§15 - NÓI THÊM VỀ MA THUẬT
Ma thuật bao gồm một phạm vi rộng lớn các chủ đề. Các sách về chủ đề này nhiều đến nỗi đầy ắp cả một thư viện. Ma thuật được thực hành suốt dọc lịch sử loài người và bởi mọi nền văn minh. Ngày nay nhiều người vẫn còn sa vào nanh vuốt của nó. Nhiều linh mục đánh giá quá thấp về sự nguy hiểm của ma thuật. Trong khi họ vẫn nghiêm chỉnh tin vào quyền năng cứu độ của Chúa Giêsu, Đấng đã chết để giải phóng chúng ta khỏi xiềng xích của Satan, thì họ lại quên rằng Chúa không bao giờ bảo chúng ta đánh giá thấp về quyền lực của ma quỷ; Ngài không bao giờ bảo chúng ta coi thường ma quỷ hoặc ngưng chiến với nó. Thay vào đó, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta quyền năng trừ quỷ và khuyên chúng ta không ngừng chiến đấu chống lại nó là kẻ chuyên "giần sàng"chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã trải qua những cơn cám dỗ bởi Satan và tỏ cho chúng ta thấy rõ ràng rằng chúng ta không thể làm tôi hai chủ.
Điều rất rõ ràng là Kinh Thánh cả Cựu Ước lẫn Tân Ước đều cảnh báo chống lại ma thuật và các thầy phù thủy. Kinh Thánh cảnh báo chúng ta rằng ma thuật là một trong những biện pháp thông dụng nhất được ma quỷ sử dụng để trói buộc con người và làm cho họ mất tính người. Một cách trực hoặc gián tiếp, ma thuật là một sự thờ lạy Satan. Những người thực hành bất cứ loại ma thuật nào tin rằng họ có thể điều khiển những quyền lực cao hơn, nhưng trong thực tế chính họ là người bị điều khiển.
Những tay thầy mo tin rằng họ làm chủ cả sự thiện lẫn sự dữ. Những tay đồng cốt và những người theo thuyết duy linh gọi những hồn linh mạnh mẽ hoặc hồn của những người chết về, mà lại không nhận ra rằng họ đã trao chính thể xác và linh hồn mình cho những quyền lực ma quỷ. Cho dù nó không rõ ràng trực tiếp, những hồn linh mạnh mẽ này luôn luôn sử dụng những tay sai vào những mục đích phá hoại. Khi con người tách lìa khỏi Thiên Chúa, nó ra nghèo nàn và bất hạnh; nó không thể nào hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, và thậm chí cũng chẳng hiểu gì về ý nghĩa của những gian truân, đau khổ và sự chết. Nó trông đợi hạnh phúc mà thế gian này đưa ra như một miếng mồi: sự giầu sang, quyền lực, sức khỏe, tình yêu, khoái lạc, và sự ngưỡng mộ. Dường như ma quỷ đang nói rằng "nếu anh thờ lạy tôi, tôi sẽ tặng anh tất cả" (Lc 4, 6-7).
Thế nên chúng ta thấy mọi người - trẻ cũng như già, các phụ nữ, các công nhân, các chức nghiệp, các chính trị gia, và các nghệ sĩ - đều tìm kiếm "sự thật" về tương lai của họ. Họ luôn luôn tìm đến các thày phù thủy, thày bói, nhà chiêm tinh, người bói bài, các nhà chuyên môn nào đó, và các người tiên đoán vận mệnh đủ loại. Họ đến do tình cờ, hoặc vì hy vọng hay thất vọng, hoặc như một cuộc thí nghiệm. Một số trở nên nạn nhân, số khác bị bó buộc, những người khác nữa gia nhập hẳn vào giáo phái.
Đằng sau tất cả những điều này là gì? Người không biết thì tin rằng đó chỉ là sự mê tín dị đoan, sự tò mò, sự ảo tưởng, sự lừa bịp; thực tế, đó là nguồn tiền béo bở. Thực ra, ma thuật không chỉ là một sự mê tín ngớ ngẩn, một cái gì đó không có cơ sở; nó cũng là một sự cậy nhờ những quyền lực ma quỷ để gây ảnh hưởng trên tiến trình các biến cố hoặc để điều khiển người khác để trục lợi cá nhân. Hình thức tin tưởng lệch lạc này, tiêu biểu giữa các dân tộc thời sơ khai, vẫn còn dai dẳng qua thời gian và tiếp tục tồn tại song song với nhiều tôn giáo trong mọi quốc gia. Mặc dù nó có nhiều hình thức, nhưng kết quả vẫn là một: làm con người lìa xa Thiên Chúa để dẫn nó đi vào tội lỗi và chết phần linh hồn.
Có hai loại ma thuật: mô phỏng và lây truyền. Ma thuật mô phỏng dựa trên ý niệm tương tự trong hình thức và thực hành - nó vẫn dựa trên nguyên tắc là mọi sự đều sinh ra một cái gì đó tương tự. Người ta sẽ lấy một hình nộm làm mục tiêu, và vừa đọc "những câu thần chú" thích hợp, vừa lấy dùi đâm vào hình nộm, lúc đó nạn nhân cũng sẽ cảm thấy bị đâm và bắt đầu đau đớn hoặc sinh ra bệnh tật nơi chính phần thân thể đã bị đâm trên hình nộm. Loại ma thuật lây truyền dựa trên nguyên tắc tiếp xúc thể lý, hoặc lây truyền. Để gây ảnh hưởng trên nạn nhân, người phù thủy phải có được một vật gì đó của họ, như là tóc, móng tay, y phục. Một bức ảnh cũng được, tốt hơn là bức ảnh toàn thân; khuôn mặt không được che đậy. Trong loại ma thuật này, một phần đại diện cho toàn phần. Nói cách khác, điều gì được làm cho một phần sẽ ảnh hưởng đến toàn thân. Vậy người phù thủy sẽ dùng những công thức hoặc nghi thức thích hợp trong thời gian định trước về năm và về ngày. Công việc xấu xa sẽ được thực hiện nhờ sự can thiệp của các hồn linh mà hắn ta kêu cầu. Chúng tôi đã nói về loại này khi nói về bùa chú, nhưng ma thuật bao gồm nhiều lãnh vực rộng lớn hơn bùa chú, và lớn lao hơn bùa- nhìn (the evil eye).
Một trong những nghi thức nhập môn ma thuật, các tay thày mo ở đảo Green Cape nói rằng: trong lúc làm nghi thức, ứng sinh sẽ đứng trước một tấm gương nhờ đó chính Satan sẽ xuất hiện để ban cho nó "quyền lực" và trao vào tay nó những vũ khí mà nó sẽ sử dụng. Những vũ khí mà người Kitô hữu dùng chống lại "tiếng sư tử gầm rống" là sự thật, sự công chính, đức tin, và thanh gươm hai lưỡi là Lời Chúa. Thay vào đó, tên thày mo sẽ có một thanh gươm thật để đả thương người. Hắn sẽ có khả năng phá hoại, nguyền rủa, thấy trước, ở hai nơi, chữa bệnh, và nhiều hơn nữa, tùy theo cái mà hắn đã được trông đợi để hoàn thành việc phá hoại kế hoạch của Thiên Chúa và tùy vào những gì mà hắn có thể dâng cho Satan. Ngoài bản thân mình ra, hắn có thể dâng cả con cái và những kẻ ít nhiều ngây thơ khác, là những kẻ tìm đến xin hắn giúp đỡ. Nạn nhân của ma thuật sẽ cảm thấy dị ứng với tất cả những gì là thánh thiêng - kinh nguyện, nhà thờ, ảnh tượng. Thay vào đó đời sống của hắn sẽ đầy tràn mọi thứ hình thức ác độc không lường trước được.
Một khi việc cúng tế đã được thực hiện, và các món hàng được yêu cầu (bất kể nó tầm thường như thế nào) đã được đáp ứng, thì người đứng ra thuê thày phù thủy thường sẽ bị ảnh hưởng. Ông thày mo sẽ gây ảnh hưởng bằng cách gợi ý bắt tổ chức lễ lạc như đi viếng thăm bảy nhà thờ, đốt những cây nến theo cách riêng biệt, rắc một thứ bột đặc biệt, hoặc bắt buộc mang những đồ vật được chỉ định. Nhờ những nghi lễ này nạn nhân giao kèo ràng buộc nhiều ít với ma quỷ; hậu quả đến với thể xác và linh hồn thì luôn tiêu cực. Nhiều lần những bà mẹ đem con cái của họ đến với những thầy phù thủy, những tên này cho chúng những món đồ để mang trong người - khi có chuyện rắc rối xảy ra, một số đã đến tìm tôi xin giúp đỡ. Trước con mắt không kinh nghiệm thì những món đồ này trông giống như những vật tầm thường, nhưng vì những hậu quả xấu ác, chúng chứng tỏ là những thứ bùa thực sự. Nếu chúng ta phiêu lưu đi vào địa hạt của kẻ thù, chúng ta sẽ rơi vào vòng quyền lực của nó dù là chúng ta hành động "theo đức tin tốt lành", và chỉ có bàn tay quyền năng của Thiên Chúa mới có thể giải thoát chúng ta khỏi những thừng chão mà chúng ta đã tự trói buộc mình.
Những hành động của cái gọi là ma thuật cao có thể được xếp thành từng loại: sacralization, consecration, blessings, destitutions, excommunications và curses. Mục đích của tất cả những hoạt động này là biến đổi các đồ vật và người ta thành "những biểu tượng được cúng hiến" dĩ nhiên là hiến cho Satan. Chất liệu ma thuật được "thu hút" vào những thời điểm đặc biệt; đó là những đối tượng của ma thuật chiêm tinh. Mỗi thày phù thủy mang một cái huy hiệu ngôi sao năm cánh (pentacles) và cũng cho những người khác mang như vậy. Danh từ đó phái sinh từ tiếng Hy lạp panta-klea. Thường thường chúng là những cái mề đay biểu tượng cho "những xúc tác năng lực". Theo thày phù thủy, những biểu tượng này sở hữu một quyền lực đặc biệt trên trời, và chúng ta đừng lẫn lộn chúng với miếng bùa hộ mệnh (talisman). Miếng bùa hộ mệnh là một vật thể hiện cái riêng biệt của người mang nó nhằm tìm kiếm sự bảo vệ. Miếng bùa hộ mệnh là rất quý giá đối với những khách hàng xấu số là những người cảm thấy bị đánh sụp bởi vận rủi, những sự hiểu lầm, sự thiếu tình yêu, hoặc sự nghèo nàn, và những ai lấy làm vui mừng trả cho ông thày bùa những món tiền ông đòi hỏi, đôi khi với giá cắt cổ, vì ông đã cho họ những "lá bùa may mắn" để giải thoát họ khỏi những vấn đề rác rối. Rốt cuộc, họ lại tự vác vào thân một thứ năng lực xấu xa, không những sẽ làm hại họ mà còn hại cả gia đình họ nữa. Nhang cũng được dùng trong số các đồ vật dùng vào các hoạt động ma thuật. Nhang này được dâng cúng cho Satan và rõ ràng là bắt chước nhang phụng vụ mà chúng ta dâng kính Thiên Chúa.
Những hình thức ma thuật khác dạy cho các phù thủy cách định lượng liều thuốc và pha chế thế nào để đem lại cảm giác quỷ quái nơi những người sẽ dùng thuốc được trộn lẫn vào đồ ăn thức uống của họ. Nạn nhân sẽ tìm thấy không chỉ những đồ vật ghê tởm trong thể xác mình mà còn thấy những ác thần được cầu khấn trong suốt quá trình pha chế của các phù thủy. "Liều thuốc yêu" nổi tiếng - nó có thể cưỡng bức một mối quan hệ ghê tởm (cũng gọi là "bắt buộc") - không là gì khác hơn là một màn trình diễn quyền lực ma quỷ.
Kinh Thánh nói về ma quỷ lần đầu khi nó cám dỗ tổ tông chúng ta dưới hình con rắn. Trong thần thoại, con rắn luôn luôn liên hệ với hiện thân của tri thức. Ở Ai-cập, chính phù thủy Isis người biết các bí mật về đá, cây cối, và súc vật. Nàng biết các bệnh tật và các cách chữa trị; do đó, nàng có thể làm sinh động lại thân xác của Osiris. Con rắn luôn luôn được trình bày cuộn lại trên chính mình nó, với cái đuôi ở trong miệng - một biểu tượng của chu kỳ sự sống vĩnh cửu. Chúng ta cũng có thể nhớ lại con trăn co mình lại của hoàng đế Ica, hoặc con trăn thiêng của dân Ấn-độ.
Trong tà thuật, con rắn lưỡng tính Danbhalah và Aida Wedo chỉ dẫn cho các kẻ theo nó với một sự chắc chắn và chính xác đem lại những kết quả tuyệt vời vào bất cứ giờ nào ngày cũng như đêm. Con rắn này cho là mình biết tất cả những bí mật của Ngôi lời Sáng tạo thông qua "ngôn ngữ ma thuật", mà quyền năng của nó được tăng thêm nhờ những bản nhạc ma quái. Đây là ma thuật của dân Haiti cùng với thứ ma thuật có gốc Phi Châu và Nam Mỹ - đặc biệt là từ nước Brazin - được gọi là "macumbe" và chúng có sức mạnh gian ác thật khôn lường. Tôi đã đề cập đến những loại bùa hóc búa nhất mà tôi đã từng trừ khử đến từ Brazin hoặc Châu Phi.
Nền văn minh hiện đại trộn lẫn các phong tục với nhau chứ không thay đổi chúng. Do đó, khoa học và ma thuật, tôn giáo và các tập tục cổ xưa cùng tồn tại trong thế giới của chúng ta. Thậm chí ngày nay, đặc biệt ở những khu vực thôn quê bên Ý, rất nhiều người có đạo lại quay về với các tay phù thủy như một liệu pháp chữa đủ mọi thứ bệnh, từ bệnh tật tới bùa-nhìn (evil eye), để tìm việc làm hoặc kiếm một ông chồng chẳng hạn. Chúng tôi đang nói về những người tốt "những người luôn luôn đến nhà thờ". Cũng như một số bà mẹ vẫn dạy con cái họ, trong đức tin tốt lành, về cử chỉ, lời nói phải làm sao để tránh khỏi bùa-nhìn (the evil eye) vào ngày áp lễ Giáng sinh; hoặc họ đeo vào cổ con cái họ - kèm theo với sợi giây đeo ảnh chuộc tội hay các ảnh thánh - chùm lông con lửng, răng chó sói, hoặc những chiếc sừng đỏ. Đó là tất cả những đồ vật mà, cho dù chúng không "nhiễm" sự tiêu cực qua những nghi lễ ma thuật, thì cũng liên kết với Satan qua tội mê tín dị đoan.
Ma thuật luôn luôn liên kết với bói toán, tức là thử thời vận để biết tương lai của chúng ta bằng những đường lối bất chính. Chúng tôi chỉ phải nghĩ về thói tục phổ biến là bói bài - bằng cách hỏi cỗ bài tarot để biết tương lai - đây là phương pháp bói rất thông thường được dùng bởi các tay phù thủy và những tay thày bói. Người ta tin rằng nguồn gốc của bộ bài tarot đã có từ thế kỷ thứ mười ba. Nó được hướng dẫn bởi những mụ thày bói, là những người cô đọng năng lực biết trước tương lai trong "trò chơi" bài này. Cốt lõi của trò chơi này là một nguyên tác huyền bí thiết định mối liên hệ giữa con người và thế giới thần linh. Tôi sẽ không triển khai về chủ đề này. Tôi chỉ muốn nêu lên rằng những con người ngây thơ, ngỡ ngàng vì thấy quá khứ của mình được nói ra một cách chính xác, ra về trong sự thất vọng hoặc tràn đầy những hy vọng hão huyền. Họ thường trở nên nghi ngờ gia đình và bạn bè, và đặc biệt họ sẽ hình thành thói nghiện coi bói bài, nó sẽ kéo dài mãi về sau và gây cho họ những cảm giác sợ hãi, cuồng dại và bấp bênh. Họ lúc nào cũng muốn chạy lại với những trò ma thuật hoặc muốn mua những thứ bùa để đối phó với kẻ thù bên trong, mà chính họ đã mở cửa cho chúng vào để rồi chúng lại gây cho họ bệnh tật và những nỗi bất hạnh...
Ma thuật kinh ác nhất gốc từ châu Phi dựa trên phép phù thuỷ - mà mục đích của nó là làm hại người khác thông qua ma thuật - và dựa trên Thuyết thông linh - nó nhằm tiếp xúc với hồn người chết hoặc các quỷ thần cao hơn. Thuyết thông linh có mặt và được thi hành ở mọi quốc gia và mọi dân tộc. Ông đồng bà cốt là người làm trung gian giữa các thần linh và con người, họ cho các thần linh mượn năng lực của mình (tiếng nói, các cử điệu, chữ viết...) để các thần linh bộc lộ mình ra. Có thể xảy ra là các thần linh này - thường là và luôn luôn là ma quỷ - sẽ nhập vào một số người trong cuộc lên đồng. Giáo Hội luôn luôn cấm lên đồng và cấm tham dự vào đó. Chúng ta không bao giờ học được bất cứ điều gì lợi ích bởi tham vấn Satan.
Có thực là không thể gọi hồn người chết được không? Có phải luôn luôn chỉ có ma quỷ hiện lên trong các buổi gọi hồn không? Chúng ta biết rõ rằng chỉ có một trường hợp ngoại lệ duy nhất gây cho các tín hữu sự nghi ngờ. Kinh Thánh thuật lại cho chúng ta rằng vua Saolê tìm đến bà đồng và xin: "Xin bà ngồi đồng mà bói cho tôi, và hãy gọi lên cho tôi người tôi sẽ nói cho bà." (lSam 28,8), thế rồi tiên tri Samuel, người đã qua đời trước đó ít lâu đã thực sự hiện lên. Thiên Chúa cho phép trường hợp ngoại lệ này, nhưng chúng ta nên chú ý đến tiếng kêu kinh ngạc của bà đồng và lời khiển trách khắc nghiệt của Samuel: "Tại sao ngài lại gọi tôi lên mà quấy rầy tôi?" (lSam 28,15). Người chết phải được kính trọng và không bị quấy rầy. Vì đây là lần duy nhất xảy ra trong toàn bộ Kinh Thánh nên tôi muốn coi đó như một ngoại lệ. Tôi rất đồng ý với những bản văn của một nhà tâm lý và là nhà trừ quỷ tin lành: "Thật là ích kỷ và độc ác khi cố gắng và bám víu lấy người quá cố của chúng ta, hoặc muốn gọi họ trở lại với chúng ta. Điều mà họ cần là sự giải thoát vĩnh viễn, và không bị rằng buộc lại với những sự vật và con người trong thế giới này" (Kenneth McAll, Fino alle radici [Ancora], p.141).
Nhiều người bị lừa do thiếu đức tin và do không biết. Việc tán thành một vài vũ điệu, bài hát, y phục và súc vật vốn được dùng trong các nghi lễ ma thuật khác nhau có thể là rất hứng thú theo quan điểm dân gian. Bốn cây nến tại bốn góc đường hoặc một bộ nến ba cây mà người ta bày ra đất, có thể biến thành một trò chơi hoặc một trò mê tín vô hại. Đây là lúc để chúng ta thực sự xem xét nó. Tôi đặc biệt gởi lời kêu gọi này đến các linh mục: "Đó là tất cả những chước cám dỗ kêu cầu các thần khí quỷ ma có thể có hoặc có thể không có hại cho ai, nhưng mục tiêu cuối cùng của chúng thì luôn luôn là phân rẽ nạn nhân ra khỏi Thiên Chúa, để dẫn họ đến với tội lỗi, lo âu, xa lánh, và thất vọng.
Tôi đã được hỏi xem có thể nào cả một cộng đồng bị ma thuật tác hại không. Tôi phải trả lời là có; tuy nhiên, chủ đề này cần được nghiên cứu lại riêng toàn bộ, và do đó, tôi sẽ giới hạn bài phê bình vào một vài điểm. Ma quỷ rất có thể dùng một người để tác hại thậm chí cả một nhóm người rất đông - những nhóm này có thể tiếp tục gây ảnh hưởng đến cả một hay nhiều quốc gia. Ngay trong thời đại chúng ta, tôi tin rằng đây là trường hợp của những người như Karl Marx, Hitler, và Stalin. Những sự tàn bạo của Đức quốc xã, những nỗi kinh hoàng của cộng sản, những sự tàn sát của Stalin chẳng hạn, đã đạt tới tầm cỡ của ma quỷ. Ngoài lãnh vực chính trị, tôi không ngần ngại nói đến một số âm nhạc như là một dụng cụ của Satan, như sự điên cuồng mà một số ca sĩ kích động lên trong những đám đông, thường lên đến tột đỉnh của sự phá hoại và bạo lực cực điểm.
Có những trường hợp khác của ảnh hưởng ma quỷ, dễ kiểm soát và chữa lành - mặc dù những sự ám ảnh tập thể vẫn luôn luôn là khó chữa. Một số trong những trường hợp này bao gồm toàn thể lớp học, hiệp hội, cộng đồng tu trì... Khả năng ma quỷ lừa dối và đem những lầm lạc hết sức tệ hại vào các nhóm thật khó mà tưởng tượng được. Có những người nhất định cho rằng ma quỷ lừa dối cả một cộng đoàn dễ hơn lừa dối một cá nhân đơn lẻ. Chắc chán rằng ma quỷ có thể lừa dối cả những cộng đồng rất lớn; tuy nhiên, hầu như luôn luôn rõ ràng là sự đồng ý của con người cũng dính líu vào, tức là tội con người tự do chấp nhận các hoạt động của Satan. Những động lực của sự chấp nhận này thì có nhiều: như sự giầu sang, quyền lực, thói hư tật xấu, và còn nữa.
Hậu quả tàn phá bởi ảnh hưởng của Satan trên các cộng đồng thật là thảm khốc. Đây là lý do vì sao các Đức Thánh Cha, đặc biệt các vị gần đây, kiên quyết cảnh báo chúng ta - chẳng hạn, diễn từ của Đức Thánh Cha Phaolô VI ngày 15.11.1972 và của Đức Gioan Phaolô II ngày 20.8.1986.
Satan là kẻ thù tồi tệ nhất của chúng ta, và nó sẽ vẫn mãi là như thế cho đến tận cùng thời gian. Do đó, nó dùng tất cả trí năng và quyền lực của nó để cố gắng cản trở kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng muốn cứu rỗi tất cả mọi người. Sức mạnh của chúng ta là Thánh giá, máu thánh, và các thương tích Đức Kitô, và sự vâng phục Lời Ngài và hội thánh của Ngài.
Tác giả: Lm. Gabriele Amorth
§16 - AI CÓ THỂ TRỪ QUỶ
Tôi thiết tưởng tôi đã làm sáng tỏ một cách đầy đủ rằng Chúa Giêsu đã ban quyền trừ quỷ cho tất cả những ai tin vào Ngài và hành động nhân danh Ngài. Tôi đang ám chỉ đến kinh nguyện riêng, mà chúng ta có thể gọi chung là "kinh nguyện giải thoát".
Các nhà trừ quỷ tiếp nhận một quyền năng phụ thêm đặc biệt. Tôi đang nói về các linh mục được đức giám mục chỉ định đặc biệt. Khi sử dụng những công thức và những kinh nguyện mà sách nghi thức gợi ý, các linh mục này cử hành á bí tích bao gồm sự cầu bầu của giáo hội, khác với kinh nguyện tư.
Luôn luôn cần nhiều đức tin, nhiều lời cầu nguyện và ăn chay: về phía cả những người cầu nguyện giúp và những người mà chúng ta cầu nguyện cho. Luôn luôn rất là tốt nếu một nhóm người tụ tập lại để đồng thời cầu nguyện cho, nhưng tách biệt khỏi, một cuộc trừ quỷ. Tất cả các linh mục, dù họ không phải là những nhà trừ quỷ, đều có quyền năng đặc biệt phát sinh từ thánh chức của họ. Đây không phải là một danh dự cho con người họ nhưng là một sự phục vụ cho nhu cầu thiêng liêng của tín hữu; việc giải thoát khỏi những ảnh hưởng ma quỷ, là một trong những điều đòi buộc một vị linh mục. Mọi người có thể dùng những phương pháp thông thường để đạt được ân sủng - như đọc những kinh giải thoát - đọc riêng hoặc đọc đang khi có cuộc trừ quỷ: chẳng hạn. đặt một cây Thánh giá, hoặc chuỗi hạt mân côi, hoặc những di vật thánh nào đó trên đầu nạn nhân. Di vật thánh của Thánh giá là hiệu nghiệm nhất, bởi vì chính bởi Thánh giá mà Chúa Giêsu đánh bại vương quốc Satan. Di vật của các thánh bổn mạng của chúng ta cũng rất công hiệu, thường chỉ cần bức ảnh thánh đã làm phép, như bức ảnh vẽ chân dung thánh tổng thần Micae mà ma quỷ đặc biệt khiếp sợ.
Tôi thiết tưởng tôi sẽ làm các độc giả thất vọng nếu tôi không ít là đá động đến cái mà bây giờ là một đạo quân thực sự gồm những người tự xưng là người có đặc sủng, những thị nhân, những nhà cảm xạ, những nhà trị bệnh bằng khí công (prana), những người chữa bệnh và cả những mụ lang băm nữa. Đó là những nhóm người rất bao quát còn hơn thế nữa, vì các giám mục và hàng giáo sỹ, một cách hời hợt đi từ chỗ không tin gì hết đến chỗ chẳng quan tâm gì, các ngài đã bỏ bê lãnh vực mục vụ này là lãnh vực vốn thuộc về các ngài cách riêng. Tôi sẽ dành ra một chương để nói về chủ đề này kỹ hơn. Trong khi chờ đợi, tôi sẽ bàn về những người vừa được đề cập đến ở trên.
Trước hết, tôi sẽ nói về những người có thể - hoặc tự coi là mình có thể - đem lại sự giải thoát, nhưng lại chỉ nhằm đến việc chữa lành. Thật khó mà phân biệt rõ ràng được trong lãnh vực này. Ma quỷ là cội rễ mọi thứ bệnh tật, đau khổ, tội lỗi, chết chóc: vì những thứ ấy là các hậu quả của tội lỗi. Nhưng cũng có những bệnh tật được trực tiếp gây lên do ma quỷ. Phúc Âm đề cập đến một số trường hợp như thế: người đàn bà bị bại liệt mười tám năm và một người câm điếc. Cả hai trường hợp, sự hiện diện của Satan đã gây ra bệnh tật, và Chúa đã chữa lành cho bằng cách trừ ma đuổi quỷ. Theo kinh nghiệm mà tôi đã nói qua trước đây là rất hữu dụng - nếu một căn bệnh có nguồn gốc từ ma quỷ thì không có thứ thuốc nào có thể trị được, chỉ trừ có lời cầu nguyện và sự trừ quỷ là trị được mà thôi. Thực sự trong trường hợp bị một cơn quỷ ám lâu dài nạn nhân dễ bị những vấn đề về tâm lý và có thể cũng cần đến sự chăm sóc y khoa thích đáng cả sau khi đã được giải thoát. Ở đây tôi chỉ bàn đến một lãnh vực đòi hỏi sự chuyên môn đặc biệt mà một nhà trừ quỷ thường lại không có. Một nhà trừ quỷ hẳn phải biết về bệnh tâm lý chỉ tới mức độ có thể nhận ra được khi nào thì cần đến một bác sĩ tâm lý; không ai đòi hỏi ông phải biết về các bệnh tâm lý y như một bác sĩ tâm lý biết. Do đó, nhà trừ quỷ phải biết về các hiện tượng siêu tâm lý, nhưng ông không thể thay thế một chuyên gia trong lãnh vực này. Lãnh vực chuyên môn của nhà trừ quỷ thuộc về siêu nhiên. Ông phải biết chính xác về những hiện tượng siêu nhiên và những cách chữa liên quan. Tiền đề này là rất cần thiết, vì ở đây chúng ta đang bàn đến những vấn đề đụng chạm đến những sự siêu nhiên, huyền bí, siêu phàm - hoặc quỷ quái.
Các đặc sủng. Chúa Thánh Thần, với sự tự do thần linh của Ngài, ban phát các đặc sủng của Ngài khi nào và cho ai Ngài thích. Những điều này không được ban cho vì vinh quang hoặc lợi ích của người lãnh nhận nhưng là để phục vụ anh em mình. Giữa những đặc sủng này là quyền năng giải thoát khỏi ma quỷ và chữa lành các bệnh tật. Những tặng ân này có thể được ban cho các cá nhân cũng như các cộng đoàn. Chúng không lệ thuộc ở sự thánh thiện cá nhân, nhưng ở sự tự do lựa chọn của Thiên Chúa. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa thường ban những ơn này cho những người công chính, sống khiêm nhường, năng cầu nguyện, và sống một đời sống Kitô giáo gương mẫu - điều này không có nghĩa là không có khuyết điểm! Ngày nay, xuất hiện nhiều kẻ tự nhận mình có đặc sủng và lôi cuốn đông đúc những người đau khổ tìm đến. Làm thế nào để có thể phân biệt được những người được đặc sủng thật với những người giả tạo? Sự phân biệt thuộc về Giáo Hội, Giáo Hội được giao quyền để dùng bất cứ và mọi công cụ mà Giáo Hội xét là cần thiết để phân biệt.
Tôi biết những trường hợp mà trong đó những nhà chức trách trong Giáo Hội can thiệp để canh giác tín hữu đề phòng những tay khoác lác và những tay lừa đảo. Tôi chưa hề biết bất cứ ai đã được nhìn nhận chính thức là có những đặc sủng như thế. Đây là một vấn đề khó khăn và phức tạp, nó phức tạp bởi vì các đặc sủng có thể chấm dứt bất thình lình. Vì không có người nào còn đang sống mà được cố định trong một tình trạng ân sủng thường hằng, rất có thể một người đã lãnh nhận một đặc sủng lại trở nên bất xứng. Tôi xin gợi ý bốn qui tắc để xác định sự hiện diện của đặc sủng thực sự. (1) Cá nhân hoặc cộng đồng sống Phúc Âm một cách sâu xa. (2) Cá nhân hoặc cộng đồng thực hiện những dịch vụ tuyệt đối miễn phí - không chấp nhận quà cáp, như thể nhờ những việc này mà dễ dàng trở nên giầu có. (3) Các việc thực hành được dùng phải là những phương pháp thông dụng để đạt được ân sủng đã được Giáo Hội chuẩn nhận, tránh những hành động bất thường hoặc mê tín dị đoan. Chẳng hạn, họ không được dùng những công thức "ma thuật" nhưng phải dùng cầu nguyện, dấu Thánh giá và việc đặt tay, và đừng có điều gì có thể phạm đến đức khiêm nhường. Họ phải tận dụng nước, trầm hương, và các di tích thánh và tránh bất cứ cái gì ở ngoài cách dùng thông thường của Giáo Hội. Họ nên cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu Kitô. (4) Các kết quả phải là tốt. Đây là qui luật Phúc Âm, tổng kết tất cả các qui luật khác: "Cây nào sinh trái ấy (Mt 12, 33).
Những nét đặc trưng khác là tiêu biểu cho những sự chữa lành đã đạt được qua các đặc sủng là như sau: chúng có hiệu quả cho tất cả mọi bệnh tật, cả những bệnh do ma quỷ gây nên. Những sự chữa lành này không dựa trên sức lực hay khả năng loài người nhưng trên lời cầu nguyện đầy đức tin, trên sức mạnh của Danh thánh Chúa Giêsu, trong sự cầu bầu của Mẹ Maria và các thánh. Với người có đặc sủng thực sự, họ không hao tổn sức lực và cũng không cần thời gian nghỉ để "sạc lại", như trong trường hợp các thày lang, thày bói,... Vì người ấy không phải là chủ thể của các phản ứng vật lý nhưng chỉ là một hành vi khởi dẫn ân sủng. Việc chữa lành bằng đặc sủng không nhằm nêu bật những tặng ân của cá nhân nhưng nhằm tán dương Thiên Chúa và gia tăng đức tin và cầu nguyện.
Tôi muốn nhấn mạnh cách ván tắt điều mà Công Đồng Vaticanô II đã khuyến cáo, nhưng đã không luôn luôn được noi theo. Chủ nghĩa duy lý và duy tự nhiên đã chiếm lĩnh lãnh vực này: những cuộc xuất hiện phi thường, những phép lạ, sự hiện diện của các thánh, những cuộc hiện ra. Đó là tất cả những biến cố xảy ra chỉ được đón nhận với sự rụt rè hơn là với lòng biết ơn; với sự kết án mà không điều tra hoặc, ít là bị xem như một chuyện rắc rối. Lời cầu nguyện của các Kitô hữu thuở ban đầu: "Lạy Chúa, xin cho các tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn. Xin giơ tay chữa lành, và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giêsu" (Cv 4, 29-30), không được lặp lại trong bất cứ nhà thờ nào. Xem ra những tặng ân này ngày nay chỉ là một sự phiền toái.
Công Đồng Vaticanô II khẳng định rằng Chúa Thánh Thần "phân phát các ân sủng đặc biệt cho những tín hữu ở mọi cấp bậc...những đoàn sủng này từ những ơn chói lọi nhất đến những ơn nhỏ bé hơn cần phải được lãnh nhận với lòng tri ân cảm tạ. Nhưng không nên liều lĩnh kêu nài các ơn đặc biệt,... Những vị thủ lãnh trong Giáo Hội có thẩm quyền phán quyết về tính chân thực và sự xử dụng hợp lý các ơn lạ ấy; các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất cả, không phải để dập tát Thánh Thần, nhưng để giữ lại những điều thiện hảo" (Lumen Gentium, số l2). Hiển nhiên rằng những lời chỉ dẫn này chẳng được biết đến rộng rãi trong Giáo Hội. Do đó, Công Đồng khẳng định rằng bất cứ ai lãnh nhận những tặng ân của Thánh Thần - dù là một người giáo dân - đều có quyền và bổn phận thi hành chúng, dưới sự hướng dẫn sáng suốt của đức giám mục. Tôi vui mừng vì đang thấy hé nở những nỗ lực nhằm giúp các giám mục trong công việc xem xét của các ngài: chẳng hạn, Phong trào Đặc sủng ở Assisi. Đây là một lãnh vực rộng mở cần phải được theo đuổi.
Các thị nhân và các nhà ngoại cảm. Tôi bàn đến hai loại một lúc, bởi vì họ theo bản chất có cùng những đặc điểm như nhau. Loại thứ nhất là nhìn thấy, loại thứ hai là cảm thấy; cả hai diễn tả cái mà họ đã cảm nghiệm được qua sự tiếp xúc với những vật hoặc những người. Tôi sẽ không bàn giải về chủ đề này, bởi nó bao quát rất nhiều lĩnh vực mà chỉ giới hạn những bình giải của tôi vào lãnh vực chuyên môn cụ thể của tôi: ảnh hưởng của những người đó trong lãnh vực các ảnh hưởng của ma quỷ trên con người, đồ vật và nhà cửa. Nhiều lần các thị nhân và các nhà ngoại cảm đã tiếp xúc với tôi; đôi khi tôi cũng trực tiếp gọi họ và xin họ hiện diện trong buổi cầu nguyện trong một số cuộc trừ quỷ, để tìm ra cái mà họ nhìn thấy hay cảm thấy. Tôi đã có thể nhận xét rằng các câu trả lời của họ đã được ban cho bởi thần khí thông biết.
Một số người, ngay khi họ nhìn thấy hoặc đến tiếp xúc với một người bị quỷ ám, lập tức họ nhận ra vấn đề. Thỉnh thoảng họ cảm thấy khó chịu chung quanh những nạn nhân này; những lúc khác họ có thể nhìn thấy ma quỷ đụng đến họ và họ có thể diễn tả nó. Chỉ cần đưa cho họ một tấm hình, một lá thư, hoặc một đồ vật thuộc về người bị nghi là bị quỷ ám cũng đủ để họ coi xem mọi thứ có bình thường hay không, hoặc có sự hiện diện của ma quỷ hay không, hoặc ngay cả coi xem người đó có nguy cơ mang những hoạt động của ma quỷ chống lại những người khác hay không. Thậm chí chỉ cần nghe tiếng nói của một người nào đó là họ có thể nhận diện được một vấn đề. Chẳng hạn, những người tin rằng họ có thể là đối tượng của những ảnh hưởng ma quỷ, họ sẽ gọi một thị nhân hoặc một nhà cảm xạ và nhận được câu trả lời đúng. Các thị nhân và các nhà ngoại cảm thường được yêu cầu đi đến các ngôi nhà được coi như bị quấy phá, vì có những sự lạ xảy ra, và họ có thể cảm nhận là có hay không có sự hiện diện của ma quỷ. Họ có thể nhận ra những đồ vật đã bị bỏ bùa và phải được đốt đi để trừ khử ảnh hưởng xấu ác. Chẳng hạn họ có thể chỉ vào một chiếc gối hoặc chiếc đệm, và khi mở chúng ra, sẽ thấy những đồ vật lạ như tôi đã từng mô tả trước đây. Tuy nhiên, họ không luôn luôn đúng; những điều họ "cảm thấy" cần phải được kiểm tra lại. Họ cũng có thể theo dõi dấu vết đời sống của một người nào đó, chỉ ra với một sự chính xác lạ lùng ở tuổi nào ảnh hưởng ma quỷ đã xảy ra, thế nào và tại sao nó xảy ra, và những triệu chứng liên quan đến nó. Thỉnh thoảng họ có thể chỉ cho thấy tác giả của ảnh hưởng xấu.
Một hôm, khi tôi dẫn vào phòng khách một người đã xin tôi trừ quỷ, tôi nhớ rằng tôi đã định gọi điện cho một "nhà ngoại cảm". Tôi đi đến chỗ điện thoại, và ông ta lập tức nói ngay: "Anh sắp trừ quỷ cho một người ở độ tuổi 50. Người ấy khi lên mười sáu đã bị một thứ bùa độc, vì căm ghét cha mình. Họ cho anh ta một ly rượu, và họ đã dấu bùa ở dưới đáy một cái giếng. Từ đó, người thanh niên này bắt đầu cảm thấy khó chịu, và bệnh của anh ta cứ tăng thêm bởi vì mọi thứ thuốc men đều vô hiệu. Sau một vài năm cha anh ta qua đời, và anh ta bắt đầu cảm thấy khá hơn. Tuy nhiên, đầu óc anh ta bị tổn hại nặng đến nỗi anh ta không thể làm việc được. Anh hãy cố gắng và hãy làm phép cho anh ta, nhưng tôi e rằng sẽ chẳng làm được gì, vì đó là một sự dữ đã ăn rễ quá lâu rồi". Mọi sự đã xảy ra đúng như ông ta đã nói trước. Một trường hợp khác, trong khi tôi đang trừ quỷ cho một người dưới sự hiện diện của một nhà ngoại cảm", tôi đã được nói cho biết những bộ phận nào trong thân thể tôi nên làm phép với dây stola hoặc xức dầu, bởi vì chúng đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng; vào lúc cuối cuộc trừ quỷ, nạn nhân muốn khẳng định rằng những khu vực này đã gây cho anh ta đau đớn nhiều nhất.
Tôi có thể nói tiếp nhiều thí dụ nữa. Tôi xin nói rằng những thị nhân và những nhà ngoại cảm mà tôi đã chọn để tham vấn - trong số nhiều người được tiến cử cho tôi - đã là những người rất năng cầu nguyện, giầu lòng từ tâm và bác ái, và đặc biệt rất khiêm nhường. Nếu tôi không khám phá ra họ do tình cờ hoặc do ai đó cho tôi biết tài năng của họ, thì họ cũng chẳng bao giờ nói cho tôi. Những tài năng này là gì? Là những đặc sủng chăng? Hay là những khả năng huyền bí? Tôi hướng đến chỗ tin rằng đó là một tặng ân huyền bí để con người sử dụng phục vụ người khác. Tôi không loại trừ khả năng nó có thể là một đặc sủng. Tôi không nhận thấy trong những người này bất cứ dấu hiệu mệt mỏi hay mất sức nào. Tôi đã chứng kiến các khả năng này được tăng sức mạnh lên dần dần khi sử dụng; điều này dẫn tôi đến chỗ tin rằng chúng ta đang đối diện với những tài năng huyền bí. Tôi sẽ thêm rằng thật là khó khăn để tìm thấy những thị nhân hoặc những nhà ngoại cảm đích thực. Một mặt khác, có rất nhiều người tin rằng mình có và được coi là có những tài năng này. Chúng ta cần phải rất cẩn thận.
Các người chữa bệnh. Tôi sẽ chỉ nói đến những sự chữa lành xảy ra qua sự chuyển tải một hình thức năng lượng đặc biệt, chủ yếu là qua việc đặt tay. Chúng ta đang đi hẳn vào trong lãnh vực của giáo sư Emilio Servadio, một chuyên gia người Ý về những hiện tượng huyền bí. Vì tôi không phải là một chuyên gia, nên tôi sẽ chỉ nói rằng những người chữa bệnh không có bất kể thứ ảnh hưởng gì trên những căn bệnh do ma quỷ gây ra, cũng như kiến thức nhân loại và các bác sĩ cũng không có ảnh hưởng gì.
Liệu pháp Prana. Trong ít năm gần đây, có một sự bộc phát những người tự cho mình là có những khả năng này, cũng như khả năng của những người chữa bệnh. Tôi không định thử cắt nghĩa lý thuyết về prana hoặc về bioplasma. Khoa học chính thức đang nghiên cứu về hiện tượng này nhưng chưa thừa nhận nó. Tôi thuật lại những kết luận mà cha Grua đã nghiên cứu trong cuốn sách của ngài, cuốn La preghiera di guarigione: "Nếu việc chữa bệnh xảy ra thông qua một năng lực mà người chữa bệnh truyền sang cho người bệnh, cả thông qua việc nạp năng lượng ngoại cảm hoặc qua cách truyền năng lượng khác, thì họ không dính dáng gì đến đặc sủng chữa bệnh. Thêm vào đó, có thể có nguy cơ sự dữ thâm nhập vào. Đó là lý do tại sao chúng ta cần phải hết sức khôn ngoan." Tôi biết một số những chuyên gia prana vị tha thực sự, những người có đức tin, họ sẵn sàng đem những khả năng của họ phục vụ tha nhân trong tinh thần bác ái đích thực. Không may, những người như thế lại rất hiếm - cả ngàn người mới có một - một nhà trừ quỷ lừng danh ở Venice, cha Pellegrino Ernetti, đã dặn tôi cần phải thận trọng đối với liệu pháp prana. Cần phải sáng suốt nhìn vào các hoa trái và các phương pháp chúng ta sẽ nhận ra cây.
Các thày phù thủy. Tôi đã nói rất nhiều về những người này. Tôi sẽ nói lại rằng các việc chữa bệnh có thể xảy ra thông qua sự can thiệp của ma quỷ, có thể đội lốt những sinh vật ngoài trái đất hoặc những linh hồn hiện về hướng dẫn. Chính Chúa Kitô đã cảnh giác chúng ta phải đề phòng "những tiên tri giả và những Kitô giả" (Mt 24,24). Một đạo quân những nhà chữa bệnh khác, hoàn toàn không dính dáng gì với quyền lực của ma quỷ, là rất đông những phù thuỷ giả, đơn giản là những tên lang băm, hay những tay thày mo. Những người này chuyên đánh lừa người ta bằng cách cho họ những lá bùa, những giải băng và những chiếc túi da thú nhỏ. Tôi đã đốt một tờ giấy vở trên đó có vẽ nhiều trường vòng cuộn lại vô nghĩa: đó là "lá bùa" trị giá 8.000 đô la đấy! Một người khác chạy đến xin tôi giúp đỡ, ông đã từng phải trả một số tiền gấp đôi cho một túi nhỏ đựng toàn những đồ tạp nhạp được coi như là để giải thoát ông khỏi nhiều thứ bệnh.
Các mụ gypsies. Phải nói ít lời về những mụ gypsy bởi vì họ có mặt ở khắp Âu châu. Thay vì phải nói lại những điều tôi đã nói về những tay bói bài và những tay gian xảo, tôi sẽ tập trung vào những khía cạnh khác của hiện tượng này qua một thí dụ. Tôi đã trừ quỷ cho một phụ nữ bị quỷ ám; bà ta đã phải chịu đau khổ với nhiều chứng bệnh một thời gian nhưng không nghĩ là do nguyên nhân ma quỷ. Một hôm, sau khi tiếp một mụ gypsy trẻ, mụ ta nói: "Thưa bà, bà bị bệnh vì họ đã bỏ bùa cho bà. Bà hãy đưa cho tôi một quả trứng sống." Người đàn bà đã đưa trứng cho mụ, và mụ ta đã đặt trái trứng trên ngực bà, đọc một công thức ngắn giống như một lời kinh bằng tiếng lạ, và rồi đập quả trứng ra, từ trong quả trứng có một con rắn nhỏ bò ra. Vài tháng sau, người đàn bà ấy đã tiếp một mụ gypsy trẻ, từ một bộ tộc khác. Mụ ta cũng đã nói hầu như cũng những lời giống như thế: "Thưa bà, bà phải chịu đau khổ bởi vì có người đã bỏ bùa vào bà. Bà phải để cho ai đó cất đi cho. Bà hãy đưa cho tôi một quả trứng sống." Lần này người đàn bà trở lại với chồng mình. Mụ gypsy đặt quả trứng trên ngực bà, đọc một công thức ngắn nghe như đọc kinh, và rồi đập quả trứng ra. Lần này, có một mớ tóc lòi ra.
Một trong các bạn của tôi, một bác sĩ ở Roma, vừa ra khỏi đền thờ Thánh Gioan Latran - nơi luôn luôn có những mụ gypsy xin tiền - khi một gypsy đến gần ông xin tiền. Ông ta lấy ví ra định cho cô ta một đô la, nhưng không có tiền lẻ, nên đành phải cho cô ta tờ 10 đô la. Mụ gypsy nói với ông ta: "Ông đã rất quảng đại với tôi, nên tôi cũng muốn đối xử tốt với ông." Mụ ta đã tiếp tục nói cho ông một số những vấn đề rắc rối thể lý - ông bác sĩ rất là rành về các vấn đề này, nhưng giống như một bác sĩ tiêu biểu, ông ta đã không để ý đến chúng. Mụ ta cũng cảnh báo ông rằng ông là mục tiêu của một cuộc lừa đảo và ông phải chấm dứt nó đi. Tất cả diễn ra đúng vậy.
Chúng ta làm sao cắt nghĩa được những biến cố xảy ra này? Thật không dễ gì. Một số gypsy dường như có những năng lực huyền bí được truyền lại qua các thế hệ. Những loại này là ngoại lệ. Nơi các gypsy yêu thuật được thực hành rộng rãi, như là một hình thức mê tín dị đoan. Họ đã làm như thế qua các thế kỷ và tiếp tục truyền những năng lực từ mẹ đến con gái - luôn luôn chỉ có nữ giới mới thực hành những yêu thuật này.
Mặt khác: luôn luôn có một cơn cám dỗ đối với những nhà đặc sủng, những nhà ngoại cảm, và những nhà trừ quỷ (chúng tôi còn bị cám dỗ hơn những người khác): tức là cơn cám dỗ tìm cách nào chữa bệnh nhanh nhất, bằng cách đi ra ngoài các phương pháp thánh thông thường để đạt được ân sủng và vô tình rơi vào cạm bẫy của ma thuật. Chẳng hạn, chúng tôi bắt đầu thấy rằng nếu dùng một đĩa nhỏ đầy nước, cho vào đó một vài giọt dầu, và đọc lên một vài cái tên, chúng tôi sẽ được một số câu trả lời, và như thế chúng tôi bắt đầu một loạt các trò ma thuật. Tôi đã chứng kiến sự sa vào các trò ma thuật về phía một số người mà may mắn thay họ đã nhận ra cái sai lầm của họ và đã có thể trở lại con đường ngay chính. Bất hạnh thay, không phải mọi người đều có thể làm điều đó. Tôi cũng biết một số linh mục - không phải nhà trừ quỷ - đã dùng một số phương pháp chữa bệnh với ít nhiều thành công, mà không nhận ra rằng mình đang chơi trò ma thuật. Ma quỷ rất ranh mãnh: nó luôn luôn sẵn sàng hứa cho chúng ta vương quốc trần gian này nếu chúng ta quì gối thờ lạy nó!
Tác giả: Lm. Gabriele Amorth
§17 - PHẦN BỊ QUÊN LÃNG CỦA SÁCH NGHI THỨC
Nhiều năm đã trôi qua kể từ khi kết thúc Công Đồng Vaticanô II. Tất cả các phần trong sách nghi thức đã được sửa lại theo những hướng dẫn của Công Đồng. Chỉ có một phần duy nhất vẫn còn bị niêm phong với bảng hiệu "Vấn đề còn đang nghiên cứu", phần này liên quan đến việc trừ quỷ. Thực sự chúng ta có học thuyết của Kinh Thánh, thần học, và quyền giáo huấn của Giáo Hội. Ở một chỗ khác, tôi đã bàn kỹ về một số bản văn của Công Đồng Vaticanô II. Tôi sẽ không nhắc lại ba bài phát biểu của Đức Phaolô VI và mười tám bài của Đức Gioan Phaolô II về chủ đề này. Tôi sẽ tự giới hạn vào một câu trích từ bài của Đức Phaolô VI ban hành ngày 15.11.1972: "Phàm ai chối không nhận có ma quỷ thật thì cũng chối Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo Hội. Cũng là như thế những ai cho rằng thực tại này phát nguồn tự nó chứ không phát xuất từ Thiên Chúa như mọi thụ tạo khác, và bất cứ ai cố gắng cắt nghĩa nó như là thực tại giả hiệu, như là hiện thân có tính tưởng tượng và khái niệm của tất cả mọi nguyên nhân chưa biết của các bệnh tật nơi chúng ta." Sau đó Ngài còn nói thêm: "Chương nói về ma quỷ, và về những ảnh hưởng mà chúng có thể gây nên trên từng cá nhân, các cộng đoàn, trên toàn xã hội hoặc trên các biến cố, là một chương rất quan trọng trong học thuyết của Giáo Hội. Chúng ta cần phải duyệt lại và học tập về nó; bất hạnh thay, ngày nay thực tế nó bị lãng quên."
Ngày nay, đối với nhiều linh mục, những lời của Kinh Thánh, truyền thống, và Huấn quyền về chủ đề này bị rơi vào quên lãng. Đức giám mục Balducci viết rất đúng rằng: "Tốt biết bao nếu quần chúng biết được loại khủng hoảng nào mà ngày nay Giáo Hội đang phải đương đầu, ít là về mặt học thuyết?" (Il diavolo [Piemme], p. 163). Tôi đã nói rằng nhiều trong số các bản viết của tôi là tranh luận với các nhà thần học, các giám mục, và các nhà trừ quỷ. Việc tranh luận không thành vấn đề, nhưng là việc đem sự thật ra ánh sáng. Cơn khủng hoảng này không chỉ về học thuyết; mà còn về cả mục vụ nữa. Tức là, nó liên quan đến các giám mục không chịu bổ nhiệm các nhà trừ quỷ và các linh mục lại chẳng tin vào chức vụ này chút nào nữa. Tôi không có ý vơ đũa cả nắm, nhưng ngày nay ma quỷ hành hạ người ta quá chừng, và khi các nạn nhân đi tìm một nhà trừ quỷ, họ vấp phải cái bảng hiệu thông thường: "Vấn đề còn đang nghiên cứu".
Tôi sẽ bắt đầu với các nhà thần học. Tôi xin nêu ra nhà thần học Luigi Sartori, một vị danh tiếng và đã được trích dẫn. Ông viết: "Có lẽ một số trong các cuộc chữa bệnh của Chúa Giêsu liên quan đến những người bịnh ảnh hưởng bởi những xáo trộn về thần kinh hơn là bởi quỷ ám thực sự." Đây là một lời ám chỉ thuộc loại tồi tệ nhất, và rất sai lầm. Phúc Âm luôn luôn phân biệt giữa việc chữa lành bệnh với việc giải thoát khỏi ma quỷ, cũng như rõ rằng có sự khác nhau giữa quyền năng mà Chúa Giêsu ban cho để chữa bệnh và quyền năng Chúa ban để trừ quỷ. Các thánh ký không thể nêu tên chuyên môn của một số bệnh, nhưng các ngài có đầy đủ khả năng phân biệt khi đụng phải một căn bệnh và khi đụng phải trường hợp quỷ ám. Chính Luigi Sartori chứ không phải các thánh ký là người không thể phân biệt được giữa hai trường hợp đó. Chúng tôi đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng cơ bản rằng trong các hoạt động của Đức Kitô có việc trừ quỷ. Khi bảy mươi hai môn đệ muốn tổng kết lại các kết quả của sứ mạng của họ sau khi họ được Chúa Giêsu sai đi rao giảng cứ hai người một, thì họ hân hoan kể ra một điều, và chỉ một điều thôi: "Lạy Chúa, nhân danh Chúa cả đến ma quỷ cũng phải tùng phục chúng con!" và Chúa Giêsu trả lời: "Thày đã thấy Satan như tia chớp từ trời sa xuống" (Lc 10, l-18). Chúng ta đừng ngạc nhiên rằng Luigi Sartori kết luận bài viết của mình với những lời khẳng định: "Chúa Giêsu, nghệ nhân kỳ diệu đã phô diễn trên hết sức mạnh của tình yêu; Ngài đã xây dựng những mối tương quan cảm thông lẫn nhau; đó là lý do tại sao Ngài đã có thể làm những phép lạ, chứ không phải là vì Ngài sở hữu những quyền năng bí mật thần thiêng như một phù thuỷ" (Famiglia Cristiana, số 19, 10.5.1989). Không, hỡi nhà thần học thân mến, Chúa Giêsu không đi tìm sự cảm thông, và cũng không sở hữu những quyền năng bí mật của một phù thủy. Ngài sở hữu quyền toàn năng của Thiên Chúa, và với những hành động của Ngài, Ngài đã chứng tỏ rằng Ngài là Thiên Chúa. "Sự phân biệt tinh tế nhưng quan trọng này" không còn thấy nơi những thần học gia hiện đại nữa.
Một nhà thần học khác, Luigi Lorenzetti. Một cách hào hiệp ông thừa nhận rằng "người tín hữu không thể nào tuyệt đối phủ nhận rằng trong một số trường hợp xảy ra có một sự liên quan nào đó với ma quỷ"; nhưng ông ta lại thêm ngay rằng: "Thật là khó, đúng hơn là không thể xác định chắc chắn khi nào một sự hiện diện như thế xảy ra trong những trường hợp cụ thể". Nếu điều này là không thể, thì những cuộc giải thoát được Chúa Giêsu thực hiện cũng như những cuộc giải thoát do các tông đồ làm được, cũng không thể tin được. Và tiếp theo là quyền năng trừ quỷ mà Chúa Giêsu đã ban cho Giáo Hội của Ngài cũng vô ích và các qui tắc Giáo Hội hướng dẫn trừ quỷ cũng vô dụng, và các nhà trừ quỷ cũng thế. Không, hỡi nhà thần học thân mến, việc xác định những trường hợp cụ thể có sự hiện diện của ma quỷ là điều không thể đối với bạn và đối với các thần học gia giống như bạn, bởi vì các bạn tuyệt đối chẳng có kinh nghiệm gì trong lãnh vực này. Do đó, các bạn rất dễ dàng đi đến kết luận: "Nói chung, chúng ta không sai lầm nếu chúng ta lấy lối cắt nghĩa theo khoa học tự nhiên thay cho lối cắt nghĩa theo ma thuật quỷ quái" (Famiglia Cristiana, số 39, 5.10.1988). Điều này thì cũng giống như nói rằng tôi tin có ma quỷ trên lý thuyết, bởi vì tôi không muốn bị tố cáo là lạc giáo, nhưng trên bình diện thực tế tôi không tin, vì trên bình diện thực tế, tôi chỉ tin vào khoa học tự nhiên.
Nếu đây là lối suy nghĩ của các thần học gia uy tín, thì các linh mục bình thường có thể tin cái gì? Hàng ngày tôi có thể sờ thấy được những hậu quả của sự không tin này. Đôi khi những thần học gia này đã xếp các cuộc trừ quỷ vào cùng một loại với những sự lường gạt tinh vi do những người muốn làm tiền dễ dàng và nhanh chóng thực hiện trên đám quần chúng nhẹ dạ. Tôi xin kể thí dụ về một vị mục tử ở Palermo, Sicily, cha Salvatore Caione, người đã được trích dẫn trong Famiglia Cristiana (số 6, 8.2.1989). Với đầu đề "Bùa ngải không hiện hữu", ngài đã phê phán mọi thứ là bịp bợm và đặt mọi người trên cùng một bình diện: những người bỏ bùa, những tay bói bài và các nhà trừ quỷ - bất kể những nhà trừ quỷ đã được các giám mục chuẩn nhận theo đúng Giáo luật. Thực ra chắc chắn cũng có nhiều người để cho mình bị lừa; tuy nhiên, (không phải là nhờ những sai lầm ấy mà chúng tôi truyền đạt điều chân thật) việc chúng tôi giảng dạy chân lý thì không thể lầm lạc được. Đó là những điều tinh tế vuột khỏi tầm nhìn của cha Salvatore và của những người phổ biến ý kiến của cha mà không để ý đến những sai lầm lớn lao bên trong.
Khi chúng ta lầm lẫn giữa cái sai và cái đúng, kết quả mang lại thật tai hại. Các nhà trừ quỷ thì ít ỏi và, do đó, người ta chạy đến hàng ngũ đông đảo các thày phù thủy. Người tín hữu chẳng được ai dạy bảo. Tôi đã trừ quỷ cho một nữ tu đang ở trong tình trạng đáng thương như là hậu quả quỷ ám mà suốt mười năm chị ta cứ yếu đi dần dần. Tôi đã gọi bà bề trên cả và bảo bà rằng bà không nên chờ đợi cho tới khi bệnh nhân gần chết mới đi gọi bác sĩ; bà nên cho gọi bác sĩ ngay lúc bắt đầu cơn bệnh. Bà bề trên trả lời: "Cha nói đúng, nhưng những điều này đã chẳng có linh mục nào dạy chúng tôi." Bà cũng kể cho tôi bao nhiêu linh mục - không kể các bác sĩ - đã gặp chị nữ tu đó mà không hề có một người nào đã gợi ý rằng nguyên nhân đích thực của một căn bệnh mà các cách điều trị thông thường đều bó tay, thì có thể có nguồn gốc do ma quỷ.
Thực ra trong các bài viết của tôi cũng đã phê bình các nhà trừ quỷ. Tôi đã nói rằng "chúng ta bị thất truyền" rồi, nghĩa là nơi các giáo phận, không còn thấy truyền thống đào tạo những nhà trừ quỷ cho thế hệ kế thừa nữa. Do đó, thường xảy ra là một số nhà trừ quỷ không biết đến những diễn tiến sơ đẳng nhất. Tôi đã trách cứ Đức Ông Giuseppe Rutta, kinh sĩ nhà thờ chính toà và là nhà điều phối các nhà trừ quỷ ở Turin, Italy. Franca Zambonini đã phỏng vấn ngài nhân danh báo Famiglia Cristiana (30.3.1988), như đã được gợi ý bởi Đức Hồng Y Ballestrero. Rutta đã khẳng định rằng "sự quỷ ám bị giới hạn trong thời gian và chỉ kéo dài chừng một vài giờ hay một vài ngày." Câu trả lời ngây thơ này bộc lộ tất cả sự thiếu kinh nghiệm sơ đẳng nhất. Thực ra, ngài tiếp tục bằng cách nói rằng hết những ai đã đến với ngài "chẳng bao giờ biểu lộ bất cứ dấu hiệu nào đòi phải trừ quỷ". Chính tôi, trong chín năm làm việc cật lực (nhiều đến nỗi tôi đã phải bắt buộc cắt bớt gánh nặng của tôi), tôi đã trừ quỷ cho trên ba mươi ngàn người và tôi đã ghi tên mỗi người đã bị quỷ ám: có khoảng chín mươi ba người đã bị ám xấp xỉ mười năm. Có những người đã trải qua những cuộc trừ quỷ cách khoảng đều đặn trên những thời kỳ mười, mười lăm năm hay hơn nữa, mà họ vẫn không được giải thoát.
Tôi cũng đã mạnh mẽ phê bình Đức Ông Giuseppe Vignini, linh mục xá giải nhà thờ chính toà Florence, vì bốn bài báo mà ngài đã đăng trên tờ Toscana oggi (tháng 10 và 11.1988). Khi một nhà trừ quỷ viết rằng ma thuật, lễ misa đen, việc bỏ bùa... chẳng là gì khác hơn là "những việc bày tạo vô thưởng vô phạt, phát sinh từ trí tưởng tượng gợi lên"; khi ngài quả quyết rằng việc trừ quỷ không phải là bí tích nhưng chỉ đơn giản là một sự cầu khẩn, vì không biết rằng đó là một á bí tích, khi ngài kết luận những tư tưởng ẩu tả của ngài với lời phát biểu rằng: thực ra, các việc trừ quỷ không nên thực hiện bao giờ. Vậy thì tôi phải nói cho ngài với hết lòng cung kính rằng "Con thân mến, con đi học lại nghề của con đi hoặc là con nên đổi nghề đi."
Tôi biết một số nhà trừ quỷ thậm chí chẳng có lấy một cuốn Nghi thức; họ không hề biết những qui tắc mà họ phải theo cũng như những kinh nguyện phải đọc. Họ chỉ biết bản dịch - (không hoàn chỉnh) - bằng tiếng Ý bản kinh trừ quỷ của Đức Lêô XIII và chỉ đọc mỗi kinh ấy. Báo chí thế giới đã công khai đăng tải trường hợp cô Annelise Michel, ở thành phố Klingenberg, Germany. Cô là một cô gái hai mươi bốn tuổi, đã chết vào mùa hè năm 1986 sau một loạt các cuộc trừ quỷ. Vấn đề thành chuyện bởi vì hai nhà trừ quỷ đã bị truy tố và phải ra hầu toà. Dữ liệu đã được đăng tải trong các tạp chí và các sách vở khác (như cuốn Diavoli demoni possession của Kasper và Lehmann [Queriniana, 1983]) nói bóng gió rằng cả hai linh mục liên quan đã quá vội vã nghi ngờ có sự hiện diện quỷ ám. Dường như hai nhà trừ quỷ này - mặc dù luôn thực hiện dưới sự đồng ý và sự hiện diện của cha mẹ cô gái - đã để mình bị điều khiển bởi những điều mà chính cô gái nói là nên làm, để mang lại lợi ích cho cuộc giải thoát.
Tuy nhiên, một cuốn sách về sau đã nghiên cứu các sự kiện của trường hợp này sâu xa hơn: cuốn Annelise Michel, của tác giả Kasper Bullinger (Altotting: Ruhland, 1983). Cuốn sách này nghiên cứu trường hợp và đã kết thúc bằng việc giải oan hoàn toàn cho hai nhà trừ quỷ. Nó chứng minh rằng cả vị giám mục, người đã ban phép trừ quỷ và hai linh mục đã hành động một cách hết sức đúng đắn. Cuốn sách cũng chỉ ra nguyên nhân cái chết của cô gái, hoàn toàn không do sự cử hành và lãnh nhận á bí tích. Dù sao biến cố này cũng góp phần khiến cho các linh mục trở nên miễn cưỡng chấp nhận nhiệm vụ làm nhà trừ quỷ.
Cuối cùng, tôi nói đến các giám mục. Thực sự tôi rất buồn các ngài, bởi vì tôi yêu mến các ngài và muốn phần rỗi cho các ngài. Bản Giáo luật không nói đến lỗi "quên sót trong chức vụ"; nhưng đoạn Phúc Âm về ngày chung thẩm, của thánh Matthêu đoạn 25, cho chúng ta một chỉ định rõ ràng rằng tội quên sót có thể là một lỗi phạm không thể tha thứ.
Trong trí tôi vẫn còn in đậm câu phát biểu của một Đức Tổng Giám mục danh tiếng vào ngày 25.11.1988, trong lúc ngài đang là khách được mời trong một chương trình truyền hình rất nổi tiếng, do ông Zavoli làm chủ toạ. Đức Tổng Giám mục này đã xuất hiện để huyênh hoang rằng ngài chưa bao giờ làm việc trừ quỷ và cũng chưa bao giờ bổ nhiệm ai làm nhà trừ quỷ. May mắn thay, cha đáng kính Formigoni, là thành viên của phong trào Comunione e Liberazione, cũng có mặt trên chương trình, và ngài đã trình bày quan điểm Kitô giáo. Sau đó tôi đã ghi lại toàn thể các loạt bài bình luận của các giám mục, những vị - dù không có ý vơ đũa cả nắm - chẳng làm vẻ vang cho hàng ngũ giám mục Ý. Những câu như thế đã được thuật lại cho tôi từ khắp nước Ý, sau đó tôi đã chuyển chúng đến các vị giám mục của chúng trước khi tôi định với các ngài một cuộc hẹn. Tôi sẽ kể ra những lời bình thông thường nhất: "Tôi không bổ nhiệm các nhà trừ quỷ, đó là vấn đề nguyên tắc." "Tôi chỉ tin vào khoa tâm lý học." "Bạn vẫn còn tin vào những chuyện như thế sao? "Tôi chẳng tìm được bất cứ một linh mục nào sẵn lòng chấp nhận bổn phận này. Ông hãy đi nơi khác mà tìm." "Tôi không bổ nhiệm các nhà trừ quỷ và cũng không làm việc trừ quỷ bởi vì tôi sợ. Nếu ma quỷ trở thành kẻ thù của tôi, tôi sẽ làm gì đây?" "Tôi muốn biết kẻ nào đã đặt điều ngu ngốc ấy vào đầu óc bạn." Tôi có thể kể ra nhiều nữa. Mỗi một câu trả lời như trên đã gây ra bao đau khổ cho người nhận nó, và tôi tự hỏi liệu nó có thể hiện cùng một nỗi đau nơi người nói ra nó không. Phần lớn những cá nhân này đến gặp vị giám mục sau khi đã được cha Candido trừ quỷ cho và cha Candido đã cảnh báo rằng họ cần có thêm những cuộc trừ quỷ. Tức là, các nạn nhân đã tiếp cận với các giám mục của họ, được trang bị với sự chẩn đoán của một nhà trừ quỷ tài ba và rất nổi tiếng.
Tôi không có ý vơ đũa cả nắm. Tôi trở thành nhà trừ quỷ là nhờ vào sự nhạy bén và sáng kiến của đức hồng y Poletti. Tôi tin rằng mỗi nhà trừ quỷ sẽ chứng tỏ nhân danh vị giám mục của mình với cùng một lòng biết ơn như thế. Tuy nhiên, sự khan hiếm các nhà trừ quỷ rõ ràng chứng tỏ một sự thiếu quan tâm về phía các giám mục nói chung.
Nếu tôi đề cập đến các quốc gia Âu châu khác, bức tranh còn tệ hơn ở Ý nữa. Tôi đã trừ quỷ cho nhiều người từ Đức, Áo, Pháp, Thụy Sỹ, Anh và Tây Ban Nha. Tất cả những người này đã đến vì nghe danh Cha Candido và cuối cùng đã được mãn nguyện với học trò của ngài (là chính tôi). Tất cả những người này đã làm chứng rằng họ không thể tìm được một nhà trừ quỷ trong nước họ. Một người Thuỵ sĩ đã quả quyết với tôi rằng ông đã gọi cho mọi giám mục trong nước này và đã chẳng nhận được gì khác ngoài những câu trả lời tiêu cực. Tôi không có ý nói rằng không có những nhà trừ quỷ trong các quốc gia này, nhưng rất khó mà tìm thấy họ. Phải sang mãi tận Roma chỉ để được trừ quỷ thì chẳng vui tí nào.
Tôi xin lập lại lời phát biểu của tôi là các tình trạng ở ngoại quốc thì tồi hơn ở Ý. Tôi sẽ cho một thí dụ tiêu biểu. Các người đồng tu với tôi ở Hoa kỳ (Hội Thánh Phaolô) đã muốn dịch sang Anh ngữ cuốn II diavolo của Balduci. Cuối cùng họ đã xin được Imprimatur (phép in) sau khi họ đã đồng ý loại bỏ hết những bài về chuyện quỷ ám, theo yêu cầu đặc biệt của kiểm duyệt viên giáo phận. Đây là một sai lầm thông dụng: chúng ta không chối sự hiện diện của ma quỷ trên lý thuyết, bởi vì chúng ta không muốn bị coi là lạc giáo, nhưng chúng ta sẽ quyết liệt chối bỏ điều đó khi chúng ta đối diện với những thí dụ cụ thể.
Mặt khác, một số giáo phái Tin lành không theo lối xử lý này. Ngay cả ở Roma cũng có một số giáo phái xem xét vấn đề một cách hết sức nghiêm chỉnh. Họ điều tra một biến cố xảy ra, và sau tiến trình phân biệt, họ thấy rõ ràng hoạt động của ma quỷ, họ trừ quỷ một cách hiệu nghiệm, nhiều lần tôi đã có thể đích thân chứng kiến. Điều hiển nhiên là không chỉ có người Công Giáo nhưng mọi người tin Chúa Kitô đều có thể nhân danh Ngài mà trừ quỷ. Chúng ta không được ghen với bất cứ ai, nhưng nên tìm sự hướng dẫn trong Phúc Âm. Khi Thánh Gioan nói với Chúa Giêsu: "Chúng con đã thấy một người trừ quỷ nhân danh Thày, và chúng con đã cấm họ vì họ không theo chúng ta", Chúa Giêsu đã khiển trách các tông đồ (Mc 9,38-40).
Đây là điều mà các thành viên của phong trào canh tân đặc sủng khám phá ra khi họ khởi sự con đường "Cầu nguyện giải thoát". Những lời cầu nguyện này phải được hướng dẫn bởi những qui luật chính xác, nhưng chúng thật hết sức hiệu nghiệm: Đức Hồng Y Suenens đã viết một cuốn sách đặc biệt để điều chỉnh những cách cầu nguyện như thế: Renewal and the Power of Darkness (nhà xuất bản Pauline, 1982), với lời nói đầu của Đức Hồng y Ratzinger. Ngài viết: "Ngay từ ban đầu, nhiều người Công Giáo liên kết với phong trào Canh tân đã khám phá việc thực hành giải thoát nơi những người Kitô hữu thuộc các truyền thống khác, chủ yếu thuộc về các giáo hội Giải phóng hoặc Ngũ Tuần. Những cuốn sách mà họ đọc, và vẫn còn đọc, phần lớn phát xuất từ những giáo phái này. Trong văn chương của họ có một lượng thông tin rất phong phú về ma quỷ và các người cộng sự của chúng, về ma thuật và phương pháp của nó... Trong Giáo Hội Công Giáo, lãnh vực này hầu như bị bỏ hoang. Những chỉ dẫn của chúng tôi để đáp ứng việc mục vụ đặc biệt không còn thích hợp trong thời đại chúng ta nữa" (pp.79-80).
Đây là một lời phàn nàn mà tôi sẽ nói đến trong chương kế tiếp; ở đây, tôi muốn nhấn mạnh rằng việc học hỏi từ những người theo sát những lời khuyên Phúc Âm là rất chính đáng. Trong khía cạnh này, cũng như trong sự nghiên cứu và phổ biến Kinh Thánh, bên Công Giáo đã chậm chạp hơn bên các giáo phái Tin lành. Tôi không bao giờ chán lặp lại điều này: chủ nghĩa duy lý và duy vật đã làm hư một phân bộ các nhà thần học, và ảnh hưởng của họ trên các giám mục và các linh mục đã khá sâu đậm. Chính dân Thiên Chúa phải trả lẽ cho những sai lầm này. Tôi biết Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã làm ít nhất hai cuộc trừ quỷ. Tôi sẽ sung sướng nếu có ai đó cung cấp cho tôi những thông tin thêm nữa.
Tôi công khai thừa nhận rằng một trong những mục đích của cuốn sách này là góp phần tái lập công tác mục vụ trừ quỷ trong Giáo Hội Công Giáo. Đây là một lệnh truyền chính xác của Chúa chúng ta, và sự kiện nó không được theo đuổi là một thiếu sót không thể tha thứ được.
o0o
PHỤ CHƯƠNG
Tư tưởng của Thánh Irênê
Tôi thuật lại tư tưởng của một trong những nhà thần học cổ thời hơn, thánh Irênê, kể cho một số nhà thần học tân thời có thể học hỏi từ đó. Tôi trích dịch từ nguyệt san Il segno soprannaturale, tháng 9.1989, được hiệu đính bởi một giáo sư vĩ đại dưới bút hiệu Alpe.
Thánh Irênê sinh khoảng năm 140 sau công nguyên tại Tiểu Á. Ngài là giám mục thành Lyon và đã thành lập Giáo Hội Gallic. Ngài qua đời khoảng năm 202, có thể tử vì đạo. Tác phẩm căn bản của ngài là Adversus haereses (chống lại lạc giáo), trong đó ngài hoàn toàn chống lại những luận đề của phái ngộ đạo. Phái ngộ đạo chủ trương rằng thế giới được sáng tạo bởi một ác thần. Irênê biện bác rằng Đấng sáng tạo đích thực là Ngôi Lời - tức là Lời của Thiên Chúa tốt lành. Các thiên thần là một phần của vũ trụ mà Thiên Chúa đã tạo thành. Ma quỷ, cũng giống như các thiên thần khác, cũng là sự thiện được tạo thành; tuy nhiên, một cách cố hữu và đời đời hắn đã là một thụ tạo và như thế là thấp kém hơn và phụ thuộc vào Thiên Chúa. Ma quỷ đã phản bội và do đó đã bị loại ra khỏi thiên đàng. Đó là lý do tại sao Satan là tên bội giáo tiêu biểu, và cũng là tên lừa đảo của vũ trụ, hắn "muốn lừa dối trí khôn chúng ta, làm tâm hồn chúng ta ra tối tăm, và cố gắng thuyết phục chúng ta tôn thờ hắn hơn Thiên Chúa". Các quyền lực của hắn có giới hạn bởi vì hắn chỉ là kẻ cướp quyền bính mà về cơ bản và hợp pháp chỉ thuộc về Thiên Chúa, và "hắn không thể bắt buộc chúng ta phạm tội."
Thánh Irênê tiếp tục: Satan đã đánh mất ân sủng thiên thần bởi vì hắn ghen tức với Thiên Chúa, "muốn tự tôn thờ chính mình". Hắn cũng ghen tức với loài người, bởi vì loài người là hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Sự ghen tức của hắn chủ yếu tập trung chống lại chúng ta. Đây là lẽ tại sao hắn đã vào vườn Eden với chủ tâm đồi bại muốn phá hoại tổ tông chúng ta. Irênê cũng là thần học gia Kitô giáo đầu tiên phân tích kỹ lưỡng - cuối cùng là phát triển lên - một lý thuyết về tội nguyên tổ. Thiên Chúa đã tạo dựng Adam và Evà và đặt họ trong vườn địa đàng để họ sống hạnh phúc, trong tương quan mật thiết với Ngài. Satan, khi biết điểm yếu của họ, đã vào vườn địa đàng và cám dỗ họ dưới hình dạng con rắn.
Sự độc ác của Satan có thể đã chẳng có tác dụng gì nếu như Thiên Chúa đã không ban cho loài người cái tự do chọn lựa giữa sự thiện và sự ác. Satan "đã không bắt buộc được" người nam đầu tiên và người nữ đầu tiên phạm tội; "họ đã tự do chọn lựa điều đó, bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng họ một cách đặc biệt với tặng ân vĩ đại nhất là sự tự do chọn lựa. Satan chỉ là một tên cám dỗ, nhưng cũng là một tên cám dỗ thực sự và ngoan cố, bởi vì hắn ghen tức với tình trạng nguyên thuỷ của tổ tông chúng ta."
Qua sự chọn lựa của Adam và Evà, tất cả nhân loại đã tham phần vào tội lỗi của hai ông bà, và từ lúc ấy chúng ta đã tự trở thành nô lệ cho ma quỷ. Tệ hơn nữa, chúng ta bất lực trong việc tự giải thoát khỏi nó qua sự chọn lựa của chính chúng ta. Khi đã lụy thuộc Satan, chúng ta đã làm méo mó hình ảnh và sự nên giống Thiên Chúa mà chúng ta đã có và tự nên án tử cho chính mình. Hạnh phúc của vườn địa đàng đã bị tan nát. Vì chúng ta đã quay lưng lại với Thiên Chúa do ý muốn tự do của riêng chúng ta, nên chúng ta đã tự đạt mình vào tay Satan. Cũng vì thế mà Satan đã cầm buộc chúng ta dưới quyền lực của nó cho tới khi chúng ta được cứu chuộc. "Nói cho đúng ra, trên phương diện đức công bình, Thiên Chúa có thể đã để chúng ta trong tay Satan vĩnh viễn. Tuy nhiên, do lòng thương xót, Ngài đã sai con của Ngài đến cứu chuộc chúng ta." Hành vi cứu độ của Đức Kitô bắt đầu với việc Satan cám dỗ Adam thứ hai (Chúa Giêsu), như một "sự thâu tóm lại" cơn cám dỗ của Adam thứ nhất. Lần này Satan thất bại và dứt khoát bị Đức Kitô đánh bại. Truyền thống Kitô giáo cho chúng ta ba lối giải thích chính về hành vi cứu độ qua cuộc tử nạn của Đức Kitô.
1. Lối giải thích thứ nhất: bản tính nhân loại đã được thánh hoá, được nâng cao, được biến đổi, và được cứu chuộc bởi việc Đức Kitô hóa thân thành con người.
2. Lối giải thích thứ hai: Đức Kitô đã nên hy lễ dâng lên Thiên Chúa để giao hoà giữa con người và Thiên Chúa.
3. Lối giải thích thứ ba: Lý thuyết cứu chuộc. Thánh Irênê là người đầu tiên bênh vực lý thuyết này, dựa trên giả thuyết sau đây: "Vì Satan cầm buộc dòng dõi nhân loại cách hợp pháp, nên Thiên Chúa phải chuộc lại sự tự do cho chúng ta với giá là chính Ngài. Chỉ Ngài có thể ra giá. Chỉ Thiên Chúa mới có thể tự do chinh phục chính mình; không ai khác có thể tự do chọn lựa, bởi vì tội nguyên tổ của chúng ta đã tước hết quyền tự do của chúng ta. Thiên Chúa Cha đã nộp con mình là Chúa Giêsu Kitô, để giải phóng chúng ta, những tù nhân của ma quỷ. Những đau khổ của Đức Kitô đã làm tê liệt ma quỷ, giải thoát chúng ta khỏi cái chết và án phạt."
Lý thuyết hy sinh, là một lý thuyết chính yếu khác vào thời thánh Irênê. Chủ trương rằng Đức Kitô, đồng thời vừa là Thiên Chúa vừa là con người, đã mang trên mình Ngài tất cả tội lỗi của nhân loại và của ý chí tự do riêng Ngài, Ngài đã tự nộp mình để chịu chết, do đó, đã trả cho Thiên Chúa một cái giá thích đáng. Lý thuyết cứu chuộc, mặc dù đôi khi nó được diễn tả một cách sơ sài, đã phản ánh sự nhấn mạnh rằng các giáo phụ đã dựa trên cuộc chiến vũ trụ giữa Đức Kitô và Satan. Lý thuyết này nói chung phù hợp hơn với những giả thuyết nhị nguyên ôn hoà của Kitô giáo thời sơ khai. Theo thánh Irênê, Đức Kitô là Adam thứ hai, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi xiềng xích tử thần đã ràng buộc chúng ta như hậu quả của sự yếu đuối của Adam thứ nhất. Khái niệm "thâu tóm" (Đức Kitô Adam thứ hai tránh được tổn thất do Adam thứ nhất gây ra) đã nắm ở tâm điểm khoa Kitô học của thánh Irênê: "Satan, bị Đức Kitô đánh bại, tiếp tục cản trở sự cứu độ của chúng ta bằng tất cả năng lực của nó. Nó xúi dục kẻ ngoại, kẻ thờ ngẫu tượng, phù thuỷ, những kẻ ác ôn và đặc biệt kẻ lạc giáo và bội giáo. Những kẻ lạc giáo và ly giáo không đi theo Giáo Hội đích thực là những phần tử của đạo binh Satan. Họ là nhân viên của hắn trong cuộc chiến vũ trụ chống lại Đức Kitô.
Thánh Irênê chủ trương rằng tường thành bảo vệ các Kitô hữu chống lại ma quỷ là Đức Kitô. Ma quỷ chạy trốn khi các Kitô hữu đọc kinh cầu nguyện và kêu danh thánh Đức Kitô. Tuy nhiên, trận chiến chưa kết thúc, bởi vì ma quỷ sẽ tiếp tục thử thách tất cả mọi người đã được rửa tội, với phép của Đấng sáng tạo. Phép này được ban "để công phạt họ vì tội lỗi của họ, đúng hơn để thanh tẩy họ, và để dạy họ đức bác ái huynh đệ" biết giúp đỡ lẫn nhau trong nhu cầu thiêng liêng với lợi ích hỗ tương và bền bỉ; nhưng trên hết là giữ cho họ "luôn luôn tỉnh thức và vững mạnh trong đức tin."
o0o
Một tài liệu của Vatican về học thuyết ma quỷ.
Các bạn đừng nghĩ rằng chỉ có tôi mới là người ghi nhận những sai lầm to lớn của một số nhà thần học. Dường như nhiều người trong số những nhà thần học này đã nhìn nhận Rudolf Bulmann như một vị tân giáo phụ. Bultmann, trong số những người khác, đã viết: "Chúng ta không thể dùng ánh sáng điện hoặc Radio, hoặc chạy lại với y học hiện đại trong vấn đề bệnh tật, và đồng thời lại tin vào một thế giới tinh thần và vào những phép lạ mà Tân Ước trình bày cho chúng ta." (Nuovo Testamento e Mitologia [Queriniana 1969] p.100). Việc cho rằng những tiến bộ kỹ thuật là bằng chứng hiển nhiên cho thấy lời Thiên Chúa đã lỗi thời, chỉ ra một sự thiếu khả năng suy nghĩ. Nhiều nhà nghiên cứu Kinh Thánh và thần học tin rằng họ "không hợp thời" nếu họ không đi theo những chỉ dẫn này. Trong cuốn sách nói trên, Lehmann kể ra một thống kê rất thú vị về các thần học gia Công Giáo: hai phần ba trong số họ chấp nhận giáo lý truyền thống về ma quỷ - trên lý thuyết - nhưng họ bài bác những giáo huấn này trong thực hành, trên bình diện mục vụ. Tức là, họ không muốn chính thức đối lập với Giáo Hội, nhưng thực tế họ không chấp nhận giáo huấn của Giáo Hội (p.115). Một thống kê khác cũng hay: các thần học gia Công Giáo đã tỏ ra một sự hiểu biết rất hời hợt về quỷ ám và việc trừ quỷ (p. 27). Đây đã là chủ trương xuyên suốt của tôi.
Thánh bộ Giáo Lý Đức Tin biết rất rõ về tình trạng này và đã ủy thác cho một chuyên gia nghiên cứu vấn đề. Các kết quả đã được công bố trên ấn bản tiếng Ý của tờ Osservatore Romano 26.6.1985, với tựa đề "Fede Cristiana e demonologia" (Đức tin và khoa ma quỷ học). Rồi bài báo này về sau đã trở nên một phần trong các tài liệu chính thức của Tòa Thánh (Enchiridion Vaticanum, tập 5 số 38). Tôi sẽ trích một số phần của nó. Mục đích chính là để giáo dục các tín hữu, và hơn nữa các nhà thần học lầm lạc hay lẩn tránh bàn đến sự hiện hữu của Satan trong các bài nghiên cứu giảng dạy của họ, bất chấp "lý do con Thiên Chúa xuất hiện là để phá hủy các công việc của ma quỷ" (1Ga 3,8). Bằng việc bỏ qua sự hiện hữu của Satan, chúng ta làm lu mờ ơn cứu chuộc; kẻ nào không tin có ma quỷ, cũng không tin vào Phúc Âm.
Qua các thế kỷ, Giáo Hội đã luôn luôn trừng trị các hình thức mê tín dị đoan khác nhau, sự bận tâm thái quá với Satan và ma quỷ, những hình thức thờ cúng khác nhau, và sự dính bén đến độ ám ảnh vào các thần linh này. Do đó, sẽ không đúng khi cho rằng Kitô giáo quên mất quyền thống trị phổ quát của Đức Kitô, đã biến Satan thành luận chứng qui chiếu cho việc rao giảng của mình, biến Tin Mừng Chúa Phục sinh thành sứ điệp sợ hãi. Tuy nhiên, trong thực tế, thật là một sai lầm chết người vì hành xử cứ như thể chúng ta tin rằng lịch sử đã giải quyết xong xuôi, sự cứu chuộc đã đạt đến mục tiêu viên mãn của nó, và không còn cần tham gia vào cuộc chiến đã được nói đến trong Tân Ước bởi các nhà rao giảng đường thiêng liêng.
Tuy nhiên, thường có hơn, sự hiện hữu của Satan đã bị công khai phủ nhận bởi những người hồ nghi. Có một số nhà phê bình, vì tin rằng họ có thể đồng hoá vị trí của họ với vị trí của Đức Kitô, đã khẳng định rằng Ngài không bao giờ đã nói những lời bảo đảm sự hiện hữu của thế giới ma quỷ. Họ giải thích rằng bất cứ lời khẳng định nào về sự hiện hữu của Satan cũng chỉ phản ánh những ý tưởng của các bản văn của Giuđa, hoặc chỉ là một truyền thống Tân Ước chứ không phải lời khẳng định của Đức Kitô. Do đó, vì truyền thống này không phải là thành phần của sứ điệp trung tâm Phúc Âm, nên không buộc tin, và chúng ta được tự do bỏ đi.
Những nhà thần học khác, khách quan hơn và có căn bản hơn, chấp nhận những lời trong Kinh Thánh về ma quỷ y như ý nghĩa hiển nhiên của nó. Tuy nhiên, họ lại vội thêm rằng, trong thế giới ngày nay, những lời này là không thể chấp nhận được, ngay cả đối với các Kitô hữu, do đó, họ cũng loại bỏ chúng. Cuối cùng, một số người tin rằng ý tưởng về Satan, bất kể nguồn gốc thế nào, cũng không còn quan trọng nữa, và nếu chúng ta cứ kiên trì làm rõ vấn đề, thì các giáo huấn của chúng ta sẽ mất đi tính khả tín và sẽ che khuất sự tập trung của chúng ta vào Thiên Chúa là Đấng đáng chú ý duy nhất.
Sau hết, tất cả những điều trên chủ trương rằng danh xưng Satan và ma quỷ không là gì khác hơn là sự hiện thân thực dụng và hoang đường mà mục đích của chúng chỉ là để nhấn mạnh một cách ấn tượng ảnh hưởng của sự dữ và tội lỗi trên nhân loại, do đó, nó chỉ đơn giản là một cách nói, và thời đại tân tiến của chúng ta cần giải thích lại nó để tìm một đường lối khác để dạy cho các Kitô hữu bổn phận chiến đấu chống lại tất cả các lực lượng sự dữ trên thế giới.
Những quan điểm này được trình bày với một màn trình diễn uyên thâm bởi các tạp chí và một số tự điển thần học. Nó rất đáng quan tâm. Người tín hữu quen giữ những lời cảnh báo của Đức Kitô và các bản văn của các tông đồ một cách nghiêm chỉnh. Những người thông thạo khoa Kinh Thánh không thể không nhận ra rằng họ phải đối phó với mặt trận làm thay đổi quan điểm quần chúng và sẽ tự hỏi tiến trình giải huyền (demythologizing), đã bắt đầu nhân danh khoa chú giải (hermeneutic), sẽ dẫn họ đi đến đâu.
Việc chữa người bị quỷ ám được chính Đức Kitô thực hiện đã diễn ra vào những dịp mà về sau đã chứng minh là có tính quyết định trong trình thuật về sứ vụ của Ngài. Những cuộc trừ quỷ của Ngài đã trình bày và đã hướng đưa vấn đề về sứ mạng Ngài và Ngôi vị Ngài, như là hiển nhiên khỏi những phản ứng mà những cuộc trừ quỷ đó gây nên. Chúa Giêsu không bao giờ đặt Satan ở trung tâm của Phúc Âm, nhưng Ngài đã nói về nó với những tuyên bố quan trọng vào những lúc rất quan trọng.
Trước hết, Ngài đã bắt đầu sứ mạng của Ngài bằng việc chấp nhận để bị ma quỷ cám dỗ trong sa mạc. Trình thuật đúng đắn của Marcô về biến cố này cũng dứt khoát như sự mô tả của Matthêu và của Luca. Rồi Chúa Giêsu đã cảnh giác chúng ta chống lại đối thủ này trong bài giảng trên núi và trong lời kinh mà Ngài đã dạy cho các môn đệ Ngài, kinh Lạy Cha; về điểm này nhiều học giả Kinh Thánh - được sự hỗ trợ bởi những thực hành phụng vụ - đồng ý. Sách Khải Huyền, hơn mọi sách, là một bức tranh hoành tráng qua đó uy quyền của Đức Kitô phục sinh chiếu sáng rực rỡ theo các chứng nhân của Phúc Âm của Ngài. Sách Khải Huyền công bố cuộc chiến thắng khải hoàn của con chiên bị giết, nhưng chúng ta sẽ tự lừa dối mình hoàn toàn về bản tính của chiến thắng này nếu chúng ta không nhìn thấy trong đó sự kết thúc của cuộc chiến lâu dài. Một cuộc chiến bao gồm Satan, các thần của nó, và các nhân vật lịch sử của chúng, cả cá nhân lẫn sự can thiệp của những lực lượng nhân loại đối lập với Chúa Giêsu. Thực ra, chính sách Khải huyền cuối cùng đã lột trần căn tính của Satan bằng việc tiết lộ những điều bí ẩn nơi nhiều danh xưng và những biểu tượng trong suốt bộ Kinh Thánh. Hành động của ma quỷ diễn ra qua các thế kỷ của lịch sử nhân loại, dưới mắt Thiên Chúa. Hiển nhiên là phần đông các giáo phụ, bắt đầu với Origênê, đã bỏ cái ý tưởng là các thần sa ngã đã phạm tội xác thịt và đã nhìn thấy căn nguyên các cuộc sa ngã của họ ở trong sự kiêu ngạo của họ - tức là, trong ước muốn của họ muốn nâng mình lên trên chỗ đứng của mình, để khẳng định sự độc lập của mình, và muốn được coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Tiếp theo sự kiêu hãnh, nhiều giáo phụ đã nhấn mạnh đến sự ác độc của Satan chống lại loài người. Theo thánh Irênê, sự phản bội của Satan bắt đầu khi nó đã trở nên ghen tương về sự sáng tạo loài người và cố gắng làm cho con người khởi loạn chống lại Đấng sáng tạo nên mình. Tertulianô nói rằng Satan nỗ lực chống lại kế hoạch của Thiên Chúa bằng cách ăn cắp sáng kiến các bí tích được Chúa Kitô thiết lập để lập ra những huyền tích ma thuật. Do đó, những giáo huấn của các giáo phụ làm vang lên một cách mạnh mẽ và trung thành chiều kích đức tin và đường hướng của Tân Ước.
Tác giả: Lm. Gabriele Amorth
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks