thầy chừa những lỗ đó để xây ép cột vào đỡ tòa Bát Quái phụ với giàn đà, nhưng thấy sức chịu đựng nỗi mới không xây nên hôm nay có dịp tu bổ cho thợ lấp vào đó một viên gạch thẻ tô kín luôn cho đẹp. Nghe vậy hay vậy chớ tôi đâu dám ý kiến, nếu chừa để xây cột thì đầu gạch nhô ra từ chân tường đến đầu tường mới phải, có đâu 10 lỗ đó lưng chừng khoảng giữa bức tường còn tô kỹ ở lòng mỗi lỗ làm chi cho tốn công thợ.
Như vậy Cung Đoài dưới hầm Bát Quái chẳng còn làm cái lý trung hòa cho hai con số lão âm để sanh dương cho Đoài, còn diềm ghế giáp vòng có 8 cung, Đoài Chánh Tây ở mặt tiền tòa Bát Quái ngôi thờ để làm cái lý trung hòa cho Trời Đất, bởi Tây Nam Cung Càn, còn Tây Bắc Cung Khôn, tại Ngũ Lôi Đài Đức Hộ Pháp ngự Chữ Khí để làm cái lý trung hòa cho Đạo và Thế, về hệ dọc của ngôi Đền ngoài là Cửu Trùng trong là Bát Quái, Cung Đạo ở giữa để làm cái lý trung hòa cho linh hồn và xác thể, còn hệ ngang bên tả nam phái, bên hữu nữ phái cung Đạo ở giữa kể như cái lý trung hòa cho âm dương.
Còn Cửu Trùng Đài chúng ta nhìn 2 bên đều có 9 cột rồng xanh để tiêu biểu 2 con số cửu cửu Càn Khôn, tại sao ngôi thờ Đức Chí Tôn Rồng và Long Mã đều hả miệng. Đạo thể hiện cơ Ân xá kỳ ba Trời mở pháp cho nhơn sanh giữa 2 khối tâm và vật cũng đoạt được huyền pháp của Chí Linh , nếu tà thì bày ra cơ tiêu diệt, còn chánh thì dùng thuyết bảo tồn, đặng cứu độ phần linh hồn con người biết đoạt cơ giải thoát.
Tại sao Trời khai đạo kỳ 3 lại chọn đất nước Việt Nam nhờ cái truyền thống của ông cha còn lưu lại cho con cháu Rồng Tiên hơn 4000 năm trên danh tự và lịch số "cửu cửu Càn Khôn". Nên ngôi thờ Đức Chí Tôn khoảng giữa mỗi bên có 9 cột rồng xanh nếu cộng là 18 cột Cửu Trùng, tổ tiên ta biết tùng chơn lý của đạo pháp mới lập 18 đời Hùng Vương của trang đầu quốc sử, lấy lý tượng cho số do cơ biến dịch Bát Quái khởi Càn, Thiên Can khởi Giáp nếu cộng 18 chia thì 2 con 9 tức là pháp định vị Càn Khôn.
Vì sự truyền thuyết kể như triết lý huyền thoại ngược lại đồng nhất, nói ông Bàn Cổ sống 18 ngàn năm với câu "nhứt nhựt cửu biến" mỗi ngày biến 9 lần. Mỗi lần lớn ra 10 thước ám chỉ cơ khởi thỉ dương sanh âm, còn Hiên Viên trị 13 đời mỗi đời là 18 ngàn năm, đến Thần Nông trị 14 đời mỗi đời cũng 18 ngàn năm, nên các vì Thiên Tử ở thời trung cổ nhìn chỗ cơ biến dịch của Trời Đất mà lập thành ngôi Cửu Ngũ noi theo triết lý vương đạo, khi nắm quyền chỉ biết lấy đức chăn dân, lấy nhân trị thế, biết thuận hành ở mệnh Trời để thay Trời trị vì Thiên hạ, ngự nơi ngôi Cửu Ngũ tức là Bát Quái cái điểm xoáy ốc ở giữa là Cửu. Chưa biến tứ âm là ngũ, do đó mà các vì Thiên Tử khi ngự triều lưng day chánh bắc, mặt hướng qua nam theo cơ hành xử ở sự biến dịch của đạo Trời.
Nên tòa ngự của Đức Chí Tôn là ngôi Bắc Đẩu cũng ngay chánh bắc, hướng thuộc sắc đen huyền màu của Trời với chữ "Thiên huyền" lúc nào cũng lâng lâng tủa ánh huyền quang như con ngươi giữa tròng đen ở đôi mắt con người vậy. Do đó khi hành lễ chúng ta không dám mặc đồ đen chỉ đội khăn đống đen thì được, kỳ thật cõi trời trên đó có màu đen là Huyền Khung, nơi Huyền Khung lại có Bạch Ngọc Kinh, còn ở chúng ta kể như trời đã thể hình đốm trắng trong con ngươi vậy, tại sao Phối Sư nam phái được mang đôi giày đen khi chầu lễ Đức Chí Tôn, còn Phối Sư nữ phái chỉ mang đôi giày trắng để thể hiện những vị đó ở Bạch Ngọc Kinh mà thôi, cũng phẩm Thiên Thánh với đôi giày đen tiêu biểu vị Thánh của Trời được ra vào ngưỡng cửa Huyền Khung chỗ Linh Tiêu Điện là nơi Thượng Đế ngự.
Bằng chứng ở Cựu Ước, Đức Chúa Trời hiện đến trong đám mây đen cùng ông Moise giữa cánh đồng, dưới chân Chúa Trời chiếu như ngọc bích với chân lý Cao Đài là Kinh Bạch Ngọc, bởi con mắt phàm bị khí chất ngăn cách do sự phản chiếu khi nhìn chỉ thấy màu xanh mà thôi, vì qua khỏi tầng khí quyển trên đó có 7 lớp từ khí, nên kinh Phật gọi đó là "Thất trùng la võng". Khiù chất của 7 từng Thiên trên đó lắng động lại nơi Âm Quang chỗ khoảng cách giữa trần gian và tiên giới thành 7 khí chất của Hậu Thiên, cái tầng nối liền âm quang là Ngạn Uyển. Mỗi con người chúng ta là một đóa hoa trong cảnh giới hữu hình gọi đó là vườn Địa Đàng mà Cựu Ước Chúa Trời đã nói, xưa kia ông A Dong cùng bà Êva phạm tội cùng Đức Chúa Trời bởi sự cám dỗ ở cõi đời mà Chúa Trời tượng thể bằng con rắn độc, chỗ để ô nhiễm nộc của nó vào trong con người là thất khiếu sanh quang, nên tôn giáo Cao Đài tiêu biểu 7 cái đầu rắn ấy là thất tình hay 7 dây oan nghiệt cũng là nó, nếu chúng ta không tu cũng khó cởi mở được.Vì từ ngôi Vô Cực của Đức Mẹ sản xuất Chơn Thần chừng lồng vào bản thân là một giới cảnh mỗi mỗi đều do huyền năng của Phật Mẫu tạo ra, Đức Phật Mẫu là Mẹ Sanh còn Cửu Vị Nữ Phật là mẹ độ dùng 7 khí chất đó tạo Giác Thân tức Thể Phách đặng bọc lấy Chơn Thần ở trong Tam Thể : 1) là Phàm Thân, 2) là Giác Thân, 3) là Pháp Thân, tức thị Chơn Thần, chưa kể đến Chơn Linh, nếu luận đến linh hồn cái linh của Đức Chí Tôn, còn hồn là thần do Đức Phật Mẫu biến tạo bằng khí âm dương, thì đương nhiên đã có ánh linh quang của Đại Từ Phụ ban trong đó rồi, thảng như người tu có nhiều lần giáng thế để công hóa độ quần sanh nhờ tâm đức mà đoạt vị thì gọi Chơn Linh của tiền kiếp, bằng không là Chơn Linh ở Thượng Đế.
Nói về Chơn thần thì bình đẳng, còn Chơn Linh có cao trọng có thấp hèn. Chơn thần nhờ nương Chơn Linh mà tấn hóa, Chơn thần ví như một loại bóng đèn, còn Chơn Linh có cao trọng có thấp hèn cũng như nhà cửa vậy, nếu nhà cửa cao trọng cũng loại bóng đèn cháy lên óng ánh đẹp đẽ vô cùng, còn nhà cửa thấp hèn thì bóng đèn cháy lên với vẻ tiêu sơ mờ ảo.
Đây là chân lý đạo phải mượn đồ vật để làm bằng chứng cụ thể hóa mới dễ biện minh cho Chơn Linh và Chơn Thần. Còn phần Cửu Trùng từ mí Hiệp Thiên chí Bát Quái có 10 khoảng la phong dù không tính Cung Đạo , mỗi khung ở la phong có 6 rồng đoanh hiện màu Tam Thanh, đó là cơ vận hành Càn Khôn của Đức Chí Tôn trong mỗi giờ "thời thừa lục long", thể hiện trong ngôi thờ Đức Thượng Đế, có 6 rồng chẳng khác nào trong Cựu Ước Chúa Trời bắt đầu Khởi Thỉ từ thứ 2 đến thứ 7, mỗi ngày Chúa Trời tạo ra một vật thể đúng 6 ngày là xong kể như lục nhựt sáng tạo Càn Khôn, cũng nhằm thứ 7 với con số thất diệu của Đức Chí Tôn là 7 tia sáng ở ngôi Bắc Đẩu, giữa đông và tây 2 điểm nầy coi như đồng nhứt của đạo Trời. Bát Quái là Phật nên rồng vàng, Cửu Trùng là Tăng sao lại rồng xanh, Hiệp Thiên là Pháp nhưng lại rồng đỏ, màu của rồng nếu trong nhìn ra thuận với màu Tam Thanh, còn ngoài nhìn vô thì đúng với cái danh xưng của Đại Từ Phụïï khi mới đến lần đầu để mở đạo, A là Pháp, Ă là Tăng, Â là Phật, Phật là Bát Quái, Pháp là Hiệp Thiên, Tăng là Cửu Trùng.
Nhưng Hiệp Thiên Đài tầng giữa là Phi Tưởng Đài của các đấng cầm quyền Càn Khôn. Với nền đạo Đức Chí Tôn lại là nơi thờ bửu ảnh của nhứt Phật, nhị Tiên. thập nhị Thánh cùng bửu ảnh Anh Cả Quyền Giáo Tông, nên cột xanh rồng vàng pháp trong phật, còn Tịnh Tâm Đài thuộc pháp giới chúng sanh cột trắng đạm điểm xanh rồng đoanh màu đỏ chứng tỏ thân tâm phải có Đạo Pháp, Rồng đỏ ở Hiệp Thiên dễ hóa khí, trên nguyên lý để hiệp cùng thần. Nhìn chung ở Tòa Hiệp Thiên tầng dưới là ngôi Tăng, tầng giữa là ngôi Pháp, tầng trên là ngôi Phật.
Cũng như ở con người chúng ta cái linh là Phật, cái vật là Tăng, Thần cơ năng là Pháp, nên trong giờ dâng tam bửu chúng ta định thần lại được tức trụ pháp tánh, liền có Đức Phật Phục Linh gom cả linh quang ấy trình lên Đức Chí Tôn nơi Bát Quái Đài tức Pháp huờn hư với một ân huệ Chân Như hiệp nhứt, xong rồi Đức Chí Tôn ban lại nghi sanh quang nơi Đài ngũ Lôi cho Đức Hộ Pháp điểm đạo xong ban lại cho chúng ta là Pháp định vị của Phật Hộ Pháp. Khi chúng ta xây bộ ra xá Pháp nơi Ngũ Lôi Đài hình thành một pháp tứ tượng hệ dọc đấng ngự trên ngai Thất Đầu Xà là Phật bên sau chữ Khí là pháp với cái phong màu đỏ nơi nghi thờ là Tăng.
Còn hệ ngang bên hữu ngôi đền nhìn qua bửu tượng chủ của 3 Chi ở 3 Ngài : Thế là Tinh, Pháp là Khí, Đạo là Thần, nhưng chữ Khí màu vàng tượng thể trong pháp cóù Phật, còn Bát Quái Đài cũng như Phi Tưởng Đài tầng số bát Rồng vàng cột xanh tượng thể Phật trong Pháp, với Cửu Trùng Đài Rồng xanh cột đỏ nhạt chứng tỏ trong Tăng có Pháp, do Hiệp Thiên Đài nắm cơ định vị cho Cửu Phẩm Thần Tiên tức nhiên cái nguơn khí của Cửu Trùng là ba Chưởng Pháp, còn tiêu biểu cái nguơn tinh của Hiệp Thiên Đài là Đức Thượng Sanh, toà Bát Quái tượng lý cái đại nhứt thể để thờ đấng Chí Linh và Vạn Linh nên thể hiện các tinh cầu, như vậy hình ảnh của Đức Chí Tôn là Càn Khôn Vũ Trụ là Tinh, chỗ phát tụ, điển lực sanh quang là Khí, trên nguyên lý âm dương của ngôi Thái Cực là Thần, luận về cổ tục Quốc Phong với truyền thống của nòi giống Việt Nam cũng là con Rồng cháu Tiên, được biểu tượng ở sự phát nguyên của cơ khởi thỉ do một bộc sanh trăm trứng mà gầy nên dân tộc lời thường quen gọi là bá tánh. Với một chánh thể Quốc Gia không phân giai cấp, nên tổ tiên của người Việt Nam khi thốt lời ra không quên hai chữ đồng bào, chừng hiểu đạo nhìn vào nền triết lý của Đức Chí Tôn thì Kim Bồn của Phật Mẫu là bào thai chung mới biến tạo ra chúng ta, nên Thánh Ngôn Đức Chí Tôn có dạy với câu "phải nhiều máu thịt mới đồng bào". Riêng con người Việt Nam mà được cái tinh thần cao quí là nhờ nền triết lý của Tổ Tiên kế truyền cho miếu duệ từ thiên thể đến chí quốc thể. Với tinh thần sùng thượng tự ngàn xưa về phần hồn gốc ở Kim Bồn là Thiên Thể.
Còn quốc thế kể về tinh thần đời sống của nòi giống Rồng Tiên chung bọc mới có nghĩa hai chữ đồng bào, kể như anh em với nhau dầu chẳng phải tông tộc, nếu có sự bất hòa đôi bên xỉ vả với nhau cho là chưởi lộn, đến mức độ dài xéo với nhau cho là đánh lộn, lộn là trái với đạo lý ở con người, nên phần tử nào việc làm không cần đến đạo lý, thì đời cho những kẻ ấy đã lộn lương tâm.
Vì đó mà loài vật nó cắn với nhau ta cho là cắn lộn, còn cụn với nhau cho là cụn lộn, chém báng với nhau cho là chém lộn, đá với nhau cho là đá lộn, vật tuy đồng một loại với hiện tại bởi thiếu sự thương yêu mới xảy ra trường hợp như thế.
Còn chúng ta là con người đã có cái đạo Nhơn Luân Cửu Huyền Chi Bổn, kể gần nhứt từ bà sơ, bà cố, bà nội với mẹ của cha ta với ta là 5 họ. Còn bên Ngoại từ bà sơ, bà cố, bà nội với mẹ của mẹ ta. Đến mẹ ta cộng là 10 họ, như vậy đủ chứng tỏ huyết quản đó đã có trong truyền thống lâu đời.
Chẳng luận đến đạo Trời chỉ bàn sơ qua đạo người lỡ giận có sự xích mích với nhau cho gây lộn là phải, bởi con người dầu sao đã có ảnh hưởng ba nền tôn giáo nên biết sợ sự quả báo ở kiếp luân hồi. Chính kẻ thế chưa biết tùng giáo mà vẫn nói lên chân lý đạo, cho rằng chúng ta nên làm phải sẽ để đức lại cho con cháu, nên thế nhân thường nói có đức hỏng sức mà ăn. Còn làm ác sẽ tội mất linh hồn.
Nên Nho giáo có câu "Thiện hữu thiện báo ác hữu ác báo" còn thế nhân lập luận ai gieo gió sẽ gặt bão. Với Thích Giáo có câu "Sát nhứt đao huờn nhứt đao" "chưởng đậu đắc đậu". "Chưởng hoa đắc hoa". Nên kẻ thế nói làm cái gì hưởng cái nấy, có những cái dầu thấy chẳng tính được cho là "hằng hà sa số" kể như mớ cát của sông Hằng, về Lão giáo nên kẻ thế rất tế nhị ở câu, trần gian là quán trọ kiếp người là khách lữ hành. Nên Trang Tử có chữ "tuất ảnh" có nghĩa thân còn đi bóng còn theo.
Về Ky Tô Giáo cũng đề cặp đến sự luân hồi quả báo nên cấm Sát Sanh, Chúa đã phán và tiên tri ở sự đi và đến, với đại ý: "Kẻ nào cầm gươm sẽ chết về gươm, kẻ nào làm đẹp lòng Cha Ta sẽ được về cùng Cha Ta nơi nước Chúa Trời, còn kẻ nào bị nguyền rủa sẽ đời đời ở nơi hỏa ngục."
Cái truyền thống của dân tộc Việt Nam có cổ tục quốc phong tự ngàn đời, y như trong Cựu Ước Đức Chúa Trời ở cơ khởi thỉ. Kẻ cầm bút chỉ nêu lên đây, chẳng phải hoan nghinh cái tinh thần của nòi giống với lẽ sống biết tôn thờ chân lý Thượng Đế, bởi Đức Chúa Trời là đại nhứt thể kể ngôi một bắt đầu tạo Càn Khôn Thế Giới. Ngày đầu gọi là thứ hai đến thứ 7 là xong, ngược lại tổ tông có cái tinh thần Thiên Đạo ở trong Nhơn Đạo, Trời dùng lý âm dương mà sanh hoá nên ở con người, cha mẹ là hai đấng tạo đoan coi như ngôi một. Hễ sanh đứa đầu lòng gọi là thứ hai, chớ chưa ai dám xưng mình là thứ một. Do lòng hiếu kỉnh độc nhứt của người Việt Nam ở miền Nam đối với Đức Chúa Trời.
Nên chúng ta sanh ra ở đời phải nhờ lý âm dương của hai đấng tạo đoan ban cho cái sự sống nhưng có định luật, chính bản thân chúng ta phải nhờ tinh cha huyết mẹ mới tạo nên nhơn hình phần dương sinh, phần âm dưỡng, thiết tưởng ở thực tại âm là đất nhờ tiếp thụ dương quang trở thành nguơn chất biến sanh muôn loài có sự sống Cũng như âm bồn của người mẹ ở phần hạ tiêu thuộc Hậu Thiên của cơ sanh hoá, nhờ tiếp Tiên Thiên Khí của Thượng Tiêu ở người mẹ làm cho anh nhi hoá trưởng nơi bào thai, chừng đủ 9 tháng 10 ngày thì khai hoa nở nhụy đó là nguyên lý ở câu cha sanh mẹ dưỡng là vậy.
Chẵng khác nào ở trời đất hễ có sanh tất có dưỡng do cơ tạo hoá Thượng Đế đã an bày, giả như loài bướm chẳng bao giờ thấy nó nuôi con. Nhưng sanh biết lựa cành non mới đẻ trứng điều đó để chứng tỏ vạn vật sống nhờ có qui luật của cơ tạo đoan. Nhưng riêng về dân tộc Việt Nam với cái danh trên quốc sử là giống Rồng Tiên. Rồng tượng lý phần nguyên khí của Trời. Do đó mà Toà ThánhTây Ninh vốn ngôi thờ Đấng Chí Linh nên Đức Hộ Pháp đứng ra xây cất có rất nhiều Rồng, không tính Rồng ở ngạch mão với mấy chiếc Ngai hay chạm trên long áng hoặc Long Mã, chỉ tính luôn rồng đen ở dưới Tịch Địa Đài là 111 Rồng tức thị 3 con số dương của cơ khởi thỉ trời đất, Rồng là vật đứng đầu tứ linh.
Nhưng Đền Thánh thể hình hai bên la phong dù kế trên đầu tường giáp vòng là 20 khuôn chỉ có Lân Qui Phụng gọi là Tam Linh, Lân đầu quay theo chiều chưởng giải bên nữ từ mí Hiệp Thiên Đài vòng sau toà Bát Quái, sang bên nam phái trở lại Hiệp Thiên Đài, riêng về Long mã biểu tượng linh thể Tiên Thiên Bát Quái của Đức Phục Hi ở thời Tam Hoàng, còn qui biểu tượng linh thể Hậu Thiên Bát Quái của thời Hạ Võ đến Châu Sơ Văn Vương mới hoàn chỉnh, nhưng cả hai sau được trình bày phụ chú vào mỗi hào gọi là Kinh Dịch, đến Đức Khổng Tử là người thứ 3 mới được đem ra áp dụng cho đời, Lân biểu tượng linh Thể Ngọc Thơ ở cơ trị thế và Chuyển Thế của Nho Giáo, còn Phụng biểu tượng linh thể của Vương đạo của cơ bình trị vào thời thánh đức.
Với thân hạc tạc để đứng trên lưng qui được đặt trước nghi thờ, qui là hệ ngang, hạc là hệ dọc biểu tượng linh thể của trời đất âm dương. Với nguyên lý ở hai con vật "hạc tán qui linh" thể hiện sự trường sinh của đạo pháp ở các nền tôn giáo Á Đông, thuyền Bát Nhã biểu tượng trí huệ là linh thể bồ đề tâm của Thích Giáo để hóa độ các nguyên nhân còn bị đắm trần. Riêng thân hạc tạc hình ở mái đền để biểu tượng cho linh thể tiên xa của Lão Giáo với câu "hạc nãi tiên xa". Hình Thanh Loan đứng trên nóc Báo Ân Từ biểu tượng linh thể sứ điệp của Diêu Trì Cung thấy đó biết có Phật Mẫu giáng lâm, Kim Mao Hẫu giữ cửa Bạch Ngọc Kinh đạo biểu tượng linh thể cảnh triều nghi để chực rước những chơn thần đoạt vị đặng vào triều kiến Đức Chí Tôn.
Cân công bình biểu tượng linh thể cơ phán xét của Đức Hồng Quân là Đấng Chí Tôn cầm quyền Càn Khôn vũ trụ, đền Thái Cực biểu tượng linh thể Đức Chí Tôn là khối lửa ở ngôi tự hữu độc nhứt quang minh. với triết lý Cao Đài thể hình Nguơn Thần của Bái Hỏa giáo, hình tam giác bao quanh Thiên Nhã biểu tượng linh thể của Lý Thái Cực, tức là bửu pháp Pythagore giáo, ông Thiện biểu tượng linh thể ngôi Càn Kiện của đấng Háo sanh, ông Aùc biểu tượng linh thể con đường tự giác của thế nhân, ngôi Đền Thánh biểu tượng linh thể Long Mã phụ Hà Đồ, với quả đất biểu tượng linh thể Khối Nguơn Chất của ngôi âm để dưỡng sinh vạn vật. Chung quanh Tòa Thánh mỗi khoảng lan cang có dây nho biểu tượng linh thể ngôi tam bửu mà Pháp Chánh Truyền đã định nghĩa theo nguyên lý dây nho là Tinh, nước nho là Khí, rượu nho là Thần, chữ Khí biểu tượng linh thể mệnh sanh của vạn vật.
Thờ quả Càn Khôn biểu tượng linh thể Khối nguyên hồn của vạn hữu, với vệt Ngân Hà bao quanh biểu tượng linh thể Khối tinh hoa của Trời đất hội tụ, Khuôn Thiên Nhãn nơi khánh thờ, hữu có mặt nhựt biểu tượng linh thể của khối dương quang chiếu bên âm ấy là đạo, tả có mặt nguyệt biểu tượng linh thể của khối âm quang hiện bên dương ấy là đức, với chân lý Cao Đài thờ Thiên Nhãn để biểu tượng linh thể thần Thiên Lương của nhơn loại với thực tại cũng biểu tượng cho bản tâm ở con người.
Nhưng Đức Hộ Pháp đã thuyết Thiên Lương ấy mới thật ta. Nó đã do khối Chí Linh của trời mà sản xuất thì nó là con của Trời tức nhiên nó là Trời, nếu do nó mà để tín ngưỡng , mà mình do trời mà tín ngưỡng, mình thờ nó tức thờ Trời, ngoài nó ra chẳng ai biết Trời, ngoài Trời không ai biết nó. Điều đó đức Đại Từ Phụ đã nói "Các con không ăn mà no, không mặc mà lành. Vì ăn mà phải đọa, vì dâm mà phải đày". Nên Chúa Cứu Thế tiên tri xác loài người ngày sau sẽ sống lại, vì nền văn minh vật chất nó giết mất cái phần Thiên Lương thì đương nhiên loài người đua đòi theo chủ thuyết không cần biết đến linh hồn, nên kỳ ba Đức Chí Tôn tạo thế những phần đó không nhìn thấy Thượng Đế ngoài nó chẳng ai biết Trời là vậy, ấy cũng do đao binh làm cho nhơn loại sợ mới để đức tin nơi Thượng Đế. Vì loài người ở thế khởi thỉ nhơn loại do nơi trời đất, dầu chúng ta mất chơn tánh chỗ bổn nguyên, chừng gặp khổ, tinh thần quá ưu phiền sợ hãi, chớ chưa phải là hoảng hốt mới thốt ra lời, chẳng biết kêu ai hơn kêu trời với đất để cứu lấy họ, cái khổ là pháp giác ngộ cho con người. Chừng đó họ mới kêu vang cùng Thượng Đế.
Nên kỳ ba Đức Chí Tôn đến mở đạo để tạo thế dạy chúng sanh thờ Thiên Nhãn tức thị thờ thần Thiên Lương của nhơn loại. Cũng là thờ khối đại linh quang của Thượng Đế, còn Chư Thần Thánh là một ánh linh quang. Mỗi chúng sanh là một tiểu Linh Quang, cho nên mọi hành tàng của cơ chuyển hóa cũng qui vào đại nhứt thể ở Vũ Trụ. Do Chí Linh sản xuất Vạn Linh, thì Vạn Linh phải tùng pháp Chí Linh mà dục tấn.
Cái đạo của Đấng Chí Linh là cơ sinh hóa, cái đức của Chí Linh là pháp dưỡng dục quần linh. Chúng ta sống phải nhìn rằng nhờ cái đạo đức của Càn Khôn, vậy ta phải giữ cái đạo để tạo thêm cái đức, bởi giữa trời đất với con người, cái đức là hình thức của cái đạo, phải nhờ cái đức nó giúp sức sáng thêm cái đạo, cho nên mọi sự vật ở trong trời đất tất nhiên phải có đạo và đức.
Đạo là luật, đức là pháp. Nhưng trong pháp phải có luật, trong luật phải có pháp, luật là điều hòa, pháp là trật tự, ở trời đất mọi sự vận hành, ở con người mọi sự sinh hoạt cứ tuần tự giữ đúng vị trí là pháp, không xâm phạm ở mức điều hòa là luật, nhờ vậy pháp luật mới là then chốt của sự quân bình.
Luận đến đạo pháp chúng ta là phần tối linh từ trước đến giờ nói về đức tin có phần dị biệt.
Tại sao Môn đồ Nho Giáo chỉ biết thờ Đức Khổng Thánh, Môn đồ Lão giáo chỉ biết thờ Đức Thái Thượng, Môn đồ Thích Giáo chỉ biết thờ Đức Thích Ca, Môn đồ Ky Tô Giáo chỉ biết thờ Chúa Cứu Thế, nhưng các đấng đó đều vâng lịnh Thượng Đế giáng trần lập đạo để cứu đời với triết lý ở đạo trời trong tình thương và lẽ phải. Ngược lại có một phần tử thiếu tình thương bởi ngộ nhận đương nhiên mới chia rẽ khó mà độ tận chúng sanh để qui nhứt tinh thần tín ngưỡng.
Nên buổi Tam Kỳ Đức Hộ Pháp đắc lịnh Chí Tôn đến thay Trời tạo thế vừa phát họa đồ án vừa đốc công một số Con Chiên lo kiến tạo ngôi thờ Đức Thượng Đế làTòa Thánh Tây Ninh được thể hình Tam Giáo Ngũ Chi làm cơ qui nhứt, với nền triết lý gồm cả Thế-Đạo- Pháp thành một ổ khóa, nếu người tu biết trau giồi cái linh thức làm chìa sẽ khám phá được các kho tàng huyền bí của nền triết lý Á Đông trong đó có cả Đế Thiên và Kim Tự Tháp.
Trong là Bát Quái Đài là Phật, ngoài Hiệp Thiên Đài là Pháp, giữa Cửu Trùng Đài là Tăng. Cửu Trùng tượng thể cái chơn pháp cơ chuyển hóa của đấng Cửu Thiên Khai Hóa là Phật Mẫu, phần nội tâm ngôi đền thể hiện 9 tầng thiên làm cơ định vị cho Cửu Phẩm Thần Tiên dính liền với cung đạo là10 tức thị cung Phật.
Theo triết thuyết Cao Đài, trong muôn loài cũng do cơ tạo hóa của Càn Khôn mà có. Nhờ lý âm dương hòa hợp mà sanh, từ vật loại đến con người nhờ biết giác ngộ lo tu hành mới đoạt thành cơ giải thoát mới vào hàng Thần Thánh Tiên Phật. Nơi cõi Trời theo Kinh minh tả dầu một vị Đại Thần, Đại Thánh hay Đại Tiên về huyền pháp quản trị cũng tương đồng cùng vị Cổ Phật chứ không phải là nhỏ, ngược lại có người cho rằng Phật lớn hơn Trời căn cứ vào đâu mà khẳng định như thế. Trời là đấng Chí Linh, Người là phẩm tối linh còn Phật ở trong vạn linh đúng như kinh Phật đã nói " Nhứt thuyết chúng sinh giai hữu Phật tánh" còn Kinh Cao Đài: "Mỗi người có tánh Như Lai" như vậy là Bát Phương Thượng Hạ Thập Phương chư Phật, còn thế thường bởi sự ngộ nhận có người cho Phật lớn hơn Trời họ căn cứ vào Lạc Thơ, của thời vua Hạ Võ lập quốc xong. Chia ra có 9 Châu. Mỗi Châu tạc một cái đỉnh thể hình Sơn Xuyên hà hải gọi là Cửu đỉnh vốn đồ quốc bảo triều đình là trung ương vĩ chí địa phương chỗ ta đứng là một nhìn ra 8 phương đều có thiên hạ ở. Nên gọi là 9 phương Trời cộng với bỉ ngạn mới là 10 phương Phật. Đây là phương Trời ở cõi hạ giới chẳng phải cõi Trời nơi Thiên Hà, nơi hạ giới sách gọi Trung ương Tứ phương và Tứ ngung là Cửu Thiên.
Nên người ta nhìn vào lượng số mới định nghĩa như vậy cho là đúng mới áp dụng cái quan niệm của ý thức hệ mà thôi, nếu căn cứ vào số lượng cho lớn nhỏ là chưa hẳn, ví như câu niệm nơi lòng sớ "Thập phương chư Phật vạn chưởng chư Tiên liên đài chi hạ" xem như đồng thể không vì hệ số mà cho lớn hay nhỏ, bởi cớ mà Đức Chí Tôn đã xác định " 9 Trời 10 Phật cũng là Ta".
Chín trời là con số Cửu Thiên Khai Hóa, trong cơ chuyển hóa, ta tính cả từ ô ngôi ở trên nóc Cửu Trùng Đài mỗi bên có 3 tầng mái ngói chia thành 10 khoảng cộng lại là 60 mái ngói lớn, còn hai tầng của mỗi bên ở phần trên kế Thông Thiên Đài thừa ra 4 mái xếp là 64 số của quẽ dịch.
Nhưng bên trong tầng trên la phong, từ cửa hậu Thông Thiên Đài nhìn ngay lầu Bát Quái mé bên nam phái ngoài tính vô có 32 cột vuông kể luôn bức tường nhỏ khoảng giữa Cung Đạo và Bát Quái. Cây cột thứ 30 tô mặt phía Tây và phía Bắc còn hai mặt không tô, còn cây thứ 31 và 32 để nguyên đây là hướng Chánh Đông, còn cây thứ 32 bên hữu của ngôi đền tô ba mặt chừa phía nam coi như 64 quẻ Dịch trùm vô Bát Quái.
Với mái đền hướng đông nam ở bên trên mặt trong còn hai khoảng không tô, thể hiện quẻ V ị Tế chót hết của Dịch có nghĩa khuôn thiên lò tạo không ngưng nghỉ, mãi xây vần ở hướng sanh khí tức là nguyên lý cơ khởi thỉ của đạo pháp, đông giáp ất mộc, mộc năng sanh hỏa, cùng hướng thuộc dương là phương nam, nam bính đinh hỏa. Nên buổi Tam Kỳ Đức Hộ Pháp thừa lịnh Trời lật trở Cung Càn về phía Tây Nam. Vì yếu nhiệm đó mà hình Long Mã đứng trên quả địa cầu ngoái đầu về đông, lại dở chơn nách tả hướng Tây Nam phía của cung Càn để cho dương khởi tức đạo sanh. Nói đến Long Mã có cả lý âm dương của đạo pháp, Rồng là dương. Ngựa là âm với câu "tẫn mã chi trinh" ngựa cái với đức nhu thuận. Nên tầng trên Bát Quái tại hướng chánh đông bên trong tượng lý đạo pháp phát khởi âm dương giao thới. Lại là nơi tả hữu lưu thông, khoảng này tương tợ trong đêm tối tiêu biểu khối âm quang của Phật Mẫu thuở khai nguơn trời đất chứa cả tinh vi vạn vật. Cũng là nơi phát xuất bát phẩm chơn hồn trong Càn Khôn, thì Cửu Trùng tượng thể cho phần xác, Hiệp Thiên phần đầu, nên đôi bên la phong dù trên tầng lầu ngay cấp Nhứt Cửu, bên nữ phái có một cửa nhỏ vòng nguyệt, cao 5 tấc ngang 3 tấc để thông không khí vào, nóc có 3 cổ pháp nhìn thấy mờ mờ dính liền với lầu trống là ngôi tiếng nổ, còn bên tả cũng một nóc có ba ccå pháp chừa một lỗ vuông nhỏ dính liền với lầu chuông là ngôi tiếng vang. Từ Bát Quái nhìn ra Hiệp Thiên có những mô la phong dù như đốt xương sống. Mỗi mỗi có lối đi như huyệt mạch.
Thử nhìn đôi nóc có ba cổ pháp thể hiện hai đầu mối tối quan trọng để tiếp điển lực Càn Khôn. Với Đức Chí Tôn là ngôi tiếng nổ, với Đức Phật Mẫu là ngôi tiếng vang. Bởi Tòa Thánh tượng hình một linh thể của đại Vũ Trụ, cũng như tiểu Vũ Trụ ở con người về y học hay khoa học, cho đó là hai đầu mối của cơ thể gọi thần kinh hệ vào màn óc chúng ta, về đạo học hay thiền học gọi là mạch đốc, mạch nhâm ở trong người, nên Hiệp Thiên Đài, là một đại bộ phận gồm chung 6 đài, Lôi Âm Cổ Đài, Bạch Ngọc Chung Đài, Thông Thiên Đài, Phi Tưởng Đài, Tịnh Tâm Đài, Bán Nguyệt Ngũ Lôi Đài vốn ngai của Đức Hộ Pháp có thất đầu xà tiêu biểu cho sự cám dỗ ở con người, xưa kia bà ÊVA vì bị nó xúi dục mới quyến rũ ông A Dông ăn trái cấm nơi vườn Địa Đàn tức là phạm giới cùng Chúa Trời, nên đức Chúa Trời phán rằng người sẽ đạp trên đầu mầy.
Đoạn này Chúa Trời đã tiên tri trong cựu ước mà chúng ta được thấy trước kia là phật Christna, còn hiện nay Phật Hộ Pháp cũng đạp trên đầu nó, với triết lý đó Phật cũng tượng trưng ở đền vua Trời là Đế Thiên, toàn là thờ phật, đã phát huy cái triết thuyết đồng nguyên với 2 con số cửu cửu của trời đất, nên cửa đền mỗi bên tạc một con rắn bằng đá khổng lồ, mỗi mỗi có 18 vị La Hán cũng bằng đá để ngự trị lấy nó, với chân lý đó muốn trừ nó phải đủ Thập Thiên Bát Chánh nếu cộng là 18, 1 với 8 cũng 9, bằng mỗi bên 18 cộng chung là 36 cũng 9 nếu chia ra thành 3 hào cữu ở đền vua Trời là Đế Thiên, còn Đế Thích là đền vua Phật nữ phái đã tạo xong, với Đế Thiên nam phái đã góp công nhưng có phần bỏ hỏng trong cơ thành đạo coi như quẻ Vị Tế.
Chính Tòa Thánh là đền thờ Đức Chí Tôn vốn đấng Đại La Thiên Đế tức thị vua Trời biểu tượng lý số tạo đoan ngôi tiếng nổ là trống Lôi Âm, ngôi tiếng vang là chuông Bạch Ngọc, phần ở giữa của hai đài Chung Cổ mỗi bên có một nóc nhỏ che cầu thang liên quan cùng Thông Thiên Đài mỗi mỗi có hai mái ngói đối diện mỗi bên một cầu thang còn ngang bên hông mé ngoài mỗi phía có một cái vòm như lổ tai Long Mã có ba mái ngói Chung Cổ của hai đài. Nóc là phần trên từ dưới tính lên có 5 tầng mái ngói hình vuông của hai lầu chuông trống đối diện sự thể hiện mỗi đài với con số 5 ngôi âm là Ngũ Hành, ngôi dương là Ngũ Khí do pháp âm dương ký tế tạo thành pháp Ngũ Lôi cho ngôi tiếng nổ. Còn Ngũ Sắc cho ngôi tiếng vang. Nên mỗi đài với con số 5 được thể hiện, mỗi tầng vuông giáp vòng là 4 mái ngói 5 tầng cộng là 20 tính chung ở cầu thang và cái vòm là 25 mái ngói 2 với 5 là 7, với Trời đất là thất diệu ở nhơn sanh là thất khiếu bởi chúng ta bản thân là một tiểu thiên địa thành thử nam nữ có 2 con số 5 như Trời đất vậy. Ngũ Tạng là phần nội tại. Còn ngoại diện là ngũ nhạc, ngũ tạng ở con người tượng thể cho ngũ hành. Dầu luyện sanh ngũ khí nhưng thực chất nó chịu ảnh hưởng nguyên lý của ngũ quan hữu tướng, có nghĩa ở con người có 6 giác quan (nhãn nhỉ tỷ thiệt thân), thân là thành phần ngũ quan hữu tướng, còn ý là cái thứ 6 gọi là lục quan vô tướng thuộc về pháp ở lục trần, còn lục dục ở bên trong dầu chuyển được lục thông hay không chớ mặt ngoài đối tượng nó là lục trần, còn phần tàng ẩn bên trong gọi lục căn đó là 6 giác quan ở con người.
Nếu ta khéo tu luyện thì mở thêm hai khiếu nữa đệ thất giác quan là trí huệ, đệ bát giác quan là tâm thức phát xuất khối huệ quang do sự phản chiếu mà Huyền quang khiếu ở con người khai thông Thần Nhãn chính đó là con mắt Thiên Lương ở giữa trán. Tức thị cửa Hiệp Thiên ở con người để hiệp cùng Trời, với chân lý của Đức Chí Tôn mà Tòa Thánh đã thể hình một Thiên Nhãn trước Thông Thiên Đài ở giữa của hai đài chung cổ tầng trên là ngôi Phật. Chỗ nóc Đức Di Lạc ngự có 4 mái ngói. Phía sau của Thông Thiên Đài nối liền mí với Cửu Trùng có một nóc hai mái ngói tất cả là 6 với con số ngôi luật của Đức Chí Tôn, tầng giữa là ngôi pháp giới tạo đoan nên phía sau lầu chuông và lầu trống mỗi mỗi có một nóc 3 cổ pháp với 2 mái ngói trên mỗi nóc, kế dưới một mái, phía sau Phi Tưởng Đài để nối liền vách Cữu Trùng có 2 mái ngói cộng là 8 vốn con số ngôi pháp của cơ tạo đoan là Bát Quái.
Còn Tịnh Tâm Đài là phần Tăng cũng là ngôi pháp giới chúng sanh nên lý âm dương được thể hiện một mái ngói che ông Thiện, bên tả ngôi đền một mái che ông Ác ở bên hữu, sự biểu tượng tả 1 hữu 1 là 2. Với Trời đất là âm dương.Với con người là trai gái, với tẩu thú là đực cái, với phi cầm là trống mái. Bởi Hiệp Thiên tiêu biểu về Chơn Thần có liên hệ cùng bản thân là Tăng nên mái ngói màu đỏ y như Cửu Trùng Đài , nhưng Nghinh Phong Đài tầng bao quanh quả địa cầu chỗ 8 rồng nhô đầu ra ở giáp vòng lại là mái ngói màu xanh thể hiện cho pháp giới chúng sanh ở ngôi Tăng của đài tiếp Giá Chí Linh, còn Bát Quái Đài là Phật nên tất cả mái ngói đều màu vàng tại Đại Bửu Tòa của Tam Thế.
Phật cũng là Tam Thế Chí Tôn. Đó cũng là ngôi Tam Hồn hay ngôi Tam Tâm giữa Trời người, có 8 mái ngói hình bát giác tiêu biểu ngôi Tiên Thiên Bát Quái của Đức Chí Tôn, tầng kế cũng vậy tiêu biểu cho ngôi hậu thiên Bát Quái của Đức Phật Mẫu, còn ba tầng ở kế dưới mái đền mỗi tầng đều có 5 mái ngói, tầng trên tiêu biểu cõi Thượng Thiên là Phật với nguyên lý tượng Ngũ Khí để dục tấn phần linh hồn, tầng kế tiêu biểu cõi Trung Thiên là pháp do nguyên lý Ngũ Lôi làm cơ an định cho ngôi Giác Hồn, tầng chót tiêu biểu cho cõi Hạ Thiên là Tăng, với màu vàng thể hiện Phật tánh của chúng sanh do Ngũ Hành chuyển hóa làm cho sanh hồn vạn loại tấn hóa, tuy vật thể có nhiều sắc chủng nhưng cùng một sanh hồn ở Đức Chí Tôn, nên đạo trời tượng thể Tam Thế Phật trên nóc Bát Quái đài tức thị để tượng lý khai nguơn biến dịch của cơ tạo đoan.
Với chúng ta luận qua cốt yếu để tìm tàng cái chơn lý đạo tất nhiên phải có Pháp, đạo là chân lý. Chân lý là ánh sáng soi rọi cho ta thấy biết hồi quang giữ lấy ánh sáng là Pháp. Hễ có đắc pháp rồi mới đạt đạo, có đạt đạo rồi mới thạo pháp.
Cũng như chúng ta tu ở Tịch Đạo Thanh Hương là thời kỳ của hoa phải chịu biết bao phong ba bão táp quyết giữ cho trong sạch thơm tho sẽ được kết quả ở Đạo Tâm, còn Tịch Đạo Tâm là thời kỳ của trái tuy chưa đến nhưng đã có trong chúng ta, tu cần giữ Đạo Tâm nơi kiếp sanh nếu được kết quả tốt là nhờ ở thực hành.
Đức Chí Tôn đến khai đạo sẽ có cơ thành đạo, còn chúng ta biết ngộ đạo sẽ có ngày đạt đạo, về thực thể đạo là giáo lý để tu học. Còn Pháp là cái áp dụng ở thực hành để giúp cho luật được điều hòa, nên ngôi Luật phải có Pháp mới là trật tự, vì vậy mà Đức Chí Tôn đến lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài rồi mới lập Hiệp Thiên Đài, bởi Hiệp Thiên Đài là Chơn Thần còn Cửu Trùng là xác thể phải lập trước thì Chơn Thần mới có nơi nương tựa để gìn giữ và giúp đỡ Hội Thánh là hình ảnh của Chí Linh, còn Bàn Trị Sự thay vì hình ảnh của Vạn Linh nên Hiệp Thiên Đài tức thị Chơn Thần phải đến sau là vậy, Cửu Trùng xác thể có là nhờ luật để tạo đoan. Hiệp Thiên là Chơn Thần ấy pháp an định cho trí não tinh thần. Nên Pháp Chánh Truyền có lưỡng quyền của Chí Linh và Vạn Linh phải biện minh cốt yếu để chứng tỏ hai phần đó.
Luật phải có trước nắm quyền vi chủ mọi tổ chức về hội họp cầu phong, cầu thăng hoặc công cử hay bầu cử để định điều kiện khuếch trương mặt truyền giáo. Luật là cơ sáng tạo, chừng định danh với phần hành của pháp để duy trì trật tự giúp cho chơn luật đi đúng chơn truyền pháp là quyền Công Chánh, luật là sự thương yêu, nên ở ngôi luật và ngôi pháp với 2 con số 6 đó là "lục long du hành bất tức" biểu tượng luật điều hòa của Đức Chí Tôn cơ vận hành ở đại Vũ Trụ, còn pháp giới tạo đoan về cơ an định của Đức Thiên Hậu là "khôn lục đoạn", có tương quan pháp giới chúng sanh do cơ vận hành có tấn hóa có thu liễm, thành thử giới người tu giữ đạo muốn khỏi phạm lục hình phải gìn lục thông, khi đắc lục thông nhờ gia công hành lục độ theo lời Phật dạy : Bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ, còn ở tôn giáo Cao Đài người tu trước hết lập công lập đức cần nhứt phải lập tâm, đặng giồi mài thanh Huệ Kiếm để chiến thắng 6 mối giặc lòng coi như dọn thông con đường giải thoát dầu giữa khổ hải lấy đó làm pháp giới bát nhã đễ đưa cả khối nguơn linh của chúng sinh lên bờ giác ở con người là nê huờn cung, nên Kinh Phật Mẫu có câu "Trung khổ hải độ thuyền bát nhã".
Nếu tất cả con người sống nơi mặt thế ai biết nhìn Đức Thượng Đế là Đấng Cầm quyền vi chủ Càn Khôn, rất may duyên cho chúng ta đã vào hàng môn đệ của Đức Chí Tôn rồi phải lấy tâm linh vi chủ bản thân, dùng cái phần Thiên Lương để xử kỷ tiếp vật tất nhiên Trời người đồng trị mới là "vũ trụ tiện thị ngô tâm" cái phần vi chủ nội tại là tâm linh, do ta khéo tu sinh ra pháp sinh ấy là vũ, còn ngoại diện luyện thấy được chơn tánh mới là định. Định ấy là Trụ, coi như dương đã đắc âm (thiên địa chi tâm là vậy).
Bởi loài người vốn con chung của Đức Thượng Đế phải tùng phép tạo đoan mọi sự thiết kế đều có qui củ chuẩn thằng, qui tiêu biểu cái tròn của pháp Vô Cực, củ tiêu biểu cái vuông hình tam giác ở Lý Thái Cực, vốn cây thước Tổ của thợ mộc do Lỗ Ban Tiên Sư chế tạo. Với tôn giáo là cây thước để cân thần. Thiên Nhãn thể hiện cho nguơn thần cũng ở trong hình tam giác là vậy, còn chuẩn là cái ống thủy tiêu biểu cho hệ thống ngang để cân mặt bằng, Thằng là sợi dây lập lòn để cân nhắm ở hệ dọc. Đó kể như pháp Tứ Tượng nhứt âm nhứt dương của trời đất, chúng ta là một con người sống nơi mặt thế lúc bình thường kể như quên trời đất chừng ngộ nạn đến hoảng hốt ta vẫn thốt ra lời để kêu trời với đất hoặc cha ôi, mẹ ôi mà thôi.
Bookmarks