Các đệ tử về Đạo Nội phải tôn Giời là Cha Hiền, tôn Phật là Mẹ Báu
Đức Thượng Đế và Đức Di Đà đã hết lòng thương yêu chúng ta hơn cha mẹ thương yêu con một, đã hết lòng săn sóc đỡ đần chúng ta, nưng niu quý báu chúng ta, cho nên đã giáng linh quang xưng mình là Cha Hiền Mẹ Báu để tăng sự thân mật hầu dễ cảm hóa dạy dỗ chúng ta, vậy từ ngày quy y phải tôn Giời là Cha Hiền, tôn Phật là Mẹ Báu. Tại sao trong đời này Ngài khai ra Đạo Nội mà xưng mình là Cha Hiền Mẹ Báu? Vì đời Thái Cổ trên mặt đất này phương nào ở phương nấy, các dân tộc chưa biết đường giao thông mà mỗi phương có một phong tục tánh tình riêng khác cho nên Đức Thượng Đế phải giáng sinh xuống nhiều đời, nhiều nước, nhiều xứ, nhiều phương. Khi sinh làm Thánh, khi giáng làm Phật, lúc xưng làm Chúa, lúc hiện làm Tiên. Tuy nhiều danh hiệu mà có một mình Ngài hóa thân truyền đạo.
Trong sử nói khi đức Lão Tử lên mây bay qua nước Tây Vực, vua Chiêu Vương nhà Chu thấy hào quang năm sắc chiếu tại cung Tử Vi. Tức thì truyền chỉ hỏi thăm quan Khâm Thiên Giám có điềm chi chăng? Khâm Thiên Giám tâu rằng: “Điềm Thánh nhân đi về hướng Tây giáng sinh một ngàn năm trở lại Trung Quốc”. Đức Phật Thích ca sinh năm Giáp Dần thuộc về năm thứ 24 đời vua Chiêu Vương nhà Chu. Quả vậy cách một ngàn năm sau đến vua Hán Vĩnh Bình Đạo Phật vào Trung Quốc. Năm Vĩnh Bình thứ 7, vua nằm chiêm bao thấy một người vàng trên trán có ánh sáng tròn tròn, bay đến trước sân rồng. Đến buổi sáng vua hỏi các quan rằng: “Đó là cái điềm gì?”. Quan Thái sử tên là Phó Nghi tâu rằng: “Nước Tây Vực có thần gọi là Phật nay Bệ hạ nằm chiêm bao thấy thế, hẳn là việc Phật đó chăng?”. Vua lập tức sai quan Bác Sĩ là Lương Tuân, quan Trung Lang tướng Tần Cảnh, quan Lang Trung Thái Am, tất cả 18 người đi cầu Phật Pháp. Đi đến nước Nguyệt Trì gặp một ông Già Diệp Ma Đằng và ông Trúc Pháp Lan, mang tượng và kinh nhà Phật, đi khai hóa phương ấy. Bèn mời hai ông ấy cùng về. Đến năm thứ 10 mới về đến đất Lạc Dương, và trọ ở chùa Hồng Lô, sau dựng một tòa Già Lam, nhân lấy cái cớ ngựa trắng chở kinh vào trọ chùa Hồng Lô, mới đặt tên là chùa Bạch Mã. Bấy giờ vua hỏi ông Mã Đằng rằng: “Đức Đại Giác Thế Tôn cớ sao không sinh ở Trung Quốc?”. Ông Ma Đằng đáp: “Nước Giá Tỳ La chính ở giữa cõi Đại Thiên Thế Giới. Tham Thế chư Phật đều sinh cả ở đấy. Còn như các nước ở ngoài biên phương, hoặc vài trăm năm, hoặc hơn nghìn năm, thanh giáo dần dần lan khắp cả. Chứ đất này chính thuộc về phương đông, tự xưng là Trung Quốc đó thôi”.
Cứ xem như vậy thì ta rõ biết Đức Lão Tử và Đức Thích Ca cũng cùng một thân, thật là thiên biến vạn hóa không biết đâu mà lường được. Nếu Ngài không truyền dạy chúng ta mờ mịt nào ai rõ lẽ ni? Nay đức Thượng Đế giáng đủ các nước các phương tùy theo phong tục thổ ngơi mà châm trước lưu truyền mối Đạo. Như khi hiện làm Chúa lấy hiệu là Gia Tô giảng giải mọi pháp môn cho người ta đến nước Thiên Đường. Như khi hiện làm Phật lấy hiệu là Thích Ca nói phép Xuất Thế Gian vô vi thanh tịnh, tối cao tối thượng. Như khi hiện làm Thánh lấy hiệu là Khổng Tử nói đạo trung dung dậy người ta sửa những điều hay trước mắt. Đức Khổng Tử là bực Đại Thành Chí Thánh há Ngài lại chẳng thuyết giáo được như Phật Lý hay sao? Nhưng Ngài lượng cái dân trí trong thời Ngài còn thấp kém, nên Ngài phải nói thấp hơn Đạo Phật một từng để người ta dễ hiểu mà câu gì khiến người ta nghe rối trí thì Ngài không chịu nói.
Tóm lại: ngoài tuy nghe thấy khác nhau, trong chẳng qua dậy người làm việc lành chừa việc dữ, sau nữa giúp nhà nước cho dễ bề cai trị, cho nên ai đã tín ngưỡng về mối đạo đức cũng phải rõ lẽ ấy mới là chính lý. Theo thời gian mọi dân tộc đời nay điều tiến hóa, thủy bộ không trung, lối giao thông điều được dễ dàng nhanh chóng, chung đụng cùng nhau mà mỗi dân tộc đều theo riêng một đạo khác, đông, tây, nam, bắc mỗi phương một đạo; trắng, đỏ, đen, vàng mỗi nước một giáo, nào đạo tôn Giời, nào đạo ngưỡng Phật, giáo này thờ Thánh, giáo nọ luyện Tiên, đạo nào cũng cho mình là chân chính, còn tuyền là ngoại đạo mơ hồ, giáo nào cũng nhận có lý riêng để bài bác chê bai giáo khác. Đạo bảo Phật hơn Giời, Đạo nhận Giời hơn Phật, Đạo tỏ Phật là tục tử phàm phu, Đạo cho Giời còn luân hồi quả báo, có người theo Giời trông thấy người quy Phật thì phỉ báng nhạo cười, có người quy Phật mới rõ được một li giáo lý như chim chích vào rừng, như hạt nước xuống bể, đã tự kiêu mà nói rằng: “Tôi quy Phật là đệ tử Phật rồi tôi còn nhớn hơn ông Giời, tôi có thể quy cho các vị Tiên Hiền, tôi còn to hơn ông Thần ông Thánh, vì Giời và các vị kia còn ở trong Lục Phàm là Thiên, Nhân, Atula, địa ngục, ngã quỷ, súc sinh.
Địa ngục là chốn khổ ở dưới đất, Ngả Quỷ là quỷ đói thường phải đi tìm ăn, ở lẫn với người mà người không trông thấy. Súc sinh là giống cầm thú, Atula là thần Đại Lực, hay mang lòng tức giận, muốn sự đua tranh, chỉ ở chốn núi sâu hang tối, mà cùng người cách biệt. Nhân là loài người ta. Thiên là các chúng sinh thân có sáng suốt, mà tự nhiên được vui sướng, nên gọi là Giời, cũng có Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới.
Cũng vì hiểu lầm chữ nghĩa Giời mà có người quy Phật đi hội lễ chùa không lễ đền; đến chùa lễ Phật không lễ Mẫu, cái tính tự kiêu tự đại, ngạo mạn cả ông Giời, khinh mạn cả Thần Thánh, tội nặng vô cùng, muôn kiếp chìm đắm, cho nên chốn minh tư hãi còn phải lập địa ngục, thân chửa khỏi làm tù còn mong chi quả Tiên quả Phật; Mà lên được chốn Thiên Đàng, vào được nơi Cực Lạc.
Cái tính tự kiêu tự đại là một tính xấu xa đê hèn, cho nên đức Phật rõ biết cái Ta là to nhất, là cao nhất, là tôn nhất, nếu không đánh đổ được cái Ta đi mà còn chấp có cái Ta thì hay sinh ra lòng kiêu ngạo tự đắc khó thể tu nên.
Người phương tây có câu: “Không cái gì xấu hơn cái Ta”. Đức Gia Tô dạy rằng: “Hỏi ai nhớn hơn hết trong nước Thiên Đường? Ấy là kẻ khiêm nhượng. Thật vậy còn có tính kiêu căng sao vào nước Thiên Đường trong sạch được? Quả thật, nếu không đổi lại được mà nên như đứa trẻ ngây thơ thì chẳng được vào nước Thiên Đường”.
Sự khiêm nhượng của bẩy vị hiền nước Hi Lạp thuở xưa khiến cho muôn đời phải tôn phục danh thơm của các ngài, vậy mới biết những người thật có đức có tài bao giờ cũng khiêm nhượng. Vì người có đức khi khi đã trở nên hoàn toàn mà vẫn coi như chưa được hoàn toàn, nên họ giữ được sự hoàn toàn. Kẻ đã đi tăng tiến trên con đường đạo hình như bị sa sút dật lùi. Kẻ nào đạo hạnh được cao thì hình như bị thấp xuống. Kẻ nào khiêm nhượng thật thà thì hình như bị hèn kém xấu sa. Cho nên mình tự cao rồi lại thấy tự hạ, mà mình biết tự hạ rồi lại được tự cao.
Bể có thấp cho nên các sông mới chẩy hết về bể mà bể mới chứa nổi các sông.
Hễ còn mang cái xác trần, đói phải ăn, khát phải uống, rét phải mặc, người trần mắt thịt, ô uế tối tăm, cái tóc cái tội, tam độc lục trần hãi còn hệ lụy. Nhờ có Giời che Đất chở, Thần Thánh phù trì cái thân ta mới được toàn vẹn mà tu thành chính quả, vậy ngoài việc tôn thờ Giời Phật, lúc nào ta cũng phải xét nét mà sửa mình, lúc nào ta cũng phải chăm chỉ mà đổi lỗi, lúc nào ta cũng phải thức tỉnh mà nguyện cầu, lúc nào ta cũng phải tự hạ mình ta xuống, lúc nào ta cũng phải tôn kính các vị Thần, Thánh, Tiên, Hiền là những bực cao siêu, hằng phù độ cho ta. Cái đài chín từng, cái lầu trăm thước, cái núi muôn trùng, muốn bước một bước mà lên thì đến cả đời cũng không thể lên được, muốn lên thì phải bước từ bực dưới rồi tuần tự tới các bực trên, mới tới đích. Cho nên có tu qua được Nhân Đạo mới tới được Thần Đạo; tu qua được Thần Đạo mới tới được Thánh Đạo; tu qua được Thánh Đạo mới tới được Tiên Đạo; tu qua được Tiên Đạo mới tới được Phật Đạo.
Đạo chỉ có một, phân chia ra tự bởi người, bởi vậy gây nên không biết bao nhiêu là khẩu nghiệp, ý nghiệp như non cao vực thẳm.
Này vợ chồng con cái mỗi người một đạo, nhà cửa phải bất hòa. Chú bác cô dì mỗi người một đạo họ hàng phải chia rẽ. Chia bè chia đảng mỗi phe một đạo làng nước phải tranh dành. Anh chi em dứt mối thương tình, đồng bào mỗi người một đạo nước nhà không thịnh trị. Mỗi dân tộc theo riêng một giáo lý, thế giới khởi trận đại phong ba. Này muốn được thuận hòa cùng nhau quý mến thì ý kiến phải hợp đồng mà tín ngưỡng đừng nên mâu thuẫn.
Thí dụ trong một nhà vẹn tròn cha mẹ, mà anh em chị em lại chia bè chia đảng, bè nọ về hùa với cha, đảng kia thân yêu cùng mẹ, phe con gái khinh cha trọng mẹ, đảng con giai nhờn mẹ quý cha, như vậy tìm đâu ra sự hạnh phúc gia đình? Kiếm đâu ra lòng công bằng nhân ái? Bụi mù đen tối, phiền muộn cha mẹ, nhời lại tiếng qua, xích mích anh chị. Nhà đó trật tự hầu đảo điên, gia giáo đến rối loạn. Thế giới cũng vậy, các dân tộc hàng ngày giao thiệp cùng nhau, mà mỗi phương một giáo, mỗi nước một đạo, thì bao giờ cho ý hợp tâm đồng mà dẹp bỏ nhân kia ngã nọ.
Đức Thượng Đế vì quá thương yêu nhân loại xa ngã đắm chìm, hiện linh quang mà khai ra Nội Đạo. Họp mọi giáo quy nguyên về một Đạo, cùng một thân Ngài trước giáng sinh xưng là Giời nay hiệu Ngài là Đức Cha Hiền. Trước giáng sinh xưng là Phật nay hiệu ngài là Đức Mẹ Báu. Tiếng Cha Hiền Mẹ Báu cho chúng sinh chóng hiểu mà mau lòng cảm động, dễ tiếng xưng hô mà có một thân Ngài hóa vậy. Theo một Tôn giáo, cùng một Bảo Hiệu, lấy Giời làm Cha, lấy Phật làm Mẹ, lấy vũ trụ làm nhà, thờ Tâm Ta vi Chúa Tể, đồng tính đồng thể, đồng khí đồng căn, ý kiến hợp đồng, tín ngưỡng như nhất, dẹp sóng bất bình, yên lặng trận phong ba, nhân loại bấy giờ mới thuận hòa, thương yêu qúy mến. Còn đâu ra chinh chiến? Còn đâu nỗi can qua?
Cho nên Đạo Nội có ba giáo lý chính:
1. Trọng Mẹ tôn Cha.
2. Yêu người như ta.
3. Thờ Tâm vi Chúa Tể.
Ba điều đó rất quan hệ mật thiết, liên lạc như keo sơn gắn bó, khuyết điểm một ắt không trọn vẹn. Thì như đỉnh nọ ba chân, thiếu một chân đỉnh không sao đứng vững.
Vậy có thơ rằng:
Tôn trọng Mẹ Hiền lại kính Cha,
Yêu người thờ phụng một Tâm ta,
Vẹn tròn đỉnh nọ ba chân vững,
Quả phúc xinh tươi phúc hải hà…
Ước ao rằng: Khắp hòa thế giới mau mau bước tới, theo một Đạo Tâm, thờ chủ nghĩa chính chân, bước con đường sáng suốt, lấy Quang Minh là cột chốt, lấy Tu Đức là gốc nền, thờ lạy Cha Hiền, kính tôn Mẹ Báu. Thương yêu người như tình thịt máu, bỏ nhân kia ngã nọ xấu sa, trọn ba điều công đức hải hà, khắp bốn phương âu ca nhã nhạc, vẹt mây tỏ mặt nguyệt, sạch bụi ánh gương lồng, sóng lặng bể trầm, gió yên sông ái:
Vậy có thơ rằng:
Muôn nước nay mừng hợp một nhà,
Phật, Giời chính thực mẹ cùng cha,
Trắng, đen, xanh, đỏ đừng phân biệt,
Ngọc, đá, thau, vàng chớ lẫn pha,
Bến mê chóng vượt qua bờ giác,
Đường chính mau tìm bỏ nẻo tà,
Xuân sắc một vườn tươi tốt đẹp,
Phát sinh dị thảo nẩy kỳ hoa…
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks