§8 - CÁC PHÉP ĐẦU TIÊN

Với những "bệnh nhân" này, nên dùng uyển ngữ (euphmistic: nói trại ra) có thể ích lợi hơn. Do đó, chúng tôi luôn luôn gọi việc trừ quỷ là "làm phép". Sự hiện diện của ma quỷ, một khi đã được xác nhận, thì được gọi là "sự tiêu cực". Cũng có lợi hơn khi đọc các kinh bằng tiếng Latinh. Tất cả điều này là để tránh dùng những từ gây sợ hãi và do đó khó đạt được những điều mong muốn. Có những người có nỗi ám ảnh là bị quỷ ám; trong những trường hợp này, chúng ta có thể hầu như chắc chắn là họ không bị. Trước một số người trong tình trạng trí khôn bối rối, việc trừ quỷ cho anh ta, khiến anh ta có thể tin chắc mình bị quỷ ám, và sẽ không có ai bao giờ có thể thuyết phục anh ta cách khác. Khi tôi vẫn chưa biết rõ một người, tôi chỉ nhấn mạnh rằng tôi làm phép cho người ấy, ngay cả khi tôi đang thực hành một việc trừ quỷ; đôi khi, tôi chỉ đơn giản là ban phép lành cho bệnh nhân theo sách nghi thức.

Các phép đầy đủ bao gồm nhiều kinh khởi dẫn, tiếp theo sau là ba lần trừ quỷ thực sự. Chúng khác nhau, bổ sung cho nhau và đi theo một trình tự hợp lý trước khi đến sự giải thoát. Cho dù chúng được soạn ra vào năm 1614 thì cũng ít thành vấn đề. Thực sự đó là kết quả của một kinh nghiệm lâu dài và trực tiếp. Alcuinus, người đã viết nên chúng, đã kiểm tra rất kỹ, cân nhắc từng câu rất cẩn thận đối với ảnh hưởng mà chúng có trên việc quỷ ám. Có một vài thiếu sót rất nhỏ Cha Candido và tôi sửa đã chữa lại. Chẳng hạn, trong đó không đề cập đến Đức Maria. Chúng tôi đã thêm điều này vào cả ba lần trừ quỷ, bằng cách dùng những từ mà Đức Thánh Cha Lêo XIII đã dùng để trừ quỷ. Vì những cách trừ quỷ của Alcuinus có từ hồi thế kỷ thứ chín và thứ mười, nên những thiếu sót này là có thể hiểu được.

Tôi đã nói rằng một việc trừ quỷ có thể kéo dài vài phút hay nhiều giờ. Lần đầu mới trừ quỷ cho một ai đó, cho dù chúng tôi nhận ra mình đang đương đầu với một sự "tiêu cực", thì tốt hơn là làm vắn tắt. Thường thường giới hạn trong một vài kinh khởi đầu và làm một trong ba lần trừ quỷ; tôi thường chọn lần thứ nhất bởi vì nó trình bày cơ hội xức dầu. Dù sách nghi thức không đề cập đến điều này - cũng như nó không đề cập đến nhiều điều khác - thì kinh nghiệm dạy chúng tôi biết rằng dùng dầu dự tòng trong khi đọc: "Sit nominis ti signo famulus tuus munitus " thì rất hiệu nghiệm. Trong khi làm việc này, chúng tôi đã được hứng khởi bởi việc xức dầu trong phép rửa tội. Ma quỷ cố gắng trốn ẩn, không bị phát hiện, cũng như không bị trừ khử. Do đó, lần đầu người ta ít nhận ra sự hiện diện của nó hoặc không nhận ra chút nào. Tuy nhiên, khi những cuộc trừ quỷ được tiếp tục thì bắt buộc nó sẽ phải lộ diện. Có nhiều cách để thúc nó, bao gồm việc xức dầu.

Sách nghi thức không xác định tư thế của nhà trừ quỷ: một số người đứng, một số ngồi; một số ở bên phải, một số ở bên trái người bị quỷ ám, và một số người đứng đàng sau. Sách nghi thức chỉ nói rằng, bắt đầu bằng những lời: "Ecce crucem Domini" [này đây là Thánh giá của Chúa], chúng ta nên lấy viền của dây stola chạm vào cổ nạn nhân, và linh mục nên đặt tay mình trên đầu nạn nhân. Chúng tôi xin lưu ý rằng ma quỷ rất nhạy bén với năm giác quan (có lần nó nói: "Tôi nhập vào qua đường giác quan), và nhất là cặp mắt. Do đó, chúng tôi, cha Candido và các học trò của ngài, đạt hai ngón tay trên đôi mắt và nâng mí mắt lên vào những lúc đặc biệt trong khi đọc kinh. Hầu như luôn luôn, trong trường hợp quỷ hiện diện, đôi mắt dường như hoàn toàn trắng giã; chúng tôi khó có thể phân biệt rõ ràng con ngươi nằm trên hay phía dưới, dù với sự trợ giúp của cả hai bàn tay.

Vị trí của con ngươi cũng chỉ cho thấy loại quỷ và những xáo trộn đang có mặt. Trong khi đang đặt câu hỏi, chúng tôi luôn luôn có thể xếp loại quỷ theo nét biệt phân được gợi hứng từ chương chín sách Khải Huyền. Ma quỷ rất thận trọng khi phải nói; chúng bị cưỡng bách phải nói, và chỉ làm như vậy trong những trường hợp hết sức nghiêm trọng, những trường hợp bị ám thực sự và hoàn toàn. Khi ma quỷ tự ý thích tán gẫu, thì đó là thủ đoạn để làm cho nhà trừ quỷ chia trí khỏi điều ông đang tập trung chú ý và để tránh khỏi phải trả lời những câu hỏi hữu ích khi người ta chất vấn chúng. Trong những câu hỏi của chúng tôi, chúng tôi phải tuân thủ theo những qui tác trong sách nghi thức: không bao giờ hỏi những câu hỏi vô ích hoặc do tính tò mò mà ra. Chúng tôi phải hỏi về tên, có những quỷ khác hay là không, và có bao nhiêu quỷ, khi nào và làm cách nào mà quỷ nhập vào thể xác đặc biệt đó, và khi nào nó sẽ ra. Chúng tôi phải tìm ra sự hiện diện của ma quỷ có do một sự bỏ bùa hay không, và những tính chất đặc biệt của loại bùa đó. Nếu người ta ăn hoặc uống phải những thứ độc dữ, họ phải mửa nó ra; nếu một số yêu thuật đang được giấu, thì quan trọng là phải được nói ra nơi đang được giấu, để nó có thể được đốt đi cách cẩn thận.

Đang trong một cuộc trừ quỷ, nếu có quỷ hiện diện, có thể sẽ lộ ra chầm chậm từng giai đoạn hoặc bộc phát đột ngột. Sự hiểu biết của nhà trừ quỷ về cường độ và tính nghiêm trọng của con bệnh tăng dần dần. Dù có bị áp bức, bị ám ảnh hoặc bị quỷ nhập hay không; dù sự dữ đã bám rễ sâu hay mới sơ sài, thì cũng thật khó mà tìm được những lời văn làm sáng tỏ những phân biệt này. Tôi dùng mức đo này: nếu một người, trong khi đang được trừ quỷ, hoàn toàn rơi vào trạng thái hôn mê, thì chính quỷ nói qua miệng anh ta. Nếu anh ta di động thì chính là quỷ dùng chân tay của anh ta; và nếu lúc kết thúc cuộc trừ quỷ, anh ta không còn nhớ bất cứ điều gì, thì chúng ta có một trường hợp quỷ nhập: tức là, quỷ ở bên trong cá nhân đó và thỉnh thoảng hành động qua thân thể của người bị quỷ nhập. Cũng cần lưu ý rằng trong khi đang trừ quỷ, quỷ bị cưỡng bức - bởi năng quyền của lễ nghi - phải bộc lộ, nhưng hắn có thể vẫn tấn công người ấy vào bất cứ lúc nào khác, nhưng thường thường một cách không nghiêm trọng lắm.

Nếu trong một cuộc trừ quỷ, một số phản ứng của bệnh nhân tỏ cho thấy một cuộc tấn công của quỷ, nhưng bệnh nhân vẫn còn ý thức, như là vẫn còn mơ hồ nhớ những lời nói và hành động, thì chúng ta đang ở trong sự hiện diện của sự quỷ hành. Trong trường hợp này quỷ không luôn luôn hiện diện trong thân thể của người ấy, nhưng nó tấn công từng lúc và gây ra những chứng bệnh về tâm thần lẫn thể lý.

Tôi sẽ nói nhiều về hình thức tấn công thứ ba bên cạnh hai hình thức quỷ nhập và quỷ hành, đó là hình thức quỷ ám. Nó hệ tại sự không thể kiểm soát được những tư tưởng xấu luôn hành hạ nạn nhân, đặc biệt là về ban đêm, hoặc đôi khi xảy ra luôn luôn. Trong tất cả mọi trường hợp, việc chữa trị cũng giống nhau: cầu nguyện, chay tịnh, chịu các bí tích, sống đời sống Kitô giáo, bác ái, và trừ quỷ. Để nhận xét một căn nguyên sự dữ có thể, chúng tôi dùng một số nguyên tắc chỉ đạo chung chung chứ không đi vào chi tiết, bởi vì "cái tiêu cực" tức là ma quỷ có xu hướng tấn công con người trong năm lãnh vực. Những cuộc tấn công này nghiêm trọng hơn kém tùy theo nguồn gốc của chúng. Năm lãnh vực như sau: sức khỏe, việc làm ăn, tình cảm, thú vui cuộc đời, và ước muốn chết.

Sức khỏe. Ma quỷ có quyền gây nên những bệnh về cả thể lý lẫn tâm thần. Tôi đã nói rằng hai khu vực bị ảnh hưởng thông thường nhất là đầu và bao tử. Thường thường, bệnh rất dai dẳng. Đôi khi cũng ngắn ngủi, chỉ sau một hồi trừ quỷ. Trường hợp này gồm có các bệnh dịch lây lan, các vết thương, vết bầm. Sách nghi thức gợi ý làm phép những khu vực bị ảnh hưởng, với dấu Thánh giá và vẩy nước phép. Nhiều lần tôi đã chứng kiến hiệu quả của việc chỉ lấy dây stola phủ lên và đặt tay lên khu vực bệnh. Nhiều lần các phụ nữ bị bệnh đau đớn, theo chẩn đoán siêu âm phải giải phẫu buồng trứng, nhưng trước khi đi giải phẫu họ đã đến với tôi, sau khi tôi ban phép lành cho họ cơn đau liền chấm dứt, khi đi siêu âm lại, chẳng thấy dấu hiệu bệnh đâu nữa, và cuộc giải phẫu đã được hủy bỏ.

Cha Candido có thể liệt kê vô số những trường hợp ngài chỉ "làm phép" mà chữa rất nhiều bệnh trầm trọng, kể cả những bệnh ung bướu não đã được y khoa xác minh. Tôi phải cẩn thận xem xét những trường hợp này có thể chỉ xảy ra cho những người bị quỷ ám, và qua đó tôi muốn nói đến những trường hợp có nguồn gốc đáng nghi ngờ là ma quỷ.

Tình cảm. Ma quỷ có thể gây ra thù oán lung tung, đặc biệt đối với những người yêu thương chúng ta nhất. Nó phá hoại hôn nhân gia đình, phá vỡ các giao ước; nó gây ra những cuộc xô sát, cãi cọ trong các gia đình nơi mà mọi người thực sự thương yêu nhau, và luôn luôn chỉ vì những lý do chẳng đâu vào đâu. Satan cũng tàn phá các tình bạn hữu; qua sự can thiệp của nó, nạn nhân cảm thấy khó chịu ở mọi nơi, bị mọi người tránh lánh, cuối cùng là chỉ muốn sống cô độc. Rồi tiếp theo sau là một sự xác tín mình hoàn toàn thiếu tình yêu và thiếu được hiểu biết, một sự trống rỗng tình cảm hoàn toàn đến nỗi lập gia đình là một chuyện không có thể. Và rất thường xảy ra một mối tương quan bạn bè đang phát triển và đầy hứa hẹn, bỗng dưng bị chấm dứt mà không có lý do nào cả.

Công việc làm ăn. Không thể tìm được việc làm vì những chuyện đâu đâu, với những lý do thật vô lý dù khi xem ra chắc ăn có công việc. Cuối cùng nạn nhân có thể tìm được một việc làm nhưng lại bỏ mà bề ngoài chẳng có lý do nào cả, và lại tìm công việc khác, nhưng không đi phỏng vấn hoặc lại cũng bỏ cuộc như vậy chỉ vì những động lực vớ vẩn. Thân nhân của những con người bất hạnh này nghi ngờ nhân cách thiếu trách nhiệm hoặc bất thường. Tôi đã chứng kiến những gia đình hết sức giầu có lại rơi vào tình trạng nghèo cùng cực với những lý do không thể cắt nghĩa về mặt nhân loại. Những kỹ nghệ gia thành công đột nhiên một cách không thể cắt nghĩa phải đứng nhìn mọi sự tan thành mây khói. Hoặc những thương gia tinh khôn bắt đầu có những quyết định sai lầm này đến sai lầm khác, và kết quả là phá sản vì nợ nần. Lại nữa, những ông chủ các cửa hàng rất nổi tiếng cũng bị tai họa mất hết khách hàng. Khi ma quỷ làm ảnh hưởng đến vấn đề tiền bạc, thì việc tìm việc trở nên không thể, đang giầu bỗng hóa nghèo, và các công nhân viên trở nên thất nghiệp, mà luôn luôn chẳng có bất cứ lý do gì bề ngoài.

Vui hưởng cuộc đời. Những bệnh tật về luân lý thể lý, sự cô độc tình cảm, và sự sụp đổ kinh tế sẽ đem tới thái độ bi quan đến nỗi đời sống chỉ được nhìn theo cách tiêu cực. Những người mắc phải như thế sẽ trở nên không thể lạc quan, hy vọng; cuộc đời xem ra hết sức chán nản, không lối thoát và không thể chịu nổi.

Muốn chết. Giai đoạn thứ năm. Đây là mục tiêu cuối cùng của kẻ thù độc dữ: dẫn chúng ta đến sự tuyệt vọng và tự tử. Ở đây tôi cũng phải thêm ngay rằng khi chúng ta đặt mình dưới sự che chở của Giáo Hội, dù chỉ với sự trừ quỷ, thì giai đoạn thứ năm này cũng không xảy ra. Chúng ta dường như làm sống lại điều đã được cho phép làm khổ ông Gióp: "Này, ông ta ở trong quyền của ngươi, chỉ trừ mạng sống của ông ta thôi" (Jb 2,6). Tôi có thể kể ra nhiều trường hợp ở đây, hầu như với những sự can thiệp lạ lùng, Thiên Chúa cứu một số người khỏi tự tử.

Tôi chắc rằng nhiều độc giả nhận ra năm giai đoạn này, với những mức độ mãnh liệt khác nhau. Tôi nói lại rằng hầu hết các bệnh nhân này có những nguyên nhân không liên quan đến sự can thiệp của ma quỷ; riêng chúng tôi không thể xác định được ai là người bị quỷ ám hoặc quỷ hành.

Tôi sẽ cho hai thí dụ của giai đoạn thứ năm, hết sức nghiêm trọng, nạn nhân đi đến chỗ muốn chết và đã cố gắng tự tử. Tôi đã giúp một cô y tá, do một cơn khủng hoảng nghiêm trọng, cô ta đã có một tư tưởng tuyệt vọng vô lý: "Nếu tôi truyền máu sai cho bệnh nhân, tôi sẽ bị bắt, và tôi sẽ được an toàn ở trong tù." Mặc dù cô ta đã nghe theo và lên kế hoạch hành động; cô ta xác tín rằng mình đã truyền nhóm máu không đúng cho bệnh nhân. Rồi cô ta đã đi đến văn phòng của cô để chờ được bị bắt. Vài giờ đồng hồ trôi qua, sự truyền máu ấy lại hóa ra thành công, và cô y tá đã hối hận vì hành động của mình.

Một thanh niên trẻ, đẹp trai tên là Giancarlo, hai mươi lăm tuổi, trông có vẻ khỏe mạnh cả thể xác lẫn tinh thần. Tuy nhiên, anh ta đã có một "tên quỷ nó hành hạ anh ta dữ dội. Việc trừ quỷ đã làm giảm bớt cho anh ta chút đỉnh nhưng chưa đủ. Một đêm anh ta quyết định chấm dứt tất cả, như anh ta đã cố gắng nhiều lần. Anh đi bộ dọc theo một đường rầy xe lửa, anh ngừng lại ở một khúc quanh rộng, và nằm xuống trên đường rầy trong một chiếc túi ngủ. Anh ta vẫn nằm nguyên ở đó được bốn hoặc năm giờ. Nhiều chuyến tàu lửa đã chạy cả hai hướng, nhưng mỗi chuyến tàu lại đi ở một đường ray khác đối diện với Giancarlo; có những lý do thách thức sự hiểu biết của con người. Họ đã nhận ra anh ta.

Tôi hỏi cha Candido xem với những kinh nghiệm lâu dài của một nhà trừ quỷ, ngài đã để mất một người nào đã được làm phép mà đi tự tử chưa. Ngài đã bị mất một người, và câu chuyện như sau: một cô gái Roma, hết sức đáng thương do bị quỷ ám hoàn toàn đã đến xin ngài trừ quỷ. Cô ta bắt đầu cảm thấy nhẹ bớt đi nhiều, mặc dù cô ta thấy rằng thật là khó khăn để chiến đấu với cơn cám dỗ tự tử. Một hôm Mẹ cô đến với cha Candido; bà tin rằng con gái của bà chỉ tưởng tượng ra bệnh và chửi bới cô ta. Cho dù sự giải thích của cha Candido xem ra thuyết phục được người đàn bà, nhưng trong thực tế thì không như vậy. Một hôm, khi cô con gái thổ lộ cho Mẹ cô về nỗi day dứt của cơn cám dỗ dai dẳng muốn tự tử, người mẹ khốn nạn đã máng chửi cô ta như thường lệ: "Đồ điên, đồ vô tích sự; mày thậm chí chẳng có khả năng tự sát. Mày thử chết cho tao xem nào?" Nói rồi bà mở cửa sổ ra. Cô con gái nhảy xuống và chết tức thì. Đây chỉ là một trường hợp tự tử duy nhất trong số tất cả những người đến với cha Candido để xin trừ quỷ. Tuy nhiên, rõ ràng là lỗi ở phía người mẹ nhiều hơn, người có trách nhiệm đối với tình trạng đáng thương của cô con gái mình.

Tôi đã lưu ý rằng số lượng thời gian cần thiết cho một cuộc trừ quỷ là không thể nói trước được. Sự cộng tác tích cực của người bị mắc bệnh là rất quan trọng. Tuy nhiên, dù có sự cộng tác đến đâu, thì đôi khi chúng tôi có thể chỉ đạt được một số cải tiến chứ không giải thoát hoàn toàn được. Một hôm cha Candido đang trừ quỷ cho một chàng thanh niên to béo, thuộc loại người khiến cho nhà trừ quỷ phải toát mồ hôi, bởi vì ngài cần đến một nỗ lực thể lý lớn lao, giống như một cuộc chiến đấu thực sự. Từ lúc bắt đầu, chàng thanh niên nói với vị linh mục: "Tôi không biết ngày hôm nay có tốt cho việc trừ quỷ không; tôi đã cảm thấy rằng tôi sẽ làm ông bị thương." thực ra, chắc chắn có một cuộc chiến thực xảy ra giữa hai người, và kết quả thì không chắc chán. Hoàn toàn bất ngờ, chàng thanh niên ngã xuống sàn nhà, và cha Candido cũng mệt nhoài và ngã xuống trên anh ta. Ngài đã nói với tôi: "Nếu lúc bấy giờ có ai vào phòng, thì họ sẽ không phân biệt được ai là nhà trừ quỷ, ai là người bị quỷ ám." Sau một lúc vị linh mục đã phục hồi và đã có thể kết thúc việc trừ quỷ. Vài hôm sau Cha Pio gửi tới cha Candido những lời cảnh cáo như sau: "Đừng phí thời gian và sức lực trên chàng thanh niên đó. Chỉ vô ích mà thôi". Với sự linh ứng thần linh, Cha Pio biết rằng không thể làm gì được với chàng thanh niên đặc biệt đó. Các sự kiện xảy ra đã chứng minh sự linh cảm của ngài.

Tôi xin thêm một nhận xét khác: "Sự quỷ nhập không phải là căn bệnh truyền nhiễm, nó không lây lan sang những người họ hàng cũng không lây sang những người chứng kiến, cũng không nhiễm vào những nơi chốn được tổ chức trừ quỷ. " Lời tuyên bố này rõ ràng là rất quan trọng, bởi vì thường thường những nhà trừ quỷ đương đầu với những khó khăn lớn khi tìm một nơi để thi hành phép này. Nhiều lần chúng tôi bị từ chối cho vào vì họ sợ tòa nhà sẽ bị "quấy phá". Ít nhất vị linh mục cần phải biết rằng sự hiện diện của bất cứ ai bị quỷ ám và sự trừ quỷ cho họ không để lại hậu quả gì trên căn nhà hoặc trên những người sống ở đó. Thay vào đó, chúng ta nên sợ tội lỗi; một tội nặng, một tội lộng ngôn có thể gây tổn thất cho gia đình họ, cho chỗ làm việc của họ và cho những nơi họ thường lui tới.

Một số trường hợp mà tôi đã chọn không phải từ nơi người bị sốc nặng nhất, nhưng từ trường hợp thông thường nhất đã xảy ra cho tôi.

Anna Maria, một cô gái mười sáu tuổi, đã phải đau khổ vì cô thất bại trong học vấn (trong quá khứ cô ta chưa bao giờ gặp khó khăn về việc học hành), và ở nhà cô ta cứ nghe thấy những tiếng động lạ. Cô ta đã đến với tôi cùng với cha mẹ và chị của cô. Tôi làm phép cho cô và nhận ra những dấu hiệu tiêu cực. Rồi tôi làm phép cho mẹ của cô cũng đang phàn nàn vì những đau đớn. Khi tôi đặt tay trên đầu bà, bà thốt ra một tiếng hét lớn và từ trên ghế ngã lăn xuống đất. Tôi yêu cầu hai chị em bước ra khỏi phòng, và tiếp tục trừ quỷ cho bà với sự giúp đỡ của người chồng. Tôi nhận thấy nhiều dấu hiệu tiêu cực mạnh mẽ ở nơi người mẹ hơn ở đứa con gái. Đối với Anna Maria thì làm ba phép là đủ; đó là một sự ám nhẹ thôi, và tôi có thể chữa khỏi ngay. Còn đối với người mẹ, đòi hỏi phải trừ quỷ hàng tuần và kéo dài nhiều tháng. Bà đã phục hồi hoàn toàn sau phản ứng của bà ở lần trừ quỷ thứ nhất, sớm hơn tôi tiên đoán nhiều.

Giovanna, một người đàn bà ba mươi tuổi và là mẹ của ba đứa con. Bà đã được cha giải tội của bà gửi đến cho tôi. Bà đã bị nhức đầu, bị bùa làm choáng ngất, và đau bao tử. Các bác sĩ nói bà ta vẫn hoàn toàn khỏe mạnh. Cơn bệnh của bà đã xuất hiện cách chậm chạp, từ từ; tức là, bà bị nhập bởi ba tên quỷ, chúng nhập vào bà qua ba lần bị bỏ bùa khác nhau. Lần mạnh nhất bị yểm trước khi bà kết hôn, bởi một cô gái cũng muốn kết hôn với vị hôn phu của bà. Đời sống cầu nguyện mạnh mẽ của gia đình Giovanna đã giúp nhiều cho việc trừ quỷ. Hai trong ba tên quỷ đã xuất ra một cách kỳ diệu mau chóng; tên quỷ thứ ba tỏ ra lì lợm hơn và phải mất ba năm trừ quỷ hàng tuần nó mới chịu lìa bỏ.

Marcella, một cô gái tóc vàng mười chín tuổi có vẻ trâng tráo và bướng bỉnh, đã đến với tôi. Cô ta bị đau bao tử ghê gớm, cả ở nhà cũng như ở nơi làm việc cô ta không ngừng buông ra những lời xúc phạm, những lời bình phẩm chua chát. Các bác sĩ tuyên bố rằng sức khỏe cô ta rất tốt. Khi tôi đặt tay trên mắt cô và bắt đầu cuộc trừ quỷ, mắt của cô hoàn toàn trắng dã, khó có thể nhận ra được đồng tử ở phần dưới của mắt. Cô ta thốt ra những tiếng cười mỉa mai. Tôi vừa kịp nghĩ rằng tôi đang đối phó với Satan thì tôi nghe như có tiếng nói với tôi: "Tao là Satan", với một tràng cười khác. Dần dần, Marcella tăng cường thêm đời sống cầu nguyện, bắt đầu rước lễ, đọc kinh Mân côi hàng ngày, và đi xưng tội hàng tuần (sự xưng tội còn mạnh hơn việc trừ quỷ!). Cô ta thăng tiến dần dần và chỉ bị thụt lùi khi cô giảm bớt nhiệt tình cầu nguyện. Hai năm sau cô ta mới được chữa lành.

Giuseppe, hai mươi tám tuổi, đã đến với tôi cùng với mẹ và em gái. Tôi nhận ra ngay rằng anh ta đã đến gặp tôi chỉ để làm vui lòng những người thương yêu anh ta. Anh xông ra một mùi thuốc lá nồng nạc; anh ta đã sử dụng và bán ma túy và nói lộng ngôn. Thật vô ích khi nói với anh ta về việc cầu nguyện và chịu các bí tích. Tôi cố gắng thuyết phục anh ta để cho tôi trừ quỷ, do khẩn cấp nên làm rất vắn tắt, bởi vì quỷ đã tự bộc lộ ngay tức khắc và dữ dội. Tôi đã ngừng lại. Khi tôi bảo anh ta rằng anh bị quỷ ám, anh ta đã trả lời tôi: "Tôi biết rồi và tôi lấy làm sung sướng; tôi đi theo ma quỷ." Tôi không bao giờ gặp lại anh ta lần nào nữa.

Dì Angela, mặc dù còn trẻ, đã đến với tôi trong tình trạng thể lý thật đáng thương; dì không thể nói nên lời, và chắc chắn dì không thể cầu nguyện. Toàn thân dì đau đớn; hầu như không có phần thân thể nào không đau. Trong đầu óc cứ vang lên những lời báng bổ, và dì cũng nghe thấy nhiều tiếng động lạ. Khởi đầu những rắc rối của dì là một lời nguyền rủa (có thể là một lời yểm bùa) bởi một linh mục bất xứng; dì Angela đã dâng tất cả những đau khổ của dì nhân danh dòng tu của dì. Sau nhiều lần trừ quỷ tỏ ra hữu hiệu, dì đã được thuyên chuyển đến thành phố khác. Tôi hy vọng dì có thể tìm thấy một nhà trừ quỷ khác để hoàn tất việc giải thoát cho dì.

Tôi sẽ mô tả một trong số nhiều trường hợp kinh khủng của sự bỏ bùa trên toàn thể một gia đình. Người cha, đang rất thành công trong việc buôn bán, đột nhiên không hiểu sao thấy mình không thể bán buôn gì được nữa. Kho hàng còn đầy hàng hóa, nhưng không ai đến mua nữa. Một lần, khi ông ta đáng lẽ đã có thể bán được một lô hàng lớn, thì chiếc xe tải của ông ta dùng để giao hàng bị hư lên hư xuống và không thể giao hàng đến nơi được và do đó, việc bán hàng không thể hoàn tất được Một lần khác, sau những cố gắng vất vả, ông đã có thể đạt được một hợp đồng lớn. Lần này chiếc xe tải đã đến được tận cửa nhà kho của người mua, nhưng không ai có thể mở được cửa nhà kho, và lại một lần nữa việc bán hàng không hoàn thành được. Cùng lúc, đứa con gái ông ta đã lấy chồng, bị chồng bỏ. Và đứa con gái khác của ông sắp sửa cưới, cũng bị người chồng sắp cưới bỏ đi vào chiều áp hôm cưới mà không một lời giải thích. Thêm vào đó còn có vấn đề sức khỏe và những tiếng động lạ nữa, như trong hầu hết các trường hợp tương tự. Thật khó mà nói nên bắt đầu việc trừ quỷ từ đâu. Tôi đã khuyên gia đình phải đọc kinh nhiều, năng chịu các phép bí tích, và phải sống đời sống Kitô hữu đích thực; rồi tôi bắt đầu trừ quỷ cho hết mọi người trong nhà. Tôi cũng trừ quỷ và cử hành Thánh Lễ tại gia và tại nơi làm việc của người cha. Sau một năm tất cả điều này bắt đầu có kết quả, và tiến trình cứ tiếp tục, mặc dù từng bước chầm chậm. Những điều này là những thử thách thực sự về đức tin và lòng kiên nhẫn!

Antonia, một cô gái hai mươi tuổi, đến với tôi cùng với bố là một người làm bánh. Cô dường như là một thày bói. Em đã nghe thấy những tiếng lạ, và cô không thể nào ngủ hay làm việc được. Cũng trong cùng thời gian đó, bố cô đã bắt đầu đau bao tử mà không có thuốc nào chữa được. Khi tôi làm phép cho cô, tôi cảm thấy có sự hiện diện của ma quỷ ở cấp độ nhẹ. Tôi bảo cô rằng nếu tôi không lầm, thì cô chỉ cần một vài lần trừ quỷ là khỏi. Khi tôi làm phép cho ông bố, ông ta đi vào hôn mê hoàn toàn; ông ta im lặng và bất động. Khi tỉnh lại, ông hoàn toàn không hay biết điều gì vừa xảy ra. Rồi tôi đã bảo cô đừng nói cho ông ta biết gì cả, để tránh cho ông khỏi sợ hãi, và tôi đã hẹn hai bố con trở lại. Khi về nhà đứa con gái đã không giữ kín được sự việc, và đã nói cho bố hết mọi sự. Ông ta trở nên sợ hãi và đi đến với một thầy phù thủy. Người lúc ban đầu đã khuyên họ đến với tôi, đã nói cho tôi biết hiện giờ cả hai đều mắc bệnh, nhưng họ không bao giờ trở lại với tôi nữa. Thỉnh thoảng tôi vẫn gặp những người trở nên thất đảm bởi những bước chậm chạp của việc chữa lành và đi tìm đến với phù thủy với hy vọng để được chữa lành nhanh hơn, rồi cuối cùng chuốc lấy những hậu quả tai hại. Thiên Chúa tạo dựng nên chúng ta có tự do; chúng ta cũng có thể tự do phá hủy chính mình.

Để kết luận chương này, tôi muốn nói lên một điều: mỗi một nhà trừ quỷ đều có những kinh nghiệm riêng mà đôi khi cũng là một. Một số trường hợp quá bất thường đến nỗi chưa có nhà trừ quỷ nào khác từng phải đối mặt. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu một số nhà trừ quỷ bị bối rối bởi điều tôi đã viết, đặc biệt ở đầu chương này, liên quan đến vị trí của những con mắt, những chứng nhức đầu, đau bao tử. Đó là những hiện tượng mà cha Candido và tất cả những nhà trừ quỷ mà ngài đã đào tạo phải đối phó đều đều, và đó là sự thật, dù những nhà trừ quỷ nào khác đã từng trải nghiệm chúng hay không.

Tôi tin rằng tôi chúng ta phải học một cách hết sức kính cẩn những kinh nghiệm và những phương pháp khác nhau về việc trừ quỷ. Những sự kiện thì không thay đổi, và công hiệu của một phương pháp không thể bị giảm tác dụng vì những sự kiện khác với kinh nghiệm của một ai đó.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth


§9 - CÁCH HÀNH ĐỘNG CỦA MA QUỶ

Thường thường ma quỷ làm mọi điều có thể để che giấu hành tung của nó. Nó không thích nói, và nó cố gắng mọi cách để làm cho cả nhà trừ quỷ lẫn người bị quỷ ám phải thất vọng. Kinh nghiệm dạy tôi rằng hành động của ma quỷ đi theo bốn bước: trước khi bị phát hiện, trong khi đang trừ quỷ, vào lúc bắt đầu giải thoát và sau khi giải thoát. Tôi phải lưu ý rằng không bao giờ có hai trường hợp giống nhau. Hành động của ma quỷ thì không thể nói trước được và mang nhiều hình thức khác nhau. Điều mà tôi sắp mô tả qui về hành động thường gặp nhất.

1. Trước khi phát hiện. Quỷ ám gây ra những xáo trộn thể lý và tâm thần. Do đó, người bị ám thường thường ở dưới sự chăm sóc của một bác sĩ, và không ai nghi ngờ về bản tính đích thực của các vấn đề. Các bác sĩ thường cố gắng chữa các triệu chứng trong một thời gian dài và thử nhiều thứ thuốc, luôn luôn với những kết quả rất giới hạn. Bệnh nhân thường đi hết bác sĩ này đến các bác sĩ khác, rồi chê họ là kém khả năng. Các triệu chứng tâm thần là khó chữa nhất; nhiều lần các chuyên gia không tìm thấy điều gì trục trặc - mặc dù điều này cũng thường xảy ra với các bệnh về thể lý nữa - và thường thường gia đình hay kết tội người bị quỷ ám là hay tưởng tượng ra các vấn đề. Đây là một trong những thánh giá nặng nề nhất cho những bệnh nhân" này; họ không được hiểu cũng không được tin tưởng. Hầu như luôn luôn, sau khi đi tìm một cách vô hiệu sự trợ giúp của "nền y khoa chính thức", những người này bắt đầu đi gõ cửa "các tay lang băm", hoặc tệ hơn, các tay phù thủy, thày bói, thày mo. Bằng cách này, các rắc rối càng tăng thêm.

Bình thường, những ai đến với nhà trừ quỷ (theo sự góp ý của bạn bè; rất hiếm khi có lời khuyên của linh mục!) thì trước đó họ cũng đã đi gõ cửa các bác sĩ, và họ rất nghi nan; nhiều lần họ đã thử đến với các thày phù thủy, thày cúng. Thường thường sự kiện thiếu - không thể bào chữa được - sự chăm sóc của Giáo Hội trong lãnh vực này cộng thêm vào sự thiếu đức tin hoặc thiếu thực hành đức tin của những người này, đương nhiên kết quả sẽ là một sự chậm trễ tìm đến với nhà trừ quỷ.

Chúng ta phải nhớ rằng ngay cả trong những trường hợp quỷ nhập hoàn toàn - tức là trong những trường hợp ma quỷ sử dụng thân xác của nạn nhân để nói và hành động - thì ma quỷ cũng không hành động cách đều đặn. Nó hoạt động từng giai đoạn (thường được gọi là những "lúc khủng hoảng") với những giai đoạn ngưng nghỉ bất ngờ. Theo đó, chỉ trừ một ít trường hợp, nạn nhân có thể hoạt động và duy trì công việc hoặc đi đến trường một cách dường như bình thường. Chỉ riêng mình nạn nhân mới biết được việc thực hiện những việc này đòi hỏi phải có nỗ lực ghê gớm như thế nào.

2. Trong khi trừ quỷ. Vào lúc bắt đầu, ma quỷ hết sức cố gắng để không bị phát hiện hoặc ít nhất che dấu tính cách nghiêm trọng của việc nó ám, cho dù nó không luôn luôn thành công. Đôi khi, nó bị nhà trừ quỷ dùng sức mạnh bát buộc nó phải bộc lộ sự hiện diện của nó ở ngay những kinh đầu tiên; những lần khác, phải mất nhiều kỳ trừ quỷ nó mới bị phát hiện. Tôi nhớ một anh thanh niên, vào lúc làm phép lần đầu, anh chỉ biểu hiện một phản ứng tiêu cực nhẹ. Tôi thầm nghĩ: "Trường hợp này coi bộ dễ dàng; chắc chỉ cần làm phép lần này và vài lần nữa là xong." Tới khi làm phép lần thứ hai anh ta trở nên dữ dằn hơn, và sau đó tôi không thể bát đầu trừ quỷ được nữa nếu không có bốn người lực lưỡng khống chế anh ta.

Vào những dịp khác, người ta phải chờ đợi đến "giờ của Chúa". Tôi còn nhớ rõ một người đã tham vấn nhiều nhà trừ quỷ, kể cả tôi, mà không thấy bất cứ dấu vết nào có sự hiện diện của ma quỷ. Cuối cùng, một lần quỷ bị cưỡng bức phải bộc lộ mình ra, và sau đó việc trừ quỷ được tiến hành kết quả. Đôi khi, từ lần làm phép thứ nhất hoặc thứ hai ma quỷ đã bộc lộ tất cả sức mạnh của nó, điều này thay đổi theo từng trường hợp. Có khi sự bộc lộ đang diễn tiến; thì một số người bị quỷ ám hình như mỗi kỳ có một chứng bệnh khác nhau, khiến người ta có ấn tượng rằng mỗi căn bệnh thể xác phải được đem ra lần lượt để được chữa lành.

Ma quỷ phản ứng theo nhiều cách khác nhau trước các kinh nguyện và các mệnh lệnh. Nhiều lần nó cố gắng tỏ ra dửng dưng; nhưng trong thực tế nó chịu đựng và tiếp tục chịu đựng hơn nữa cho đến khi sự giải thoát được hoàn tất. Một số người bị quỷ ám im lạng và bất động, và nếu bị kích thích, thì chỉ có cặp mắt phản ứng. Những người khác vùng vẫy lung tung, và nếu không có ai giữ lại, thì họ đã tự hại mình. Một số khác rên rỉ, đặc biệt là khi đặt dây Stola trên phần thân thể bị ảnh hưởng, như sách Nghi thức đề nghị, hoặc nếu họ được làm phép với dấu Thánh giá hoặc nước phép. Rất ít người hung hãn, và những người này phải được giữ bởi những người giúp đỡ nhà trừ quỷ hoặc bởi thân nhân họ.

Ma quỷ rất miễn cưỡng nói ra. Sách nghi thức, rất ngặt, khuyên nhà trừ quỷ đừng hỏi những câu hỏi tò mò, nhưng chỉ hỏi điều gì cần cho việc giải thoát thôi. Điều thứ nhất cần hỏi là tên. Đối với ma quỷ, vốn miễn cưỡng bộc lộ mình, việc tiết lộ mình ra là một thất bại; dù khi nó đã tiết lộ tên nó, thì nó cũng luôn luôn miễn cưỡng lặp lại, ngay cả trong cuộc trừ quỷ tiếp theo. Rồi chúng tôi ra lệnh cho ma quỷ nói có bao nhiêu quỷ hiện diện trong một thể xác đặc thù. Có thể là nhiều hoặc ít, nhưng luôn luôn có một tên thủ lãnh, và nó luôn luôn là quỷ thứ nhất bị xưng tên. Khi quỷ có một cái tên theo Kinh Thánh hoặc tên được đặt theo truyền thống (chẳng hạn, Satan, Beelzebub, Lucifer, Zebulun, Meridian, Asmodeus), chúng tôi phải đối phó với "thứ dữ", khó đánh bại. Mức độ khó khăn cũng tương quan với cường độ mà ma quỷ ám một người. Khi có nhiều quỷ hiện diện, thì tên thủ lãnh luôn luôn xuất ra sau cùng.

Sức mạnh của quỷ ám cũng được biểu lộ ra từ phản ứng của ma quỷ trước các danh thánh. Thường thường ma quỷ không và cũng không thể nói lên những danh thánh này; nó thường thay thế kiểu nói như "Ông ấy" (để ám chỉ Thiên Chúa hoặc Chúa Giêsu) hoặc "Bà ấy" (để chỉ Đức Mẹ). Có lần nó nói "Ông chủ của các ông" hoặc "Đức Bà của các ông", để chỉ Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Nếu trường hợp quỷ ám mạnh mẽ và tên quỷ thuộc đẳng cấp cao (tôi xin nhắc lại là ma quỷ vẫn giữ những đảng cấp như hồi chúng còn là những thiên thần, như ngai thần, lãnh thần, quản thần...) thì chúng dám nói lên tên Thiên Chúa và Mẹ Maria, và luôn luôn kèm theo những lời xúc phạm ghê tởm.

Một số nhà trừ quỷ cho rằng, tôi không biết tại sao, nếu đang trong lúc trừ quỷ, gặp những tên quỷ lắm mồm, chúng sẽ công khai vạch ra hết các tội lỗi của họ. Đó là một quan niệm sai lầm; ma quỷ miễn cưỡng phải nói ra, và khi chúng nói, chúng nói những điều ngớ ngẩn để làm cho nhà trừ quỷ chia trí và lẩn tránh những câu hỏi của ngài. Cũng có trường hợp ngoại lệ. Một hôm cha Candido đã mời một linh mục vốn tự hào về chủ nghĩa hoài nghi của mình, đến tham dự cuộc trừ quỷ. Vị linh mục đã chấp nhận lời mời, nhưng thái độ của ngài có vẻ xem thường; ngài đứng khoanh tay và không đọc kinh như những người có mặt nên đọc, đã vậy lại còn mỉm cười chế diễu nữa. Tới một lúc quỷ quay sang ngài và nói: "Ông nói ông không tin tôi hiện hữu. Nhưng ông tin vào phụ nữ; vâng, ông tin vào phụ nữ, và thế là thế nào!" Vị linh mục bất hạnh lặng lẽ rút lui ra ngoài cửa và biến mất.

Lần khác, ma quỷ tiết lộ tội lỗi nạn nhân để làm cho nhà trừ quỷ thất đảm. Cha Candido đang trừ quỷ cho một chàng thanh niên đẹp trai bị một tên quỷ hung dữ ám, để cố gắng làm cho nhà trừ quỷ phải thất đảm, quỷ nói: "Ông không thể thấy rằng ông đang phí thời gian vô ích sao? Người này không bao giờ cầu nguyện". Rồi quỷ tiếp tục kể ra một danh sách dài đủ thứ tội lỗi xấu xa của người đó. Lúc cuối cuộc trừ quỷ, cha Candido đã uổng công cố gắng thuyết phục chàng trai xưng hết các tội. Rất cần thiết phải lôi kéo anh ta về xưng tội, vì anh ta cứ bảo mình chẳng có tội gì để xưng. Cha Candido hỏi: "Nhưng chẳng lẽ anh không phạm điều này điều kia sao?" Không chối được nữa, chàng thanh niên đáng thương đã bắt buộc thừa nhận những vi phạm của mình. Khi vị giải tôi tiếp tục kể ra một danh sách các tội đã được quỷ nói cho cha biết, chàng ta nhìn nhận hết từng tội. Sau khi lãnh nhận phép xá giải, chàng ra về, vừa lẩm bẩm: "Tôi không hiểu gì nữa! Các linh mục này biết hết mọi thứ!"

Sách nghi thức gợi ý nên hỏi những câu hỏi khác liên quan đến thời gian quỷ ám bao lâu rồi, động lực xui khiến, và các chủ đề khác tương tự. Tôi sẽ đề cập đến sau lý do tại sao chúng ta phải hành xử trong trường hợp bùa ngải và những câu hỏi nào phải hỏi. Chúng ta cũng đừng quên rằng ma quỷ là cha sự dối trá. Nó thoải mái tố cáo người này hoặc người khác để gây nên sự nghi ngờ và thù hàn; các câu trả lời của nó phải được xem xét lại kỹ lưỡng. Tôi sẽ chỉ nói rằng việc hỏi ma quỷ chung chung thì không quan trọng lắm. Chẳng hạn, thường khi ma quỷ thấy nó dần bị mất sức mạnh, nó hứa hẹn thời điểm xuất ra, nhưng rồi nó lại chần chừ kéo dài mãi. Một nhà trừ quỷ đầy kinh nghiệm như cha Candido thường có thể đoán được không chỉ loại quỷ ám, mà còn cả tên của chúng nữa; do đó ngài không hỏi nhiều câu hỏi. Tuy nhiên, thỉnh thoảng ngài hỏi tên của quỷ chỉ để được nó nói: "Ông biết rồi còn gì!" và đó là sự thật.

Trong các trường hợp những cuộc quỷ ám mạnh mẽ, quỷ có thể tự ý nói để làm cho nhà trù quỷ thất đảm. Nhiều lần quỷ đã nói với tôi: "Ông không thể làm bất cứ sự gì chống lại tôi được đâu?" "Đây là nhà của tôi mà; tôi thích ở đây, và tôi sẽ cứ ở đây, "Ông chỉ mất thời giờ vô ích thôi". Những lần khác nó đe dọa tôi: "Tôi sẽ ăn quả tim ông!" "Tối nay tôi sẽ làm cho ông kinh hãi đến nỗi ông sẽ không thể chợp mắt được." "Tôi sẽ vào giường của ông giống như một con rắn." "Tôi sẽ ném ông ra khỏi giường." Rồi sau khi đương đầu với câu trả lời của tôi nó liền im lặng chẳng hạn, khi tôi nói: "Tao được bao bọc bởi áo Đức Bà, mày làm gì được tao?" hoặc "Đức Tổng Thần Gabriel là Đấng che chở tao; mày cứ thử chiến đấu với Ngài xem!" hoặc "Thiên thần bản mệnh của tao canh chừng tao, mày đừng hòng chạm đến tao, mày không thể làm hại tao được," ma quỷ chỉ im lặng.

Nhà trừ quỷ luôn luôn có thể tìm thấy điểm yếu đặc biệt. Một số quỷ không thể chịu nổi việc vạch dấu Thánh giá với dây stola trên phần thân thể bị đau của nạn nhân; một số không thể chịu được hơi thở thổi vào mặt; số khác bằng tất cả sức lực chống lại việc làm phép với nước thánh. Rồi có một số câu trong những kinh trừ quỷ mà ma quỷ phản ứng mạnh mẽ hoặc bằng sức đang yếu dần. Về điểm này, như sách nghi thứ( có gợi ý, nhà trừ quỷ sẽ lặp đi lặp lại những câu này. Kéo dài, vắn thế nào tùy theo phán đoán của linh mục. Thường sự có mặt của bác sĩ cũng có ích không chỉ để cho việc chẩn đoán ban đầu nhưng cũng để trợ giúp xác định thời gian của việc trừ quỷ nữa. Khi người bị ám hoặc nhà trừ quỷ cảm thấy yếu mệt quá, bác sĩ là người sẽ cho họ lời khuyên khi nào nên ngưng nghỉ. Nhà trừ quỷ cũng có thể xác định khi nào nên ngừng.

3. Gần đến lúc ma quỷ xuất ra. Đây là lúc khó khăn và phức tạp, cũng có thể mất một thời gian dài. Đôi khi ma quỷ tỏ ra cho thấy nó đã mất sức, nhưng trong những hoàn cảnh khác nó cố gắng tung ra những đợt tấn công cuối cùng. Trong trường hợp một cơn bệnh thông thường, chúng tôi thường nhận thấy rằng bệnh nhân tiến bộ dần dần cho tới khi khỏi hẳn. Mặt khác, trong trường hợp bị quỷ ám, hầu hết thường xảy ra trái ngược hẳn; bệnh nhân thường cảm thấy sự tồi tệ cứ gia tăng đến khi không còn có thể chịu được nữa thì đó lại là lúc họ được chữa lành.

Đối với một tên quỷ, việc lìa bỏ một thân xác và đi vào hỏa ngục - nơi mà nó hầu như luôn luôn bị đoạ phạt - thì có nghĩa là chết vĩnh viễn và mất mọi khả năng tích cực quấy nhiễu người ta. Nó biểu lộ sự thất vọng này trong suốt những cuộc trừ quỷ với những lời như sau: "Tôi chết! Tôi chết mất!" "Tôi không chịu nổi nữa rồi" "Đủ rồi, ông đang giết tôi!,, "Ông là tên sát nhân, tên lý hình. Tất cả các linh mục là những tên sát nhân!" Và những lời tương tự. Trái lại, ở lúc bắt đầu cuộc trừ quỷ nó thường nói: "Ông không thể làm gì được tôi đâu"; bây giờ nó nói: "Ông đã giết tôi, ông đã chiến thắng." Ở lúc bắt đầu nó nói rằng nó không bao giờ ra khỏi, vì nó được hoàn toàn sung sướng trong một thể xác riêng biệt; bây giờ nó kêu nó cảm thấy yếu và muốn ra. Thực sự mỗi cuộc trừ quỷ giống như dùng gậy đập vào tên quỷ vậy. Nó phải chịu đau khổ rất nhiều và đồng thời nó cũng gây yếu đau cho người mà nó ám. Nó cũng thừa nhận rằng thà nó vào hỏa ngục còn dễ chịu hơn là trong thời gian đang trừ quỷ. Một lần, trong khi cha Candido đang trừ quỷ cho một người, gần tới lúc giải thoát, tên quỷ nói toạc ra với ngài: "Ông nghĩ rang tôi sẽ rời bỏ chỗ này nếu điều này không tồi tệ hơn chịu đau khổ trong hỏa ngục sao? Việc trừ quỷ đã trở nên thực sự không thể chịu nổi cho nó.

Chúng ta phải nhớ thêm một điều nữa để giúp đỡ người đang tiến gần tới lúc giải thoát; ma quỷ cố gắng truyền những điều nó cảm thấy cho người bị ám. Ma quỷ không thể chịu đựng lâu hơn được nữa, và nó truyền tình trạng thất vọng này cho nạn nhân của nó; nó cảm thấy gần đến hồi kết thúc đời sống của nó, không thể lý luận hợp lý, và nó truyền cảm giác khùng điên và cận tử cho người bị ám. Những người này thường hay xin tôi: "Hãy nói thật cho tôi, tôi điên phải không?" Việc trừ quỷ trở nên khó khăn hơn cho nạn nhân, và nếu không ai ép họ phải giữ đúng hẹn, họ sẽ không đi. Thỉnh thoảng có những người đã gần hoặc rất gần giai đoạn được giải thoát lại ngừng luôn việc đi đến với nhà trừ quỷ. Những "bệnh nhân" này thường phải được giúp đỡ để cầu nguyện và đi nhà thờ, bởi vì họ không thể tự mình làm việc đó. Họ cũng cần được giúp đỡ để hoàn tất cuộc trừ quỷ. Họ phải được khích lệ liên lỉ, đặc biệt trong những giai đoạn cuối.

Chắc chắn số thời gian cần có trước khi được giải thoát đã góp phần làm cho nạn nhân chán nản và kiệt quệ về thể lý. Nạn nhân cảm thấy rằng các bệnh của họ không thể chữa được. Đôi khi ma quỷ cũng có thể gây ra những bệnh nạn thực về thể lý nhưng chủ yếu là tâm lý, tuy vậy nạn nhân cần phải được chăm sóc về mặt y khoa sau khi được giải thoát. Có những trường hợp việc chữa lành được hoàn tất và không đòi hỏi thêm gì nữa.

4. Sau khi được giải thoát. Điều rất quan trọng là đừng giảm bớt cầu nguyện, chịu các bí tích, và sống một đời sống Kitô giáo. Việc thỉnh thoảng được trừ quỷ lại cũng rất có lợi bởi vì ma quỷ cũng thường hay lặp lại những cuộc tấn công và cố gắng trở lại; tốt nhất là đừng để một cửa ngõ nào cho nó trở lại. Chúng ta có thể gọi đây là một giai đoạn tập trung nỗ lực để bảo vệ cho cuộc giải thoát được thành công. Thỉnh thoảng một số trong các "bệnh nhân" của tôi đã trải nghiệm sự trở lại này. Khi không sống phóng túng, nghĩa là họ vẫn duy trì một đời sống thiêng liêng mãnh liệt, thì việc giải thoát lần thứ hai sẽ dễ dàng. Tuy nhiên, khi quỷ trở lại là do người ấy thiếu cầu nguyện, hoặc tệ hơn nữa, lại đang sa vào những tội lỗi quen phạm, thì sự ám trở nên tồi tệ hơn trước, như Tin Mừng Matthêu 12,42- 45 đã miêu tả. Quỷ sẽ trở lại với bảy quỷ dữ tợn hơn nó.

Đến đây tôi chắc chắn độc giả đã nhận ra rằng ma quỷ cố gắng hết sức để che dấu sự hiện diện của nó. Đây là một trong những sự kiện giúp phân biệt giữa sự bị quỷ ám và những vấn đề tâm lý. Với Trường hợp sau, thường bệnh nhân làm hết cách để kéo sự chú ý. Trái lại ma quỷ hành động rất cẩn thận để ẩn mình.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth



§10 - CHỨNG TỪ CỦA NẠN NHÂN

o0o

Chương này là những chứng từ hiển nhiên được viết bởi một số người đã từng bị quỷ ám. Thật khó khăn cho một nhà trừ quỷ sành sỏi hiểu được những điều mà những người bị ám cảm nhận. Điều có thể xuất hiện như thứ cảm xúc mãnh liệt bình thường tràn vào che đậy nỗi đau mà chính bệnh nhân khó có thể diễn tả được. Một nạn nhân, G.G.M., đã cố gắng mọi cách để diễn tả điều không thể cắt nghĩa, chủ yếu tin vào sự hiểu biết của những người từng chịu hành hạ bởi nỗi đau như thế.

o0o

Tất cả bắt đầu từ năm tôi lên mười sáu tuổi. Trước đó, tôi là một người trẻ hạnh phúc. Tôi rất cởi mở, khá hài hước, dù có một thứ gì đó có tính áp đảo cứ theo đuổi tôi. Các bạn bè nói với tôi: "Chúng tôi làm điều này điều kia, sao bạn không làm?" hoặc "Chúng tôi sẽ đi đến chỗ đó, tại sao bạn không đi?" Tôi không thể hiểu được tại sao, nhưng tôi đã không lấy gì làm quan trọng. Tôi sống trong một thị trấn ven biển; biển cả, bình minh, và những cánh đồng đã giúp tôi không bị buồn chán. Sau sinh nhật thứ mười sáu, tôi dời lên Roma, tôi lìa bỏ Giáo Hội, và tôi bắt đầu theo đuổi tất cả mọi thứ thú vui mà thành phố lớn ấy đem lại cho một người mới đến. Tức là, tôi đã bắt đầu nếm trải tất cả những thứ phù phiếm, mà ở thị trấn nhỏ hoàn toàn không biết gì đến. Khá sớm, tôi đã trở nên quen với cảnh bụi đời, xì ke ma tuý, trộm cáp, đĩ điếm...tôi vội vã lao đầu vào những "náo nhiệt" khiến quên đi sự bình an mà tôi đã từng biết trước kia. Lối sống mới mà tôi bắt đầu dìm mình vào thì giả tạo, ngạo mạn và kinh tởm.

Cha tôi hết chịu nổi, ông kiểm soát mọi động tĩnh của tôi và luôn luôn phẫn nộ với tôi. Thái độ phẫn nộ và khinh khi mà ông dành cho tôi đã đẩy tôi vào lối sống đường phố. Tôi bỏ nhà ra đi và trở nên quen thuộc với cái đói, lạnh, buồn ngủ, và những cái đê hèn. Tôi quan hệ với những phụ nữ suồng sã và các bạn giang hồ. Không lâu tôi thấy mình hay tự hỏi những câu hỏi không có câu trả lời, như: "Tại sao tôi sống? Tại sao tôi ở ngoài đường phố? Tại sao tôi trở nên như thế này, trong khi những người khác có sức mạnh để làm việc và có nụ cười?

Vào thời gian đó, tôi sống với một cô gái, cô ấy tin rằng sự dữ mạnh hơn sự thiện. Cô ta nói về ma thuật và các phù thủy; các bản viết của cô ta làm tôi choáng váng. Tôi đã nghĩ rằng cô ta rất thông minh bởi vì những bản viết của cô về thế giới và về cuộc đời thì vượt xa phạm vi của con người. Tôi đã đọc tất cả những bản viết của cô ta và rồi tôi bắt cô đốt hết tất cả trước mặt tôi. Bởi vì chúng chỉ nói về sự dữ, tôi sợ giữ chúng trong nhà. Vì thế cô ta ghét tôi, và tôi đã không hiểu tại sao; tôi cố gắng giúp cô ta thoát khỏi cái hố đen đó, nhưng tôi đã thất bại. Cô ta chế diễu tôi và sự thiện mà tôi đang cố gắng vươn tới.

Khi tôi đã trở về nhà sống với cha mẹ tôi, nhưng tôi cũng đang bắt đầu hẹn hò với một cô gái, cô này còn tồi tệ hơn cô trước. Trong vòng vài năm tôi đã sống trong thất vọng, khốn khổ, và bị mọi người quen biết trách móc. Dường như chung quanh tôi toàn là bóng tối; mọi nụ cười đều lìa xa tôi, và nước mắt cứ chực tuôn rơi. Tôi đã thất vọng, và tôi lại tự hỏi: "Tại sao tôi sống? Tôi là ai? Tại sao con người ở trên trái đất? Dĩ nhiên, các bạn hữu của tôi chẳng ai quan tâm đến những câu hỏi này, và trong lúc cực kỳ thất vọng, tôi đã kêu than: "Lạy Chúa, hết rồi! Con đây, trước nhan thánh Chúa, xin Chúa cứu giúp con!" Dường như tôi đã được nhận lời, bởi vì vài ngày sau cô bạn gái của tôi đã đi nhà thờ, đã rước lễ, và đã hoán cải một cách nhanh chóng.

Chẳng được hơn thì tôi cũng đã làm được tương tự. Tôi tình cờ đi vào nhà thờ trong khi đang rước tượng Đức Mẹ Lộ Đức. Người ta nhờ tôi khiêng bức tượng. Tôi đồng ý mặc dù cảm thấy rất ngượng. Về sau tôi rất lấy làm hạnh phúc về vinh dự này. Tôi rước lễ, và rất ngạc nhiên về cha giải tội, ngài tỏ ra ân cần và hiểu tôi. Tôi rời khỏi nhà thờ vừa tự nhủ: "Tôi đã làm được; tôi đã trở về với sự thiện." Mặc dù tôi không biết sự thiện là gì, tôi cảm thấy rằng tôi đã tìm thấy nó. Vài tuần lễ sau tôi nghe nói đến Mễ Du, nơi Đức Mẹ hiện ra từ năm 1981, cô bạn gái và tôi cảm thấy được thúc đẩy đi đến đó ngay lập tức bởi một sự kỳ diệu nào đó mà tôi không làm sao diễn tả được. Chúng tôi đã trở lại với Giáo Hội hoàn toàn. Chúng tôi yêu mến Thiên Chúa hơn yêu chính mình, nàng đã trở nên một nữ tu, và tôi dự tính làm linh mục. Có động lực sống và tin vào sự sống vĩnh cửu đã làm cho tôi quá hạnh phúc đến nỗi không thể nào che giấu được niềm vui của mình.

Không may, đây mới chỉ là bắt đầu. "Có kẻ nào đó" không sung sướng với cuộc đời mới của tôi. Vài năm sau tôi trở lại Mễ Du, và khi tôi trở về Roma, tôi nghe thấy tiếng vọng của bóng tối tương tự như tiếng vọng mà linh hồn tôi đã sống trong đó trước khi tôi khám phá ra Thiên Chúa. Sau vài tuần lễ, cảm giác này trở nên hiện thực. Tôi đổ lỗi cho sự áp bức của cha tôi, cho đời sống vất vả mà tôi đã sống, và niềm đau mà tôi đã tưởng lầm là đã được mọi người chia sẻ. Tôi bắt đầu đau khổ như chưa từng bị trước đó. Tôi toát mồ hôi ra, tôi lên cơn sốt, và tôi không còn tí sức lực nào cả. Tôi không thể tự mình ăn uống, phải có người đút cho ăn. Tôi cảm thấy rằng thể xác tôi là một kẻ xa lạ. Tôi đã bị những mối thất vọng dày vò, và tôi đã nhìn thấy, tôi đã biết không phải với cặp mắt của ai, một bóng tối kinh khủng không phải bóng tối trong căn phòng tôi ở hay cái giường tôi nằm suốt mấy tháng qua. Bóng tối này nhận chìm tương lai của tôi, khả năng sống còn của tôi, và bất cứ hy vọng nào về tương lai. Dường như tôi đã bị giết chết bằng một lưỡi dao vô hình, và tôi đã cảm thấy rằng kẻ nhấn con dao này ghét tôi và muốn một cái gì đó còn hơn cả cái chết của tôi. Thật rất khó có lời nào diễn tả được những điều tôi cảm thấy.

Sau nhiều tháng tôi trở nên quẫn trí. Tôi không còn lý trí nữa, và những người chung quanh tôi muốn đưa tôi vào nhà thương điên. Tôi không thể hiểu được điều tôi đang nói bởi vì tôi đang sống trong một nơi xa lạ, một nơi mà trong đó tôi đã đang chịu đau khổ. Xem ra thực tại đã tách lìa khỏi tôi. Dường như chỉ có thể xác tôi còn hiện diện trong thời gian, còn linh hồn tôi thì đang ở một nơi nào khác, một nơi khủng khiếp không có ánh sáng nào xuyên tới và là nơi không có chút niềm hy vọng nào.

Suốt nhiều tháng tôi vẫn ở giữa sự sống và sự chết, và tôi không thể suy nghĩ được nữa. Tôi mất bạn bè, người thân, và sự hiểu biết của gia đình tôi. Tôi đã ở ngoài thế giới; họ không còn có thể hiểu tôi, tôi cũng không có thể đòi hỏi họ cố gắng, bởi vì tôi biết điều tôi cảm thấy bên trong, và tôi biết tôi không bao giờ có thể diễn tả được nó. Tôi hầu như hoàn toàn quên những điều về Thiên Chúa, dù tôi vẫn hướng về Ngài với những dòng nước mắt và những lời phàn nàn không dứt. Tôi cảm thấy Ngài đã bỏ đi xa, một khoảng cách mà tôi không thể đo lường bằng những dặm trường nhưng bằng những từ chối. Tức là, có một cái gì đó trong tôi khiến tôi nói "không" với Ngài, với sự thiện, với sự sống, với tôi. Tôi nghĩ đến việc quay trở lại bệnh viện để được giúp đỡ, bởi vì tôi nghĩ rằng cơn sốt đã không rời bỏ tôi trong những tháng qua có nguồn gốc vật lý. Nếu tôi có thể chữa thể xác tôi lành tôi sẽ cảm thấy tốt hơn; tôi phải làm một cái gì đó.

Không bệnh viện nào ở Roma chấp nhận tôi chỉ vì tôi có bệnh sốt. Tôi phải vượt qua hai trăm dặm trước khi có được một bệnh viện nhận tôi. Tôi ở đó hai mươi ngày, và tôi đã trải qua mọi kiểu khám bệnh và xét nghiệm đã được biết đến. Tôi được cho về với một phiếu sức khoẻ mà các lực sỹ cũng phải thèm. Tôi được ghi nhận là khoẻ như voi, nhưng lại thêm một ghi chú rằng không ai có thể cắt nghĩa cơn sốt của tôi và tình trạng khuôn mặt của tôi, nó xưng phồng lên và trông giống như một xác chết.

Tôi trông trắng bệch như tờ giấy. Ngay sau khi tôi xuất viện vì các triệu chứng của tôi có thuyên giảm đôi chút, tôi liền bị những cơn khủng hoảng trầm trọng dày vò. Tôi nôn mửa nhiều lần. Tôi đã chịu mọi thứ mà một con người có thể chịu, và tôi thấy mình đang ở một nơi rất lạ của thành phố. Tôi không biết mình đến đó như thế nào. Chân tôi cứ tự ý di chuyển theo ý nó; tay chân và toàn thân tôi hoàn toàn ở ngoài vòng kiểm soát của ý chí. Đó là một cảm giác kinh khủng, tôi muốn điều khiển thể xác tôi, nhưng nó không vâng lời tôi; tôi không muốn bất cứ ai trải nghiệm điều này. Như thể tất cả điều này chưa đủ, bóng tối đã trở lại; bây giờ nó không chỉ nhận chìm linh hồn tôi nhưng cũng cả thế xác tôi nữa. Tôi thấy mọi sự dường như chìm trong đêm đen, mặc dù đang ở giữa ban ngày. Niềm đau của tôi dường như không thể tin được. Tôi bắt đầu hét lên, quằn quại trên mặt đất như thể bị lửa đốt, và tôi đã cầu xin với Mẹ Maria, vừa khóc: "Mẹ ơi! Mẹ ơi? Hãy thương con, vì con đang hấp hối!" Nỗi đau đớn của tôi vẫn không giảm, và sự chịu đựng của tôi đã lên đến cực điểm đến nỗi tôi mất cảm thức về phương hướng. Tựa vào những bức tường bên đường, tôi lần mò đến trạm điện thoại. Cuối cùng tôi cũng đã quay được số, suốt thời gian đó tôi vẫn phải dựa vào những tấm kiếng và tường của trạm điện thoại. Chỉ có một người tôi quen biết ở trong thị trấn đã đến đón tôi và đưa tôi trở về Roma. Trước khi người quen của tôi đến, tôi tỉnh táo lên được một chút, và tôi hiểu rằng tôi đã nhìn thấy hoả ngục. Tôi đã không chạm đến hoặc đi vào đó thực sự, nhưng tôi chỉ nhìn thấy nó từ xa. Kinh nghiệm này đã thay đổi cuộc sống của tôi hơn cả lần đi hành hương ở Mẽ Du.

Tôi vẫn cố gắng cắt nghĩa tình trạng của tôi như một vấn đề tâm lý; tôi đã không nghĩ đến những nguyên nhân siêu cảm. Tôi cố gắng cắt nghĩa nó như là kết quả của sự áp chế từ phía ba tôi, của những chấn thương tuổi trẻ, những cú sốc về tình cảm, những thích ứng sai lạc, và những lý do khác. Thông qua những yếu tố này, tôi lý giải tình trạng hiện tại của tôi. Tôi đã tự học khoa tâm lý năm năm, và tôi nghĩ rằng tôi đã đạt được một một chẩn đoán đúng về cơn đau của tôi. Một tu sĩ đã khuyên tôi nhờ một thừa tác viên đặc sủng, người thông hiểu và hành động dưới sự hướng dẫn chặt chẽ của đức giám mục. Vì người ta cho tôi lời khuyên này nhân ngày lễ kính Đức Mẹ chỉ bảo đàng lành, nên tôi đã thi hành. Thừa tác viên này bảo tôi: "Có một kẻ nào đó đã bỏ bùa tử cho anh. Cách đây tám tháng anh đã ăn phải một trái cây có yểm bùa." Tôi bật cười và hoàn toàn không tin vào ngài. Sau đó, tôi bắt đầu suy nghĩ về những lời của ngài, tôi đã bắt đầu nuôi hy vọng. Đó là một cảm giác mà tôi đã có, nhưng đã quên, và tôi bắt đầu nghĩ ngược trở lại tám tháng trước. Tôi tự nhủ: "Thôi đúng rồi! Tôi thực sự đã ăn trái cây đó." Tôi nhớ lại rằng tôi đã không muốn ăn nó vì lúc ấy tôi bỗng cảm thấy kinh tởm kẻ đã đưa nó cho tôi. Khi mọi sự đâu vào đó rồi, tôi làm theo lời khuyên mà tôi đã nhận được, đó là xin "được trừ quỷ".

Tôi bắt đầu tìm kiếm một nhà trừ quỷ. Thấy tôi tìm kiếm, các linh mục và giám mục cười tôi và làm tôi phải nhục nhã. Ở đây tôi khám phá ra một khía cạnh của Giáo Hội đã bị làm méo mó bởi các vị chủ chăn. Cuối cùng tôi đã gặp được cha Amorth. Tôi còn nhớ cái ngày rất tốt lành đó. Tôi vẫn chưa biết "làm phép đặc biệt" là gì. Tôi đã tưởng đó là dấu Thánh giá mà linh mục làm sau Thánh Lễ. Tôi ngồi xuống, và cha Armoth đặt dây stola chung quanh vai tôi và một tay trên đầu tôi. Ngài bắt đầu đọc kinh bằng tiếng Latin, nhưng tôi không hiểu những lời ngài đọc. Sau một lúc tôi cảm thấy một làn sương lạnh, hầu như lạnh buốt, đổ xuống trên đầu tôi và trên toàn thân. Lần đầu tiên trong gần một năm trời cơn sốt rời khỏi tôi. Tôi không nói gì. Cha tiếp tục và từng chút từng chút, hy vọng bắt đầu sống dậy trong tôi. Ánh sáng ban ngày bắt đầu trở lại, tiếng chim hót không còn giống như tiếng quạ kêu nữa, và những tiếng động chung quanh tôi không còn ám ảnh nữa; chúng chỉ đơn giản là những tiếng động. Cho đến lúc ấy tôi đã sống với những cái nút đậy tai, bởi vì một âm thanh nhỏ nhất cũng làm cho tôi giật mình.

Cha Amorth hẹn tôi trở lại, và vừa khi tôi ra về, tôi cảm thấy tràn ngập một ước muốn: muốn cười, muốn hát, muốn vui tươi. Tôi tự nhủ: "Thế là xong, thật là tuyệt vời!" Đó là sự thật, tôi cảm thấy tất cả những điều tôi đã diễn tả, tất cả những nỗi đau của tôi, đã bị một "kẻ nào đó" ghét tôi gây ra, và tôi đã không bị điên. "Đó là sự thật", tôi lặp đi lặp lại một mình trong xe: "Đó là tất cả sự thật". Ngày hôm nay, sau ba năm, với nhiều lần trừ quỷ, tôi bình thường trở lại. Tôi đã khám phá ra rằng hạnh phúc đến từ Thiên Chúa chứ không từ những chiến thắng và nỗ lực của chúng ta.

Sau một cuộc trừ quỷ đơn giản, sự dữ, cái gọi là bất hạnh, nỗi u buồn, sự thống khổ, những chứng đau chân, sự căng thẳng thần kinh, chứng mất ngủ, nỗi sợ bị tâm thần phân liệt hoặc động kinh (tôi đã bị ngã xuống vài lần), và nhiều dấu hiệu của các bệnh tật đã biến mất. Ba năm đã trôi qua, tôi đã có bằng chứng để chứng minh - dĩ nhiên chỉ mình tôi - rằng ma quỷ có thật, và rằng chúng hoạt động nhiều hơn chúng ta tưởng. Chúng làm mọi thứ để không bị phát hiện. Thậm chí chúng làm cho chúng ta tin rằng chúng ta mắc bệnh này bệnh khác, trong khi đó chính chúng là tác giả của mọi sự dữ. Tuy nhiên, chúng run sợ trước một linh mục cầm chổi rảy nước thánh trong tay.

Tôi đã quyết định viết lại kinh nghiệm của tôi để cảnh giác các độc giả. Trong khi tôi không may đã trải nghiệm tính chất độc ác của sự dữ đến tột đỉnh, thì không ai trong chúng ta có thể không để ý đến khía cạnh này của đời sống chúng ta. Hồi tưởng lại, tôi vui mừng vì Thiên Chúa đã cho phép tôi trải qua một cuộc thử thách khắc nghiệt như thế, vì bây giờ tôi đang bắt đầu gặt hái những hoa trái của muôn thương đau. Linh hồn tôi đã được thanh tẩy, và tôi nhìn thấy cái mà tôi không thể thấy trước kia. Trên hết, tôi ít hoài nghi hơn và ý thức hơn về thực tại chung quanh tôi. Tôi đã nghĩ rằng Thiên Chúa đã bỏ tôi; bây giờ tôi nhận ra rằng đó chính là lúc mà Ngài uốn nắn tôi để tôi sẵn sàng gặp Ngài.

Tôi cũng muốn khuyến khích những ai có những chứng bệnh như thế thì cũng đừng ngã lòng. Tôi báo trước cho bạn đừng tin vào những điều mắt bạn trông thấy. Đừng tin rằng Thiên Chúa bỏ rơi bạn, cho dù tất cả dường như có vẻ rõ ràng như thế; nó không thật đâu. Khi xét kỹ mọi sự, bạn sẽ có bằng chứng rằng Thiên Chúa đã ở cùng bạn. Tất cả điều mà bạn phải làm là kiên trì, cả nếu khi nó kéo dài nhiều năm. Tôi cũng tin rằng quyền năng của việc trừ quỷ đến từ Thiên Chúa chứ không đến từ nhà trừ quỷ hay bệnh nhân. Kinh nghiệm của tôi cho hay rằng hiệu quả của việc trừ quỷ liên quan đến ý muốn hoán cải của bệnh nhân hơn là chính việc trừ quỷ. Việc xưng tội và rước lễ có giá trị như một cuộc trừ quỷ cấp độ. Sau một cuộc xưng tội tốt, những đau đớn mà tôi đã mô tả trên kia biến mất ngay lập tức. Khi rước lễ, tôi đã cảm thấy một sự ngọt ngào mà tôi đã không tin là có thể có.

Những năm trước đây, trước cả khi tôi bị đau khổ, tôi vẫn đi xưng tội và Rước lễ. Vì tôi chưa bị đau khổ, nên tôi đã không nhận ra rằng những việc đạo đức đó đã là một hình thức ngăn ngừa khỏi sự dữ. Bây giờ tôi đã biết, tôi xin mời mọi người, nhưng nhất là những người nguội lạnh, hãy tin rằng Thiên Chúa thực sự hiện diện ở toà giải tội và trong Bánh Thánh mà chúng ta vẫn thường lãnh nhận một cách thất thường.

Tôi cũng muốn mời những người hoài nghi hãy tin tưởng, trước khi "một ai đó" giúp bạn ngược lại ý muốn của bạn. Sau cùng tôi hướng về những người bị quỷ ám đáng thương - không ai đáng thương hơn họ. Họ bị Satan ghen ghét, nó dùng chính những bạn hữu và những người thân để giết họ hoặc áp bức họ. Tôi khuyên các bạn đừng đánh mất đức tin; đừng bỏ mất niềm hy vọng. Đừng để ý chí bạn phải chịu những kích thích quá đáng hoặc những ám ảnh mà ma quỷ trình bày cho bạn.

Mục tiêu thực sự của Satan không phải là làm cho bạn đau khổ hoặc làm tổn hại bạn. Nó không tìm kiếm những đau khổ của bạn nhưng là tìm kiếm một cái gì đó còn hơn thế nữa. Nó muốn linh hồn chúng ta bị đánh bại để phải thốt ra: "Đủ rồi. Tôi đã bị đánh bại; tôi là một miếng đất sét trong tay thần dữ. Thiên Chúa không thể giải thoát tôi. Thiên Chúa đã quên các con cái Ngài nếu Ngài cho phép đau khổ như thế xảy ra. Thiên Chúa không yêu thương tôi; ma quỷ vĩ đại hơn Ngài." Đây là chiến thắng thực sự của thần dữ. Chúng ta phải mắng trách nó, dù cho chúng ta không còn đức tin nữa vì nỗi đau làm cho đức tin ra mờ đục. "Chúng ta phải muốn đức tin." Ma quỷ không thể động chạm đến ý chí chúng ta. Ý chí của chúng ta không thuộc về Thiên Chúa hoặc ma quỷ; nó thuộc về riêng chúng ta bởi vì Thiên Chúa đã ban nó cho chúng ta khi Ngài sáng tạo nên chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn nói "Không" với những kẻ muốn phá huỷ nó. Chúng ta phải tin, giống thánh Phaolô, rằng "Nhân danh Chúa Giêsu Kitô mọi đầu gối, trên trời dưới đất và trong hoả ngục, phải quì xuống."

Đây là ơn cứu độ của chúng ta. Nếu chúng ta không tin vững chắc, thì sự dữ đã ám vào chúng ta - cho dù qua những bùa ngải hay những lời nguyền rủa - sẽ còn tiếp tục kéo dài nhiều năm mà không có bất cứ tiến bộ nào. Tôi cũng muốn củng cố cho những ai tin mình bị điên và không tin có phương thế nào có thể chữa trị cảnh ngộ khốn khổ của mình. Tôi có thể làm chứng rằng: sau nhiều lần trừ quỷ, sự dữ này sẽ biến hết như thể chúng chưa bao giờ có mặt. Do đó, chúng ta đừng có sợ hãi, nhưng hãy tán dương Thiên Chúa vì Thánh giá mà Ngài ban cho chúng ta. Sau Thánh giá luôn luôn có phục sinh, cũng như sau đêm đen luôn luôn có ngày tiếp nối; mọi thứ đều được tạo dựng nên như thế. Thiên Chúa không nói dối, và chúng ta đã được chọn để bước đi với Chúa Giêsu Kitô vào vườn Giệtsimani; chúng ta hãy đồng hành với Ngài trong những đau khổ của Ngài để được phục sinh với Ngài.

Tôi xin dâng lời chứng của tôi cho Đức Maria Vô Nhiễm. Tôi hy vọng rằng, dưới sự hướng dẫn của Mẹ, anh chị em tôi sẽ được nâng đỡ trong lúc đau thương. Với tất cả những người đã từng là dụng cụ cho sự dữ gây ra những đau đớn mà tôi phải chịu, tôi xin đáp trả lại bằng tình yêu, sự tha thứ, những nụ cười và những lời chúc phúc. Tôi cầu xin để những đau khổ của tôi sẽ hướng dẫn họ tới ánh sáng mà tôi đã lãnh nhận được từ nơi Thiên Chúa cao cả của chúng ta.

G.G.M

o0o

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth