3 - TINH KHÍ THẦN
VÀ PHÁP ĐỊNH VỊ CÀN KHÔN
Trong cơ khởi thỉ, pháp giới tạo đoan, Càn Khôn đã định vị, Đức Chí Tôn mới giao quyền cho Phật Mẫu quản khí Hư Vô. Hư là hư linh, Vô là vô cực, bởi nguyên nhân đó mà chúng sanh niệm danh Đức Diêu Trì Kim Mẫu với hai chữõ Thiên Tôn là vậy.
Ngôi Vô Cực ở Đức Phật Mẫu là pháp giới phát xuất khí hư vô biến tạo Chơn thần cho chúng sanh trong khối Vạn Linh nhờ phối hợp âm dương mới đủ tinh khí thần như trời đất đúng như câu "Thiên địa vạn vật đồng nhất thể". Nên sự hiến lễ của Tôn Giáo Cao Đài dùng hoa tượng trưng cho Tinh, rượu tượng trưng cho Khí, trà thì tượng trưng cho Thần. Lễ dâng rượu phải đúng Ngọ và Tý bởi hai thời đó nguơn khí của trời đất hưng vượng, còn trà dâng phải thời Mẹo và thời Dậu bởi hai giờ đó nguơn thần của trời đất hưng vượng. Như vậy Trời Đất cũng có tinh-khí-thần. Bởi ánh Thái Cực nảy sanh Thái Bạch là nguơn tinh, nên buổi Tam Kỳ Đức Lý Đại Tiên kiêm nhiệm Giáo Tông, cầm quyền chuyển thế vừa sửa trị vừa định vị cho thánh thể của Đức Chí Tôn.Trong nguơn bảo tồn dầu ở chơn trời gốc bể cũng có Bàn trị sự là Hội Thánh Em thay hình thể cơ tận độ của Thầy
Đạo tượng lý thái cực do cung Càn biến xuất dưới một vạch ngang hai vạch chỏi lên thành hình tam giác, mọi vật thể cực lớn từ hữu hình lẫn vô hình chẳng lọt ra ngoài, còn cực nhỏ ví như hạt nguyên tử cũng khó ẩn được bên trong. với cái không không là vô cực, giữa thái cực và vô cực Đức Thái Thượng và Đức Hộ Pháp là đầu mối trung hòa lưỡng cực, nhờ đó mà tạo thành khối điển lực sanh quang cho Càn Khôn Thế Giới, vì thế mà tôn giáo vẫn quí ba ngôi báu của trời đất. Người tu theo Phật hằng niệm Phật-Pháp-Tăng, tâm ta biết thọ giáo là qui y Phật, tánh biết giữ giới là qui y Pháp, thân biết hành sãi vãi là qui y Tăng. Triết lý của Đức Chí Tôn đối với con người từ thể xác đến linh hồn, thì Phật là tượng lý, Pháp là định vị, Tăng là phát huy chơn tướng của đạo nhờ đó mà xây dựng nên nền chánh giáo phổ truyền.
Giữa Tiên Thiên và Hậu Thiên, Tăng là Tinh, phần sanh hóa, Pháp là Khí, lý trưởng dưỡng, Phật là Thần cơ an định. Đối với người tu hằng niệm Phật-Pháp-Tăng coi như hằng kỉnh vậy, hễ kỉnh Phật thì xá vô, kỉnh Pháp thì xá ra, kỉnh Tăng thì xá ngang tức mỗi người chúng ta tạo nơi đàn nội một pháp Tứ Tượng nhứt âm, nhứt dương của trời đất, nhờ đó mà biến sanh vạn vật.
Xá Tăng là xá cái nguyên lý về cơ sáng tạo ở cõi vô hình trước kia, cũng như ở mặt hữu vi, nhờ sự khởi thỉ mới có chỗ để cho chúng ta sùng bái, tức nhiên phải kỉnh Tăng, trước cũng như sau : vô thì chào, ra thì kiếu, chớ không phải xá đối tượng giữa nam và nữ. Còn luận về phật pháp, từ vô thỉ đến khởi thỉ, Tăng là nguyên lý phát khởi Càn Khôn đó là cơ mầu nhơn đạo của Đức Chí Tôn, vừa phân hóa vừa phân quyền định vị mỗi vật thể, mỗi chơn hồn với bản năng sanh tồn tự hữu, nhờ Tăng mà phát huy cơ tạo đoan cùng chân lý đạo, nên người tu đắc pháp rồi mới đắc Phật,
Khi xá chí trán kỉnh Thiên, chí đơn điền kỉnh Địa, chí ngực kỉnh Nhân. Nhân tức tâm, tâm tức thiên , thiên giả ngã dả, còn xá với phép định vị là Thiên-Địa-Nhân. Ý nghĩa lạy tiêu biểu lý phục nguyên Thiên-Nhân-Địa, thấy rõ con người chúng ta là pháp trung hoà giữa Thiên và Địa, nên khởi lạy trước đem cái điểm dương của Thiên vào Tâm. Chừng ngất dậy đem cái điểm âm của địa lên, tức hệ thống dương của bản tâm đã đắc nhứt hình thành pháp Tứ Tượng ở con người, cũng như nơi đàn nội, lúc ngất lên để lạy tiếp thể hiện ĐịaNhân-Thiên của mỗi Thừa trong chín phẩm với pháp Dục Tấn là Địa- Nhân-Thiên.
Kỉnh Phật hay các Đấng đều xá ba xá là bởi chúng ta ngưỡng vọng cái lý Tam Tài, còn kỉnh pháp xá có một, với chân lý vạn pháp qui nhứt. Kỉnh Tăng cũng xá một, bởi nhứt thuyết chúng sanh nhứt điểm linh. Riêng sự bái lễ Đức Phật Mẫu không lấy dấu Phật-Pháp-Tăng nhưng thể hiện trong câu niệm Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu là Phật, Nam mô Cửu Vị Tiên Nương là Pháp, Nam mô Bạch Vân Động Chư Thánh là Tăng. Ngọc Hư là Thiên điều, còn Cung Diêu Trì là pháp giới, do nguyên lý đó nên Tôn giáo Cao Đài đem luật áp dụng ở mặt điều hành về pháp cốt yếu để giữ thăng bằng cho cơ đạo. Dầu Tín đồ dĩ chí Thiên phong muốn tạo công lập vị phải đi trong khuôn luật Cửu Trùng Đài, còn Hiệp Thiên Đài lẽ đương nhiên là pháp định vị.
Đời lập Pháp Viện Tối Cao để chủ lấy luật, với đạo lại khác, có Phật rồi mới có Pháp. Do đó ngôi luật của Đức Chí Tôn nắm quyền Phật chủ cả Pháp và Tăng. Người tu biết tùng khuôn luật của đạo do sự tìm tàng đạt được chơn lý là đắc Pháp, rồi gắng trau dồi thân tâm, trụ được chơn tánh là đắc Phật, lúc nhập định xuất thần được gần gũi với các đấng để học hỏi gọi là đắc Duyên, nhờ đó mở đươc con mắt giữa nơi trán là cái cửa của tâm linh. Với cái nhìn quán thông căn cơ của mình chỗ bản lai diện mục là đắc Vị.
Ở Cơ Tạo đoan có Phật Pháp rồi mới có Tăng. Dầu những đấng thay trời lập giáo cũng không ngoài chân lý đó. Khổng Thánh dạy chúng sanh tu thân giữ điều nhân với phép tồn tâm, Thái Thượng dạy lập đức để tu mệnh làm phương dưỡng tánh. Thích Ca dạy về linh hồn có luân hồi quả báo. Trong Tam Giáo, Phật là Thần, Tiên là Khí, Thánh là Tinh, bởi cớ Khổng Tử chiêm bao gặïp Lão Tử rủ bay lên không trung, nhưng cố gắng mà vẫn quá chậm chừng gặp núi non hiểm trở lo sợ, Lão Tử mới nói đó là tư tưởng chớ chẳng có chi, cứ bình tĩnh tự nhiên bay qua thì được. Khi đó Khổng Tử nhìn thấy đôi cánh mình nhỏ lần, chỉ còn ba cọng lông còi, nghe hỏi nặng nề nên hạ cánh trở về cùng mặt đất, tất nhiên đạo Thánh thể hiện phần Tinh của con người.
Con người phải đủ Tinh Khí Thần. Đó là triết lý của Tam Giáo. Trong con người chúng ta phải có đủ ba tôn giáo, Phật là linh hồn, Tiên là chơn thần, Thánh là xác thân.Tôn giáo Cao Đài đã biểu tượng cho cơ qui nhứt của Đức Chí Tôn trong sự hiến lễ : hoa thể hiện cho nguơn Tinh, rượu thể hiện cho nguơn Khí, trà thể hiện cho nguơn Thần. Trà có chung nước trắng tượng lý âm dương,Rượu là Khí sao lại ba chung? Ba chung cùng một nguyên lý giữa con người với trời đất thể hiện cơ định vị là ba nguơn Khí của Thiên-Địa-Nhơn. Về tượng lý khởi thỉ của cơ tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ, ngôi Thái Cực Đức Chí Tôn phát xuất ba nguơn Khí : 1) Thái Thượng, 2) Nguơn Thỉ 3) Hộ Pháp. Luận đến vô thỉ là ba nguơn khí của Phật-Pháp-Tăng ở ba ngôi nhứt Cực, nhì Nghi, tam Tài.
Loài người là phẩm tối linh để đại diện cho chúng sanh, nên trong giờ hiến lễ, coi như nguơn Khí của Vạn linh được hiệp cùng đấng Chí linh. Nguơn Vô Thỉ khởi điểm có tượng lýù, có định vị bằng pháp số nhứt Cực, nhì Nghi, tam Tài, vì vậy màø đạo Cao Đài rất chú trọng lễ dâng Tam Bửu.
Tại sao Hành Chánh, Phước Thiện hai bên thực hiện nghi lễ cúng đàn dâng Tam Bửu cho Đức Chí Tôn cùng Đức Phật Mẫu, sự bái lễ thấy không giống nhau? Trước kia Đức Hộ Pháp đã dạy Lễ viện Đền Thánh cũng như Báo Ân Từ đều bái lễ như nhau khi dâng Tam Bửu. Về sau, đàn anh chúng ta, có thỉnh ý Hội Thánh xin sửa đổi về cách lạy, có khác ở pháp số.
Đầu năm Đinh Hợi (1947) ông Giáo sư Ngọc Ninh Thanh người thâm Nho học được bổ nhiệm nắm quyền Thượng Thống Lễ Viện Cữu Trùng Đài, mới đề nghị cùng Hội Thánh về cách bái lễ khi dâng Tam Bửu như sau : trường hợp dâng một Bửu thì lạy ba lạy (mỗi lạy bốn gật), còn dâng đủ ba Bửu thì mỗi Bửu lạy một lạy, mỗi lạy bốn gật, để khi dâng một Bửu hay ba Bửu thì cũng giữ đủ mười hai lạy cho đúng số 12 của Thầy, đề nghị này được Hội Thánh đồng ý ra Châu tri ban hành nhưng tài liệu đó đã bị thất lạc.
Tương tự, ngày 18-8 Mậu Dần (10-10-38 ), Hộâi Thánh ra Châu Tri số 61, do ba vị cầm quyền Chánh Phối Sư ký, là: 1) Giáo sư Thái Phấn Thanh, 2) Giáo sư Thượng Chữ Thanh , 3) Phối sư Ngọc Trọng Thanh, trong đó điều 5 qui định về lạy từ Bàn Trị Sự đổ xuống như sau: " Chánh Trị Sự đổ xuống Tín đố lạy bốn lạy ". Như vậy kể như mất hết hai phẩm Nhơn Thần (Bàn Trị Sự) và Địa Thần (Tín đồ giữ đủ trai giới 10 ngày đổ lên) trong cửu phẩm Thần Tiên, theo Thánh ngôn của Thầy đã dạy "Lạy Thần, Thánh ba lạy, lạy vong phàm bốn lạy". Vong phàm là thân nhân chúng ta chưa biết đạo hoặc những tín đồ bị Hội Thánh trục xuất, hay không giữ đủ trai giới vv... Cả hai Châu Tri đều được Đưc Hộ Pháp phê chuẩn. Nhưng thiết nghĩ do Đức Ngài vẫn trọng cái chủ quyền của Hội Thánh là hình thể Đức Chí Tôn nên chấp thuận vì đủ ba ấn ký. Kể hai văn bản đó có đủ quyền Chí Linh, nếu có quyền Vạn linh cầu xin thì quyền Chí Linh sẽ cứu xét cho lại. Bởi vị Chánh Trị Sự là Đầu Sư em, Phó Trị Sự là Giáo Tông em, Thông Sự là Hộ Pháp em, xem đó là vong phàm thì làm sao điều hành phận sự của Hội Thánh em đặng, vì hai phẩm chót của Hạ thừa chức việc là Thần của người, tín đồ là thần của đất phải cúng triêu tịch không điện tam bửu chớ nơi bàn linh có đủ để biểu tượng tinh khí thần cho người tu. Với lý đạo có tinh khí mà thiếu thần mất cơ an định, có thần mà không tinh khí khó huờn được đệ nhị xác thân. Về phép tu phải hiệp tam bửu mới đắc vị.
Nên lạy Tam tài thể hiện nguyên lý của ba ngôi Trời có nhựt nguyệt tinh, đất có thủy hỏa phong, người có tinh khí thần ý nghĩa là vậy.
Trường hợp trong thời cúng thường ngày, nếu hiến lễ Thầy một bửu thì lạy ba lạy, còn ba bửu thì lạy mỗi bửu một lạy để giữ đươc con số 12 của lý Khai Thiên như Ông Giáo sư Ngọc Ninh Thanh hướng dẫn. Nhưng như thế sẽ mất con số biến dịch của đạo pháp về Tam Thập Lục Thiên, kể dâng Tam Bửu mỗi bửu 3 lạy, mỗi lạy 4 gật cộng thành 12 mỗi lần lạy, như vậy tính chung ba lần là 36, tổng hai chữ số là 9, đó để làm con số định vị của ngôi dương, Từ khởi thỉ đến chung kết phải giữ đúng lý số của cơ huyền nhiệm, nên sự hành lễ của Tôn Giáo Cao Đài biểu tượng pháp giới tạo đoan có liên quan cùng pháp giới chúng sanh trong tứ thời hành lễ.
Khi cúng tứ thời, về niệm danh Đức Cao Đài trong bốn bài: Niệm hương, Ngọc Hoàng Kinh, dâng một Bửu, Ngũ nguyện, mỗi bài lạy ba lạy, mỗi lạy 4 gật, tổng số là : 4 (bài) x 3 (lạy) x 4 (gật) = 48, tổng hai chữ số là 12, con số Khai Thiên. Như vậy, khởi thỉ bằng bài Niệm hương 3 lạy, 4 gật (12), chung kết cũng con số 12 thì mới đúng pháp. Danh Thầy có 12 chữ, mỗi lạy 4 gật thành 48 chữ, tổng hai chữ số cũng 12.
Về Lễ Cúng Đại Đàn, niệm danh Thầy trong 7 lần như : Niệm hương (1), bài Ngọc Hoàng Kinh (1), Dâng Tam Bửu (3), Thượng sớ (1), bài Ngũ nguyện (1), mỗi lần lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, tổng số là: 7 (lần) x 3 (lạy) x 4 (gật) = 84 tổng hai chữ số vẫn là 12, đó là con số Nhứt bổn tán vạn thù, Vạn thù qui nhứt bổn, mới là lý số của đạo pháp biến dịch, chớ dâng đủ tam Bửu mà mỗi Bửu có 4 lạy (kể cả lạy và gật) thì mất hết 24 lạy chỉ còn có 60 lạy, tức nhiên con số chung kết không trở lại chỗ khởi thỉ là số 12.
Trong Tứ Thời Xưng Tụng Tam Giáo Tâm Kinh, khi dứt mỗi bài kinh, lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật. Lạy mỗi vị 9 lạy (kể cả lạy và gật), ba bài kinh có 27 lạy, cộng hai chữ số là 9. Danh mỗi vị trong Tam Giáo gồm 12 chữ. Mỗi lạy 3 gật, mỗi lần niệm 12 chữ, ba lần niệm 36 chữ, 3 với 6 là 9, đó là pháp định vị cho 3 ngôi Tinh-Khí-Thần. Phật là Thần, Tiên là Khí, Thánh là Tinh. Khi cúng Tứ thời nơi Báo Ân Từ, về niệm danh Đức Diêu Trì Kim Mẫu trong 5 bài : Niệm hương, Phật Mẫu Chơn Kinh, Tán Tụng Công Đức DTKM, Dâng một Bửu, Ngũ nguyện, mỗi bài lạy ba lạy, mỗi lạy 3 gật, tổng số là : 5 (bài) x 3 (lạy) x 3 (gật) = 45, tổng hai chữ số là 9, biểu tượng cho Cửu Thiên Khai Hóa.
Trường hợp cúng Đàn thì dâng đủ Tam Bửu, có thượng sớ, bớt bài Tán Tụng Công Đức DTKM, tính ra là 7 bài (bớt một bài, thêm ba bài). Mỗi bài lạy 9 lạy (kể cả lạy và gật), 7 bài 63 lạy, tổng hai chữ số là 9. Đó là pháp định vị cho Càn Khôn ở con số cửu, nên rượu cúng 3 chung, mỗi chung 3 phân, cộng lại cũng là 9. Trừ khi Lễ điện 9 phân vì có một ly. Còn trà cúng, mỗi chung 8 phân, tượng thể con số Bát Quái hai ngôi ở lý âm dương lưỡng hiệp là Thần. Phần hoa tiêu biểu cho nguơn tinh, tức hình thể của phẩm tối linh, phải tốt đẹp thơm tho mới đem ra hiến lễ cho hai đấng Tạo Đoan. Vì con người ảnh hưởng pháp giới tạo đoan trong tiểu thể thiên địa cũng như đại thể, do ngũ khí biến ngũ hành, cõi đất sanh ngũ sắc, dầu nơi mặt thế, người hay vật cũng chia ra có 5 màu. Nên sự hiến lễ thể hiện phần nguơn tinh của chúng sinh, với lý đạo thài hoa tươi năm sắc là vậy.
Luận về triết ta phải có cái nhìn quán triệt hai chiều. Triết có nghĩa là triệt cùng một vấn đề nếu triệt thượng luận về vũ trụ còn triệt hạ thì diễn tả ở sự vật. Nhưng cũng đồng nhất cái lý tạo đoan chỗ khởi thỉ. Khí hư vô còn hồn hồn ngạc ngạc mới biến ra ngôi Thái Cực, nên phần tượng lý âm trước dương, có nghĩa là đạo sanh nhứt, nhị sanh tam là âm sanh dương, đó là khối sanh khí của nguơn vô thỉ, chừng khởi thỉ tạo Càn Khôn Thế Giới rồi do cơ định vị của tạo đoan biến ra pháp giới chúng sanh mới định danh thì Thiên trước Địa.
Cơ khởi thỉ tạo nhơn loại cũng thế, Đức Thượng Đế là Chúa Trời lấy đất nặn hình rồi hà sanh khí vào liền có sự sống đó là ông A Dông. Chúa Trời bèn lấy cọng sườn của ông A Dông, là hệ thống ngang thuộc âm của ngôi dương là xương sống ở hệ dọc, lấy đó mà tạo ra bà Ê Va thì nữ phải tùng nam, nam nữ thể hiện lý âm dương của chí linh ở trong vạn linh để bảo tồn cơ sanh hóa.
Vì đó mà đạo vợ chồng kể như một xác thịt, một linh hồn. Nên kỳ ba Đức Chúa Trời đến cũng nhắc lại, đó là Đức Chí Tôn nói lên trong giờ hành Pháp Hôn Phối trong bài thi tứ hôn ở câu " Mãn thế bất ly thể dử hồn", có nghĩa đôi vợ chồng trọn đời xác thịt với linh hồn chẳng rời nhau, thảng như để bỏ không có điều kiện thích đáng, coi như mình tự phân thây mình vậy.
Bookmarks