Báo Hạnh Phúc Gia Đình số ra ngày 28-12-2007 có giật tít bìa “Quái tình nơi cửa Phật”. Tìm đến trang 24, đọc xong mới giật mình vì có một câu chuyện đúng thật là “rất quái”. Điều khiến tôi phân vân với tờ báo là sự giật tít để câu khách có sự không đàng hoàng cho lắm.
Nếu nó là một câu “chuyện” thật thì phải có những con người cụ thể, địa chị cụ thể, sự kiện ngày giờ cụ thể. Còn nếu nó là “truyện” thì nên ghi rõ là truyện ngắn vì đó thuộc lĩnh vực sáng tác và các nhân vật là hư cấu…
Truyện (chuyện?) có nội dung tóm tắt như sau: Sư cô Đàm Chi, trụ trì chùa Trúc, làng Phương Thượng, người sắc xảo, có uy tín, luôn chỉ bảo cho mọi người về đạo đức của nhà Phật.
Bà Hường là một Phật tử thường hay lên chùa cầu an, cầu phúc. Một hôm bà Hường nhận được điện thoại của cô Dị về việc “đến chùa mà tìm chồng”. Cô Dị là một cô gái đồng bóng yêu ngây ngất sư cô. Sở dĩ cô Dị báo tin cho bà Hường vì cô ghen với mồi tình vụng trộm của sư cô Đàm Chi.
Con trai bà Hường tên là Quang làm công an huyện, sau khi biết chuyện đã chở mẹ lên chùa tìm bố. Chuyện tằng tịu của bố Quang với sư cô Đàm Chi (“người đàn bà nõn nà trắng phớ đang ôm ghì người đàn ông sung mãn”) và chuyện ghen tuông của mẹ Quang khiến Quang lo lắng điện thoại đến chùa Quảng Tâm nơi thượng tọa Thích Đức Phi trụ trì.
Thật không ngờ thượng tọa Thích Đức Phi là người có trình độ Phật học cao, tinh thông giới luật, có uy tín trong hàng giáo phẩm nhưng lại có quan hệ với sư cô Đàm Chi vì có người nhìn thấy hai người ở nhà nghỉ mát Đà Lạt. Và tiếp tục một đêm chiếc xe biển số 1068 (của bố Quang) lại êm ru tiến vào chùa Trúc.
Cô Dị vì ghen quá đã cho người châm lửa đốt trai phòng của sư cô Đàm Dị. Kết cục cô Dị bị bắt vì tội đốt nhà giết người. Nhưng “điều cô căm tức không phải chỉ vì hai kẻ kia thoát chết mà còn vì lão thượng tọa sau khi nhận được điện thoại của cô đã thông tin ngay cho hai kẻ kia trốn thoát. Cuối cùng họ phi tang, còn cô phải ra tòa chịu số phận tù đày sắp tới” (Quái tình nơi cửa Phật).
Đọc xong mới thấy “truyện” đã có “chuyện”. Bỏ qua những “dụng tâm” của người viết và tờ báo, chúng ta không khỏi suy nghĩ về những giá trị mà rồi đây rất có thể từ những con người cụ thể (hay từ những nhân vật được hư cấu) sẽ làm đổi thay đáng kể cái cán cân đạo đức xã hội. Và đâu đó người ta đang hình dung ra những sự mất giá quá lớn trong đời sống xã hội từ khắp các tổ chức đoàn thể xã hội, trong đó có tôn giáo.
Là một người Phật tử, tôi luôn nhắn nhủ mình rằng: “Y pháp bất y nhân” (y vào giáo pháp của Đức Phật mà tu tập, chứ đừng nhầm lẫn với những con người cụ thể, những con người mà sự hoán chuyển từ cái thiện sang cái ác là rất mong manh). Nhưng đó là những người được tiếp thu giáo lý để hiểu được điều đó như tôi. Còn biết bao nhiêu người chưa có tín tâm, đang mò mẫn vào đời sống tôn giáo thì họ chỉ có một điều suy nghĩ đơn giản là đạo Phật thiêng liêng thì những người thực hành (Tăng Ni, Phật tử) cũng phải là những người mẫu mực về đức độ, nhân cách, và điều khuyến khích họ sống tốt chính là những tấm gương trước mắt họ.
Thế nên không biết đúng hay sai, tình tiết nặng nhẹ ở mức nào, nhưng người dân bình thường cứ nhìn thấy, nghe thấy những cái gọi là “Hòa thượng phản động”, “sư cô lẳng lơ”, “thày chùa giàu sụ, ăn chơi không thua người đời” là người ta nghĩ khác về đạo Phật, nghĩ xấu về đạo Phật mà không cần hiểu những con người đó tu vì mục đích danh lợi gì, theo chính kiến nào, được ai sắp đặt…
Có người nói: “Đành rằng đạo của quý vị đẹp thật, tốt thật nhưng tại sao nó đẹp tốt như thế mà có nhiều những con người đi theo nó lại chẳng thấy tốt đẹp chút nào. Tôi thấy nhiều người ở xóm tôi, đi chùa tụng kinh suốt ngày nhưng chửi chồng, chửi con, cãi lộn với hàng xóm như hát hay, thì cũng không hiểu là thế nào”…
Những năm tháng “hiện đại hóa” gần đây, tiếng xôn xao, lời đồn đại tiêu cực về đời sống tu hành của quý thầy, quý cô, thậm chí có người trong hàng giáo phẩm ngày càng có phần tăng lên trong các khóa tu, đạo tràng. Không hiểu quý thầy cô có tâm trạng hoang mang như người Phật tử hay không? Nhưng có người đã gằn giọng nói: “Người tu nhiều lên và tính đời tăng lên gấp nhiều lần”.
Tôi cũng cố thử xem cái gọi là “tính đời” đó nó tăng lên ở điểm nào dù phải chấp nhận coi mình là kẻ soi bói. Quả thật, có những nơi ngoài ngôi chùa và những pho tượng Phật điềm tĩnh, từ bi, tôi thấy quý thầy có đầy đủ những vật dụng sinh hoạt như người bình thường, không những vậy nó còn là những thứ “đồ xịn” ra trò không kém. Không kể đến mốt “lên đời” xe đã trở nên phổ biến.
Có những quý thầy tuổi còn rất trẻ, nhờ “thân quen” giới thiệu được trụ trì ở một ngôi chùa nào đó mấy năm đã có xe hơi đi lại. Xe hơi ngày càng trở nên phổ biến trong chốn chùa chiền. Không hiểu từ hôm nào, “chùa” đã nhanh chóng bước vào giới người giàu như vậy, và không ít quý thầy trở thành người mà Phật tử phải “ngước lên”, những cuộc gặp phải “xin hẹn”, lễ ít thì cho đệ tử là Sadi, chú tiểu tiếp...
Thế là xã hội lại một phen xôn xao “đi tu sướng lắm”, “thày chùa bây giờ giàu ghê”. Nghe thì nhồn nhột, nhưng thấy người tìm đi xuất gia ngày một nhiều và gần như không được kiểm soát chặt, thành thử oai nghi đi đứng, nói cười của không ít Tăng Ni trẻ gần như “có vấn đề”…
Từ xa xưa, hình ảnh mái chùa, hình ảnh quý thầy, quý cô là hình ảnh gần gũi, lân mẫn với người dân bình thường, người lao động, người nghèo khổ thì nay đang có biểu hiện đi dần về phía “thượng lưu”. Không biết đó là phúc hay họa, là sự phát triển vượt bực hơn cả thời Lý-Trần của Phật giáo Việt Nam hiện nay (phát biểu của Hòa thượng Thích Thanh Tứ trong chương trình Thời sự VTV) hay đó là một nỗi buồn lo không dễ nói thành lời.
Phải chăng gắn sự phát triển của Phật giáo vào chùa to cảnh lớn, xe hơi đưa đón các thầy vào ra, nhiều trường học, nhiều lễ lạc…, rời xa những định hướng tâm linh căn bản là một mục tiêu chệch hướng?
Chắc chắn trong thời gian tới, những “truyện” những “câu chuyện” tương tự như “Quái tình nơi cửa Phật” sẽ còn xuất hiện. Nên người viết chỉ mong rằng Ban Trị Sư các tỉnh thành nên hoạt động hiệu quả hơn nữa, là nơi để Phật tử có thể “đánh trống kêu oan” cho đạo đức nhà chùa, xử lý các tình huống ngay khi có những lời đồn đại không hay, chấn chỉnh oai nghi, giới hạnh của Tăng Ni (người của dân chúng).
Nếu vi phạm 3 lần có thể tước danh trụ trì gửi đến một trú xứ để tòng chúng tu tập. Ban Trị Sự cũng nên quyết tâm hơn đối với những vị Tăng Ni có biểu hiện lên đồng nhập bóng vì ở đó có những lệch lạc trong giới tính, gây nên những biến thái về tâm sinh lý. Áp dụng những biện pháp mạnh (thải bớt tăng đồ) khi có những biểu hiện vi phạm nặng và để lời đồn đại kéo dài.
Người viết mong Giáo hội quyết tâm chỉ định thời gian tập tu ở chùa là 3 năm, trong thời gian này không được cạo đầu. Bên cạnh đó cử hẳn một ban giới luật theo dõi sinh hoạt của những người tập tu để làm cơ sở cho việc chấp nhận xuất gia về sau. Người viết cũng mong các vị thầy tinh tế hơn trong chọn lựa đệ tử, theo dõi sát đệ tử để nếu thấy những đệ tử nào có những biểu hiện “khó tu” thì dùng lòng từ bi của mình như một người cha người mẹ lo một đời sống thế tục cho họ trong thời gian đầu, đừng xua đuổi, trù dập họ.
Bởi nếu họ không có duyên làm đệ tử xuất gia thì hãy cho họ cái duyên đệ tử tục gia, nhằm hướng dẫn đời sống tâm linh của gia đình họ về sau. Đừng để xảy ra những tình trạng bất mãn, thù ghét thầy và xa rời những giá trị tâm linh đạo Phật.
Nếu Tăng Ni nào thấy mình không thể gắn bó hết cuộc đời xuất gia thì nên mạnh dạn trình bày với thầy bản sư để tìm hướng đi sau đó cho mình. Trong thời gian còn ở chùa không được làm tổn hại đến uy tín của chùa và Giáo hội. Thành lập hội những người tu xuất giúp đỡ nhau cũng là một việc nên làm.
Cơn bão thông tin đa phương tiện sẽ không nhân nhượng với bất cứ chuyện “thâm cung bí sử” nào. Một sự điều chỉnh mạnh mẽ ở bên trong của Giáo hội PGVN và của mỗi ngôi chùa vào lúc này là vô cùng cần thiết. Nếu được vậy thì những “truyện”, những “câu chuyện” như kiểu “Quái tình nơi cửa Phật” đều sẽ không có cơ hội xuất hiện trên mặt báo và dĩ nhiên chúng ta không phải phiền lòng.
Hình ảnh “người làm dâu trăm họ” (chỉ quý thầy cô) có còn giữ được trong tâm khảm người Phật tử hay không? Câu trả lời nằm ở phía những nhà lãnh đạo Giáo hội và sự ý thức về hình ảnh của chính mình nơi mỗi Tăng Ni.
Nam Quốc
Bookmarks