-3.PHẦN THẦY VÀ THUỐC.
Bệnh chẳng tìm thầy khỏi được rất ít,
Thuốc không đối chứng chết uổng cũng nhiều.
Muốn tìm thầy hay để theo
Nên kiếm Bốc sư mà hỏi.
Ứng là thầy lang,(ngộ) Không thời đi vắng chẳng gặp,
Tử là thang thuốc, Phục là trị bệnh không hay.
Quỷ động trong quẻ: uống thuốc không khỏi được nhanh,
Không đóng Thế hào: tìm thầy ra chiều gượng ép.
Quan vượng, Phúc suy: thuốc thang ít mà bệnh nặng,
Ứng suy, Thế vượng: nhà bệnh giàu mà thầy nghèo.
Phụ mẫu không ưa trì thế,
Quỷ sát chẳng thể lâm Thân.
Quan hóa Quan: bệnh nhiều biến chứng,
Tử hóa Tử: thuốc tạp không hay.
Phúc hóa Kỵ hòa: ngộ thuốc xui nên uổng mạng,
Ứng lâm Quan quỷ: Lầm thang(thuốc) đến nỗi bệnh tăng.
Quỷ đới Nhật thần: phải đâu cứu bệnh,
Ứng lâm Nguyệt kiến: chắc hẳn quan y (thầy thuốc giỏi)
Phụ mẫu phục tàng: tuy là thầy mà chưa tường mạch lý,
Quỷ hào không hiện: có dùng thuốc cũng chẳng rõ bệnh nguyên.
Chủ tượng ngộ Tuyệt, bị thương: Lữ Y khó cứu,
Phụ hào phát động đắc địa: Biển Thước đành thua.
Xét Quan hào mà dùng thuốc: Hoả, Thổ hàn lương,
Nghiệm Phúc đức để đón thầy: Sửu, Dần Đông bắc.
Thuỷ đới Tài hưng: phải kiêng cá tươi, sống, lạnh,
Mộc gia Long trị: nên cần tĩnh tại khoan thư.
Tài hợp Dụng thần ở ngoại quái: ói(nôn) được thì yên,
Tử gặp hoả đức đóng Ly cung: cứu(đốt) là phải khỏi.
Quẻ Khảm Tử tôn: cần nên phát hãn (làm toát mồ hôi)
Mộc hào Quan quỷ: trước phải sơ phong (đánh gió)
Dụng vượng có phù: đừng tái bổ,
Quỷ suy thuộc Thổ: chớ dùng châm.
Phúc, Quỷ đều Không: thời chẳng chữa cũng khỏi,
Tử, Quan cùng động: nên nội bổ, ngoại tu.
Quẻ động hai Tử tôn: dùng thuốc cần nên gián phục,
Quỷ thương hai gián: Lập phương phải dụng quan hung.
Phụ hợp biến Tử tôn: chi bằng đóng cửa hưu dưỡng,
Ngũ(hào) hưng hoá Phúc đức: thì tìm cây cỏ uống, hay.
Thế, Ứng tỵ hoà không Phúc đức: thì phải đổi thầy,
Tài, Quan phát động Tử tôn không: uổng công uống thuốc.
=0=
-5.PHẦN CHIÊM BỆNH DO QUỶ THẦN.
Vài lời thành ý nhắn nhủ cùng các bằng hữu:
Trong cái nhìn hiện đại thì lẽ Dịch được sử dụng phần lớn như một công cụ mà bỏ qua phần Triết thuyết, nếu dùng cách phân tích của Tây học áp dụng cho Đông học e chừng quá khập khiễng chăng?
Phần chiêm bệnh do Quỷ thần lại dùng Dịch soi ánh sáng vào cõi Trung giới siêu hình tìm nguyên nhân tật bệnh. Nếu có bằng hữu nào muốn sử dụng trong học thuật của mình cần cực kỳ cẩn trọng vì luận giải tuy đơn giản nhưng bao hàm nhiều cái được coi là mê tín dị đoan. Thế giới siêu hình và hữu hình ngàn đời gắn kết với nhau thành một thực thể khó có thể tách rời, chỉ sợ có ngưòi vì lệch lạc trong quan niệm, hoặc quá câu nệ lạm dụng, hoặc quá coi thường xem khinh, vô tình hay hữu ý cứ tưởng tạo Phúc lại đang gây Hoạ.
Rất, rất mong Quý vị lưu tâm.
SPT vô cùng cảm tạ.
PHẢI CÚNG RỒI MỚI XEM VÀ ĐOÁN.
Quẻ(có)Không, Phá Hưu tù là
Quỷ thần chẳng có phiền hà người đâu!
Quỷ Kim nên bị ốm sầu,
Là do Thần Võ ở đầu Tây phương.
Hưu tù là vong tai ương,
Gươm đao, tên đạn, gây nên nạn này.
Quỷ Mộc: Văn Thần, Đông nay,
Suy ra hồn tựa cỏ cây bám vào.
Quỷ Thuỷ: Bắc, Thuỷ Thần vào,
Suy: hồn chết đuối hồ ao sông ngòi.
Quỷ Thổ, Hoả tương tự thôi,
Hương hoa, ngựa giấy ấy thời cúng dâng.
Yêu, Quỷ thấy bạc thời mừng,
Tuỳ phương mà tiễn vào chừng đầu đêm (giờ Tuất, Hợi)
...........oOo...........
Sơ động Thổ thần,
Nhị động Táo quân.
Tam vi yểu tử nam thương,
Tứ vi thổ chủ tiền đường mà ra,
Ngũ động Phật tự nội gia,
Lục động ấy là mồ mả tổ tông.
Quan lâm Nhật Nguyệt: táng vong,
Quỷ động: cựu chồng, Tài động: vợ xưa.
Tử động: con thác mất mồ,
Phụ động: cha mẹ, ông bà chẳng an.
Huynh động: anh em trong nhà,
Huynh đệ trì Thế: đúng là anh em. Hồ ly: Quỷ động Kim đây,
(vong)Mắc phải đao kiếm, lạc thây chiêu hồn.
Mộc động: lôi giáng (sét đánh) mộ phần,
(vong)Té cây, thắt cổ, Mộc thần Đông phương.
Quỷ Mộc động hào: nam thương,
Động vong trầm xác tĩnh giang,Thủy thần.
Lại xem Quỷ Thủy mà phân,
Quỷ(hào) sơ: Thủy phủ, Quỷ nhì: Thủy tinh.
Quỷ tam: Khao binh,
Quỷ tứ: Hành khiển
Quỷ ngũ: Phạm Nhan,
Quỷ lục: Hà Bá.
Lại xem hóa Quỷ Hỏa phần,
Hóa nhì: Táo quân, tam: bỏ thân miệng hùm(vong bị hổ ăn thịt).
Lại xem lục thần quỷ ma,
Long Thủy: Hà Bá, giang hà Thủy quan.
Long Thế: đắc tội Thành hoàng,
Long lâm Hỏa, Thổ: hàm oan ông bà.
Long Kim: đao kiếm quỷ ma,
Long Mộc: thắt cổ cây, nhà lân hương (trong vùng).
Tước Thế động: là Già lam,
Quên hứa Phật đàng nên bị ốm đây.
Tước lâm Kim, Mộc lúc này,
Thủy long, Hà Bá bắt rầy chẳng sai.
Tước Thổ: Thổ thần giáng tai
Tước động lâm Hỏa: Hỏa tinh đây mà.
Tước lâm Huynh đệ chẳng hòa,
Khẩu thiệt van vái mãi mà chẳng an.
Trận Thế: Ôn ti vậy mà,
Trận lâm Kim, Mộc động: ra lễ thần!
Xà, Mộc động: Sơn lâm tinh,
Đăng sơn(lên núi) mắc phải nên mình chẳng an.
Long ở Kim động: tai ương,
Nhược bằng xem bệnh thấy thường ở tim.
Hoặc là sinh chứng nổi chìm,
Thổ thần, Hà bá phải tìm khấn mau.
Táo quân cúng lễ cũng mầu,
Bà cô, Ông mãnh khẩn cầu cũng xong.
Thanh long vốn đã xét rồi,
Chu tước Kim, Thủy vẫn hồi gian truân.
NHớ khi xem bệnh cầu thần,
Nhức đầu, lo lắng, tay chân đau rền,
Lễ cầu Thổ địa chủ tôn,
Thương vong, tuyệt mệnh, gia môn yên lành.
Bệnh thì đau mắt lâu lành,
Táo quân bị uế đã đành chẳng sai.
Câu trận tứ Mộ: bệnh ma,
Nếu muốn chữa chạy thì ta nhủ mình.
Bênh thì hàn nhiệt, phù hình,
Bắc phương thai quỷ, nạn đành Ôn vương.
Táo quân, Tuyệt mệnh cô nương,
Thành tâm lễ ở tùy phương khấn cầu.
Ốm mà hay thấy bụng đau,
Từ đường vong ở đằng sau liễn mà!
Đằng xà giải: mộng bất tường,
Xà động chủ Tử: tang thương đến mình.
Vốn xà là con yêu tinh,
Động mà lâm Thế e rằng khó chơi!
Tang phù bệnh lão tơi bời,
Hào sơ còn độc hơn ngoài tứ(hào bốn) môn.
Xà động thì bệnh vãng lai,
Chân tay, đầu mắt, ù tai ưu phiền.
Hôn mê, lại những cuồng điên,
Lễ Thiên Địa với(quan) đương niên mới lành.
Bạch hổ: bệnh ốm lâu ghê,
Sơn thần, Thủy phủ đi về làm đau!
Phải nên thành kính khẩn cầu,
May ra lại được giáng câu thọ trường.
Lại thêm Hổ động chủ tang,
Lâm Thế mà động cũng ngang Đằng xà.
Trung phương (Thổ) Huyền vũ giao tranh,
Bệnh thì luẩn quẩn lâu lành, mau suy!
Táo quân, Thủy phủ thần kỳ,
Ngũ đạo công chúa, Tuyết thi, thủy thần.
Hoặc là đã phậm Sơn thần,
Lễ cầu, khấn vái, mười phần chẳng lo.
Tý vi Ông, Sửu vi Bà,
Dần là Cô tổ, Mão là Bà cô,.
Thìn là Thúc bá, Khao binh,
Vì chưng Hành khiển, Thủy thần bắt tai.
Tỵ là Mãnh tướng chẳng sai,
Vong cô có kẻ xảy tai thấy buồn.
Ngọ là ông Táo gây nên,
Mùi là Thổ chủ, Thành hoàng đại vương
Hào Thân mắc phải Mộc thương,
Cũng vì Hành khiển, Ngũ ôn người hành.
Dậu là Thổ địa thần linh
Trông nhà ắt có tà tinh quấy rầy.
Tuất là Quách Cảnh đại vương,
Trong nhà có kẻ đau thương nạp đầu.
Hợi là Phật tự khấn cầu,
Trong họ(có người) trầm thủy thác lâu lầm đường.
Cõi âm Thập điện Diêm vương,
Chết đuối chìm xác nên vương bệnh này.
........ HẾT PHẦN TẬT BỆNH.........
Bookmarks