LUẬN VỀ THỌ GIỚI
Tịnh giới tiếng Phạn gọi là Ba La Ðề Mộc Xoa. Sở dĩ chư Phật ba đời được thành đạo không vượt ngoài giới. Nên nói: "Người có phá giới, được gọi là Tỳ kheo, người không phá giới gọi là ngoại đạo". Ðây là chỉ người có thọ giới cùng người không thọ giới. Thọ giới rồi lại phá còn gọi Tỳ kheo; huống là người thọ tất cả tịnh giới, lại kiên trì giữ gìn! Cho nên hiện tại Bồ tát lấy đây (giới) mà độ sanh; vị lai người tu hành do đây (giới) mà giải thoát. Kinh nói: "Giới như đất bằng, muôn điều lành từ đó sanh. Giới như thuốc hay, chữa lành các bệnh. Giới như hòn ngọc sáng, hay phá mờ tối. Giới như chiếc thuyền, hay đưa người qua biển. Giới như chuổi anh lạc,trang nghiêm pháp thân".
Người có tội phải sám hối, nếu không sám hối thì tội càng sâu. Một phen mất thân này, muôn kiếp chẳng được lại. Ngày nay tuy an, sáng mai khó bảo đảm. Nên giữ giới pháp này, chóng qua sanh tử. Thờ Phật làm thầy, trước phải y theo giới luật. Cổ Ðức nói: "Qua sông phải dùng bè, đến bờ chẳng cần thuyền". Ðây là cổ nhân dùng giới luật làm thuyền bè. Song người nay chẳng dùng thuyền bè qua sông, mà được đến bờ kia, thật ít thay!
LUẬN TỌA THIỀN
Phàm người học đạo chỉ cầu kiến tánh. Tuy thọ được tất cả tịnh giới, mà không tọa thiền thì định lực chẳng sanh; định lực chẳng sanh thì vọng niệm không diệt, muốn được kiến tánh thật khó vậy. Ðức Phật Thích Ca vào núi Tuyết, ngồi ngay thẳng sáu năm, chim cáp làm tổ trên đầu, cỏ tranh mọc xuyên qua bắp vế, mà thân tâm thản nhiên. Tử Cơ ngồi tựa ghế, thân như cây khô, tâm tợ tro tàn. Nhan Hồi ngồi quên, tay chân rã rời. Ðuổi thông minh, lìa ngu trí, đồng với đại đạo. Ðó là các bậc thánh hiền trong tam giáo ngày xưa, đã từng ngồi định.
Song đi đứng nằm ngồi đều là thiền, không phải chỉ riêng ngồi. Nhưng vì đi thì cất bước, đứng thì nhọc nhằn, nằm thì mờ mịt mà yên tỉnh, yên tỉnh thì cái nghĩ sanh, nghĩ sanh thì niệm khởi. Muốn dứt các niệm nên tập ngồi thiền định, nếu khi ngồi không dứt các niệm, tâm khỉ đua nhảy, ý vượn chạy rong, hoặc vọng tưởng mà biết tiền trần, hoặc vô ký mà quên tự tánh. Tựa giường tựa vách, nhắm mắt che tròng, ngủ gục nước miếng chảy, đầu cúi xương sống cong. Tuy giả danh là tọa thiền, mà ngồi dưới núi đen, trong hang quỷ. Cho nên thiền sư Hoài Nhượng nói: "Mài gạch muốn làm gương" là nói về người này vậy.
Vả lại, thiền có bốn thứ:
1.- Tạo kế khác, ưa trên chán dưới mà tu, gọi là "Ngoại đạo thiền".
2.- Chánh tín nhơn quả, cũng ưa trên chán dưới mà tu, gọi là "Phàm phu thiền".
3.- Rõ lý sanh (nhân) không, chứng đạo thiền chơn mà tu, gọi là "Tiểu giáo thiền".
4.- Ðạt nhân, pháp đều không mà tu, gọi là "Ðại giáo thiền".
Nay người hậu học, cần lấy "Ðại giáo thiền" làm chánh. Nơi đây tập tọa thiền dứt niệm, chớ sanh kiến giải.
LUẬN VỀ GIỚI, ÐỊNH, TUỆ
Phàm tất cả người tu hành đều do hai việc: chán sanh, tử. Bỏ cha mẹ vợ con, xuất gia cầu đạo, phụng thờ đức Phật làm thầy. Noi theo đường tắt của chư Phật chỉ có kinh mà thôi. Song trong kinh nói ra duy giới, định, tuệ. Luận giải thoát nói: "Giới, định, tuệ gọi là đạo giải thoát". Giới là oai nghi. Ðịnh là chẳng loạn. Tuệ là nghĩa giác tri. Lấy giới để trừ ác cấu, lấy định để trừ triền cấu, lấy tuệ để trừ sử cấu. Cho nên dùng giống thiện này (giới, định, tuệ) mà theo đạo gọi là Sơ thiện, Trung thiện. Hậu thiện. Giới là sơ thiện, định là trung thiện, tuệ là hậu thiện.
- Giới là sơ thiện: vì tinh tấn trì giới thành tựu bất thối nên mừng. Vì mừng nên nhảy nhót, vì nhảy nhót nên cử động, vì cử động nên vui, vì vui nên tâm không định.
- Ðịnh là trung thiện: do thân cử động nên dừng, do dừng nên tâm trụ, do tâm trụ nên biết như thật.
- Tuệ là hậu thiện: do thấy biết như thật nên chán ghét, do chán ghét nên lìa dục, do lìa dục nên giải thoát.
Vì thế dùng giới trừ ác thú, dùng định trừ Dục giới, dùng tuệ trừ tất cả cõi. Nương theo giới, định, tuệ này mà tu, tức là đường tắt của chư Phật.
LUẬN GƯƠNG TUỆ GIÁO
Tuệ sanh từ sức định. Nếu tâm định thì gương tuệ sanh, nếu tâm loạn thì gương tuệ diệt. Cũng như chiếc gương bằng đồng trước phải nhờ mài giũa, sau mới trong sạch soi sáng. Nếu chẳng mài giũa thì tỳ vết bụi nhơ phủ tối. Ðã bị bụi nhơ phủ ánh sáng làm sao sanh? Cho nên trí tuệ do định hiện, định tuệ nương nhau không thể thiếu một.
Nếu mượn danh tọa thiền, tâm chưa được định mà gương tuệ sanh thì không bao giờ có. Tuy có tánh tuệ mà không tập tọa thiền, tự cho đã có tuệ thì cần tọa thiền làm gì? Người như thế, tuy có tuệ mà không sáng suốt. Nếu khi thiền định, tâm chưa được định mà muốn cầu tuệ, ví như sóng gió chưa dừng mà mong thấy bóng mặt trăng. Nếu tâm đã định lại sanh tà giải, cầu mong được tuệ, cũng như sóng gió đã lặng, bóng trăng lóng trong mà lại lấy tay muốn vớt bóng trăng trong nuớc, khi nào được thấy.
Tổ sư nói: "Tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch". Lại nói: "Tịch tịch tinh tinh phải, tịch tịch vô ký sai. Tinh tinh tịch tịch phải, tinh tinh loạn tưởng sai".(*) Tinh tinh tịch tịch phải, tịch tịch tinh tinh là thuốc, vô ký loạn tưởng là bệnh. Nếu thân có bệnh phải nhờ thuốc đối trị, thân đã bình định còn gì phải trị. Nếu được như thế thì định tuệ thành tựu.
Chú thích: (*) Trong chánh văn: "Tịch tịch tinh tinh thị vô ký, tinh tinh tịch tịch thị loạn tưởng". Nguyên bản của thiền sư Huyền Giác: "Tịch tịch tinh tinh thị, tịch tịch hôn trầm phi". Có lẽ ở đây in sót mấy chữ.
LUẬN VỀ NIỆM PHẬT
Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện. Tâm khởi ác là niệm ác, sanh nghiệp ác thì ứng nghiệp ác. Như gương hiện ảnh, tợ bóng theo hình. Cho nên thiền sư Vĩnh Gia nói: "Ai vô niệm, ai vô sanh?" là nghĩa này vậy.
Nay học giả muốn khởi chánh niệm để dứt ba nghiệp, cũng nhờ công phu niệm Phật. Thế nào là niệm Phật được dứt ba nghiệp? Vì khi niệm Phật thân ngồi ngay thẳng, không làm hạnh tà là dứt thân nghiệp. Miệng tụng chân ngôn, chẳng nói lời tà là dứt khẩu nghiệp, Ý gắng tinh tấn, chẳng khởi tà niệm là dứt ý nghiệp. Song người trí có ba bực:
1.- Bậc thượng trí thì tức tâm tức Phật, chẳng nhờ tu thêm. Niệm tức là trần, chẳng cho một điểm. Niệm trần vốn tịnh, nên gọi như như bất động, tức là thân Phật. Thân Phật tức là thân ta, không có hai tướng. Tướng tướng không hai, lặng lẽ thường còn chẳng biết, đó là Phật sống.
2.- Bậc trung trí ắt nương niệm Phật. Chú ý chuyên cần, niệm niệm chẳng quên, tự tâm thuần thiện. Niệm thiện đã hiện, niệm ác liền tiêu. Niệm ác đã tiêu chỉ còn niệm thiện. Do niệm là ý niệm, nên niệm niệm diệt đó. Khi niệm diệt ắt về chánh đạo. Lúc mạng chung được vui Niết bàn: thường, lạc, ngã, tịnh, là Phật đạo vậy.
3.- Bậc hạ trí miệng siêng niệm lời Phật, tâm muốn thấy tướng Phật, thân nguyện sanh về nước Phật. Ngày đêm siêng năng tu hành, không thối chuyển. Sau khi mạng chung, tùy niệm thiện đó được sanh về nước Phật. Sau được chư Phật dạy bảo chánh pháp, chứng được Bồ đề cũng vào quả Phật.
Ba bậc trên sâu cạn chẳng đồng, chỗ được là một vậy. Song bậc thượng trí nói thì dễ mà hành thì khó. Người thời nay muốn theo gương học, toàn không có chỗ gá nương, trọn trông bờ rồi lui rất khó đặt chân. Bậc trung trí nếu hay siêng tu như lời nói ở trên thì tức khắc thành Phật. Nếu như lậu chưa hết mà lâm chung, tùy quả báo kia trở lại thọ sanh ở đời, nhận quả báo thiện. Quả báo thiện đã hết, không có người đánh thức, trở lại rơi vào đường ác. Như thế đó cũng là khó vậy. Bậc hạ trí lấy niệm Phật làm nấc thang, lấy tinh tấn làm cây thang, chú ý duyên lành, nguyện sanh về nước Phật. Siêng năng không lười biếng, tâm tánh thuần thục. Sau khi mạng chung, tùy theo sở nguyện được sanh về nước Phật. Ðã sanh vế nước Phật thân đó không bao giờ mất.
Người học thời nay, đã được thân người, ba nghiệp đồng có, mà chẳng dùng niệm Phật, cầu sanh về cõi Phật, đâu chẳng khó sao? Như muốn niệm Phật, tức lấy bậc hạ trí làm trước. Tại sao? Vì có chú ý vậy. Ví như xây đài ba tầng, mà chẳng dùng tầng dưới làm trước thì không thể có vậy.
KHÓA HƯ LỤC
HT. Thích Thanh Từ Dịch
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks