SỰ MINH TRIẾT ẨN VI TRONG THÁNH KINH THIÊN CHÚA GIÁO
Trong một phiên nhóm vấn đáp, ông G.Hodson đã có giảng về ý nghĩa tượng trưng của những chuyện có ẩn ý của Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo. Ngài có đưa ra chìa khóa để hiểu phần bên trong Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo cũng như trong các Kinh Thánh khác.
Sự trình bày đây không có ý làm giảm bớt giá trị lịch sử của Kinh Thánh, nhưng trái lại, ngụ ý củng cố sự thông hiểu đúng đắn ẩn vi trong đó dù thuộc về tôn giáo nào cũng vậy. Những Kinh Thánh được gọi là ngôn ngữ huyền bí do các nhà huyền bí học chân chính viết ra với ngụ ý: một mặt đưa ra lịch sử của một vì giáo chủ, một mặt trình bày chân lý sâu xa ẩn dưới lớp của những biểu tượng hay những chuyện tượng trưng. Điều này có mục đích giúp người học đạo thấu được lý nhiệm mầu, tránh cho người chưa sẵn sàng một nguy hại về sự lạm dụng khoa pháp môn, cứu nhân loại khỏi sự tàn sát kinh khủng.
Vậy tuy là căn cứ trên nền tảng lịch sử; nhưng ngôn ngữ được diễn tả dưới hình thức tượng trưng ẩn lý một chân lý thâm sâu với nhiều ý nghĩa.
Đức Christ đã có dặn các đệ tử của Ngài: “Với các con thì Ta có thể dạy trực tiếp giáo lý nhiệm mầu của Chúa, còn đối với người ngoài thì ta dạy dưới hình thức những chuyện ngụ ngôn. Ai có tai thì hãy nghe, ai có mắt thì hãy thấy.”
Nhiều nhà bác học cho những chuyện trong Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo rất khó tin, vì những chuyện đó không giải thích được phương diện vật lý học, khoa học. Đó là những chuyện mà người ta cho là phép lạ tỉ như làm cho nước trở thành rượu nho, phân chia thức ăn hóa thành nhiều, cứu người chết sống lại v.v… Nhưng những chuyện đó thật ra ở phạm vi quyền năng nhiệm mầu của những đấng cao cả; và thật ra nếu ta không biết được những chìa khóa để hiểu bên trong những chuyện đó thì khó cho ta giải thích đặng. Chính giáo lý Thông Thiên Học đưa cho chúng ta những chìa khóa nhiệm mầu.
Kinh thánh Thiên Chúa Giáo cũng như các Kinh Thánh khác, dùng một thứ ngôn ngữ đặc biệt ẩn dưới những chuyện tượng trưng. Ngôn ngữ này dùng để dạy những tư tưởng siêu linh, để tả những trạng thái vô cùng siêu linh mà ngôn ngữ thường không có đủ lời để diễn đạt được.
Vậy mỗi khi ta đọc Kinh Thánh, ta nên nhớ ta đang đọc một loại sách đầy chân lý ẩn vi mà chúng ta cần có một thứ tự điển để hiểu nghĩa.
Ông G.Hodson có đưa ra 4 chìa khóa và nhắc lại rằng ông không có ý làm giảm giá trị lịch sử mà trong đó có nhiều chuyện ông tin đã xảy ra thật sự, nhưng ông tin rằng một khi bức màn biểu tượng được vén lên thì chân lý được phô bày một cách rõ rệt và trường cửu. Và chân lý này là những điều mà những nhà viết Thánh Sử muốn cho chúng ta thông hiểu.
Đây là chìa khóa thứ nhất: những chuyện kể ở trong sách xảy ra ở thâm tâm của người đọc truyện. Nó liên quan đến con người bên trong. Nó tả những kinh nghiệm riêng của dự tiến hóa bên trong của các bạn, cũng như của tôi.
Thí dụ như sự giáng lâm của Chúa Hài Đồng. Sự ấy chẳng những tả sự lâm phàm của Đức Jesus tại thành Bê Lem, nó còn tả cái Thiên Tánh hay Phật Tánh trong lòng mỗi một chúng ta, mà chúng ta cần phải làm nảy nở, phát triển. Vậy khi đọc loại sách này, chúng ta ráng hiểu với cái tâm rộng của chúng ta, vì tôi xin nhắc lại: Thánh Kinh chúng ta đang xem là chuyện có ở trong lòng chúng ta.
Còn cái chìa khóa thứ hai là: những nhân vật trong chuyện là để tả tâm tánh hay trạng thái tâm thức của con người. Những nhân vật đó tượng trưng cho đặc tánh của con người (tốt cũng như xấu) và những quyền năng thiêng liêng và như trong chuyện Giu Da bán Chúa vì ganh tị với bạn đồng môn, và Thánh Jean là tượng trưng cho đức tánh trung thành.
Và khi chúng ta dùng chìa khóa thứ nhất và thứ hai chung với nhau, nó chỉ tâm tánh trong cá nhân chúng ta. Nhờ cách này mà tôi hiểu được chuyện quan trong sau đây: Một hôm kia Đấng Christ đến nhà người đệ tử của mình tên là Lazare ở tại thành Béthanie. Ông Lazare có hai người chị: Marie và Martha. Khi Đấng Christ đến thì Martha lăng xăng lo công việc đứng ngồi không yên, còn Marie thì lặng lẽ ngồi dưới chân Ngài. Martha đã lo việc mà bị trách, còn Mary thì ngồi không mà được khen. Việc này có vẻ bất công, nhưng bây giờ tôi hiểu được rằng: Muốn nghe được tiếng nói nhiệm mầu của Chân nhân là Đấng Christ thì chúng ta phải lặng yên như Mary vậy, còn hạ trí chúng ta lau chau (lo chạy việc như Martha ngăn cản sự thực hiện đó). Những việc đó xảy ra trong người của chúng ta là Lazare ở tại cõi trần này hay là thành Bethanie. Chuyện này chỉ cho chúng ta thấy, muốn thực hiện Chân Nhân trong lòng ta, sự tham thiền quán tưởng là trọng đại, là cần thiết, mặc dầu khi đó chúng ta phải lo chu toàn những công việc ngoài đời.
Chìa khóa thứ ba là mỗi chuyện kể là để chỉ sự tiến triển của con người trên con Đường Đạo. Sự tiến triển này có hai cách: cách của “con đường thẳng” hay “con đường chật hẹp” và cách thông thường của quần chúng. Những cách này tả rất khéo léo và áp dụng một cách thực tế cho mỗi cá nhân cũng như cho mỗi dân tộc.
Và đây là một vài giai đoạn: sự giáng lâm của Chúa có nghĩa là khi chúng ta mãnh liệt hường về một lý tưởng hay một con đường Đạo Đức, đó cũng có nghĩa là lúc chúng ta ráng thực hiện những nguyện vọng, những lý tưởng (về tinh thần cũng như về vật chất). Một hai khi khác, chúng ta bị ở trong bể trầm luân phiền não. Và với lòng can đảm và sự trì chí, chúng ta vượt qua được sự thử thách đó với sự được thêm quyền năng và ân huệ, không khác nào khi từ ở sông Jordan bước lên bờ, Đức Jesus được Chúa Cha và Thánh Thiên Thần hiện xuống mừng sự thắng trận này và ban ân huệ cho Ngài.
Chúng ta một hai khi bị cám dỗ nơi “cảnh hoang vu”. Cảnh hoang vu này tượng trưng trạng thái khô khan, trơ trọi của tinh thần, khi những hạ thể quật khởi lên, dụ chúng ta từ bỏ những chân lý, những lý tưởng mà chúng ta đã thấu được.
Đó là khi Đức Jesus bị quỷ Satan cám dỗ về danh, lợi ở một miền hoang vu kia. Lúc khác chúng ta cảm thấy bị bạn bè thân thiết bỏ rơi, những người mà chúng ta tin cậy cũng ngoảnh mặt làm lơ. Cảnh ở vườn Gethsemani tượng trưng trạng thái đen tối của tâm hồn, Đức Jesus cảm thấy những khó khăn mình phải trải qua, chén đắng mình phải uống, và nhìn xung quanh thì thấy những đệ tử của Ngài bỏ Ngài, hãm hại Ngài hay đang mê man ngủ.
Mỗi cá nhân, mỗi dân tộc hay là nhân loại nói chung, đều trải qua cảnh bi kịch vác thập tự giá có khi nhiều lần trong nhiều kiếp. Một lúc kia, ta bị phản bội, bị ở cảnh chi phối lẻ loi, bản ngã bị đóng đinh, không người giúp đỡ. Và chính Đức jesus cũng phải than rằng: “Hỡi Chúa Cha, sao Cha bỏ Con!”
Hầu hết chúng ta với một trình độ khác nhau đều trải qua giai đoạn đó, để về sau thực hiện một cách thâm sâu “mình với Thượng Đế chỉ là một”. Đức Jesus đã được sự nhiệm mầu đó và Ngài biết rằng con người thật là bất diệt và không còn bao giờ cảm thấy mình là lẻ loi nữa.
Vậy trong đời sống của Chúa mà Thánh Kinh đã ghi lại dưới hình thức tượng trưng từ giai đoạn lâm phàm, chịu đóng đinh đến lúc lên Trời, diễn tả một cách rõ rệt những giai đoạn tiến hóa của sự sống của người thường nhân, của vị đệ tử, của bậc đã được điểm đạo và của những Đấng Chân Tiên.
Một ngày kia chúng ta sẽ trải qua một cách đấy đủ đời sống của Chúa, đến lúc trở thành được như Chúa là trở về với Đức Chúa Cha. Những giai đoạn điểm đạo đang chờ tất cả những ai đã tìm thấy hay đang dấn bước trên con đường toàn-thiện.
Cái chìa khóa thứ tư là: trong ngôn ngữ thiêng liêng, những đồ vật đều có một ý nghĩa đặc biệt. Đã từ nghìn xưa, trong các Pháp môn, bên đông phương cũng như bên tây phương đều dùng những biểu tượng giống nhau. Cũng như giáo lý bên trong của pháp môn ấy cũng giống y nhau.
Chúng ta nên nhớ một hình vẽ là một “biểu tượng vẽ” và một bài ngụ ngôn là một “biểu tượng nói”. Những biểu tượng thuộc về một trong 4 chất sau đây: đất, nước, lửa, không khí. Mỗi chất này chỉ một trạng thái tâm thức của con người.
Những đồ vật gì ở cõi trần (đất) có nghĩa tâm thức ở cõi trần được nảy nở. Những chuyện xảy ra dưới nước liên hệ đến tình cảm. Lửa tượng trưng sự tiêu diệt hoặc khuynh hướng đả kích của cái trí. Lửa cũng tượng trưng thần lực con người và trong vũ trụ. Không khí tượng trung trực giác.
Đó là những chìa khóa để mở các kho tàng của các Thánh Kinh hay những chuyện thần thoại. Kho tàng ấy hiện cho những ai đi tầm lẽ Đạo và biết cách dùng sự hiểu biết mình. Kho tàng ấy ẩn đối với những người mà sự hiểu biết về khoa pháp môn có thể đem lại sự nguy hại.
Bây giờ chúng ta thử áp dụng những chìa khóa ấy đối với Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo.
Những núi non là trạng thái tâm thức tuy ở hồng trần nhưng được nâng lên một mực độ cao. Thí dụ như ông Moisen nhận được Mười điều răn “ở trên núi”. Đức Chúa giảng Đạo và đạt đến sự hiệp nhất tinh thần cũng “ở trên núi” Những cánh đồng bằng tượng trưng tâm thức vừa chớm nở và những thung lũng là những trạng thái của hạ trí. Vườn tược, ruộng lúa chỉ tỏ kết quả về tinh thần hay sự bước qua giai đoạn mới của con đường tinh thần. Thí dụ như sự tích vườn thiên đàng là mở đầu kỷ nguyên mới của sự tiến hóa nhân loại. Sa mạc và cảnh hoang vu là trạng thái khô . khan của tư tưởng, khi lý tưởng của mình bị lung lạc và ước vọng cao cả của mình biến mất. Những thú vật cũng có ý nghĩa tượng trưng những dục vọng.Sư tử, hổ báo là sự ham muốn, mê say vật chất mà những ai muốn tiến mau trên đường Đạo đều sẽ phải đối phó, đối phó riêng một mình và phải thắng chúng nó. Sự thắng trận này không có nghĩa là diệt dục vọng mà làm cho nó trở thành những sức mạnh hướng về tinh thần. Chúng ta có một thí dụ ở ông Samson, là người có sức mạnh vô song, khi đi đường Đạo, đã phải giáp chiến với sư tử, và giết nó với tay không ( nghĩa là không có sự giúp đỡ bên ngoài).
Nước, như đã nói, tượng trưng cho giới tình cảm và cảm tưởng của con người, còn rượu, nghĩa là nước biến thể- thì tượng trưng trực giác và sự Minh Triết.
Con cá tượng trưng cho tâm thức của Chúa, cho sự Minh Triết và lòng Bác ái. Từ thời cổ, trước kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo, người ta đã dùng con cá để tượng trưng tâm thức siêu việt đó.
Con chim bay trên không khí tượng trưng cho tinh thần cao hơn cõi vật chất, và nó cũng tượng trưng cho Thiêng Liêng.
Lửa là biểu tượng cho sự lau chau của cái trí hay cái lý luận của hạ trí làm cho chân lý khó hiện ra được. Nó cũng để chỉ sức mạnh thiêng liêng trong con người và trong vũ trụ. Những cây, những cột tượng trưng cho đường xương sống mà trong đó có luồng hỏa xà được khơi dậy và con người sẽ có được sự Minh triết và quyền năng.
Hôn nhân là sự phối hợp giữa phàm nhơn với Chơn nhơn và về sau là sự phối hợp với chơn thần. Trong Thánh Kinh có kể chuyện rằng một hôm kia Đấng Christ đi dự một lễ cưới tại thành Cana. Lúc đó không có rượu uống và Ngài làm cho nước hóa thành rượu. Điều này có nhĩa rằng khi Chơn Nhơn nhập làm một với phàm nhơn (tượng trưng bởi hôn nhân), tình cảm (nước) trở thành trực giác (rượu).
Còn chuyện Đấng Christ làm bão tố yên lặng là một chuyện tượng trưng rất sâu xa mà phương pháp dùng để diễn tả thật là khéo léo. Câu chuyện ấy như sau. Các vị đệ tử giương buồm cho thuyền ra khơi biển hồ Galilée. Những người này điều khiển chiếc thuyền trong khi Đức Thầy đang theo họ thì nằm ngủ. Mọi việc đều suôn sẻ cho đến khi một cơn bão tố nổi lên. Lúc ấy các vị đệ tử hoảng hốt đánh thức Ngài dậy, và Ngài với quyền năng của mình làm bão tố dịu xuống bằng cách nói: “Hãy lặng yên”.
Trong bài này có dùng nhiều biểu tượng. Câu chuyện xảy ra trên nước có nghĩa để nói đến những tình cảm trong con người. Chiếc thuyền tượng trưng cho thể xác giữ trong mình cái linh hồn để trải qua những lượn sóng của hồng trần. Những vị đệ tử tượng trưng những đặc tánh của con người, tỉ như sự cương trực của tông đồ Pierre, sự đơn giản của tông đồ Jacques, sự tháo vát của tông đồ Matthieu, lòng thương trung thành của tông đồ Jean; chỉ có vị đệ tử này có mặt trong khi Đấng Christ bị xử án và đóng đinh trên thập tự giá. Tất cả những tánh này đều có trong con người kể cả Juda bán Chúa, một hai khi cám dỗ ta từ bỏ sự thiêng liêng trong lòng ta. Nhưng trong tất cả chúng ta đều có Chúa ngự.
Khi sự sống khởi đầu (nghĩa là cuộc hành trình mới diễn ra) thì Chúa hay là Thượng Đế trong lòng ta chưa thức tỉnh, cho đến khi những cơn ba đào của đời sống, những cơn gió lốc của ham muốn, của giận hờn oán ghét, ganh tị, quỷ quyệt làm sự an toàn của linh hồn bị rung chuyển. Lúc ấy chúng ta phải hành động như thế nào? Chúng ta phải làm như các đệ tử. Chúng ta phải hướng về bên trong, tìm sự thiêng liêng, tìm Chúa trong lòng ta, kêu Người dậy và đánh thức Người dậy. Nhờ ảnh hưởng cao quý và phi thường của Ngài mà chúng ta mạnh dạn đối phó lại phàm nhơn của chúng ta và chúng ta chắc chắn khắc phục được nó bằng cách bảo chúng nó “hãy lặng yên” nếu không có những cơn thử thách, những trận bão lòng, chưa chắc chúng ta chịu hướng về thiêng liêng để tìm phương cứu cánh, và Thượng Đế trong lòng ta vẫn còn say ngủ. Vậy những sự đau khổ, những lúc khó khăn cũng là những kinh nghiệm giúp chúng ta mau tiến trên đường tiến hóa. Nếu chúng ta biết cách khêu gợi và sử dụng trực giác thì chúng ta có thể đối phó những sự khó khăn ở đời một cách dễ dàng.
Trong Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo cũng còn kể những người có bịnh nan y, nhưng khi được đến gần Chúa, chạm đến áo của Ngài thì bịnh liền hết. Những người mù lòa, những người chết (nghĩa là ở cảnh đen tối) cũng được Chúa làm sáng mắt, sống dậy. Ông G.Hodson không phủ nhận quyền năng của Chúa có thể làm người đau lành bịnh, làm kẻ chết sống dậy, nhưng muốn chỉ rõ điều này: Trong mỗi một người đều có phần thiêng liêng: đó là Thiên Tánh hay Phật Tánh mà khi chúng ta kêu gọi đến thì những sự khó khăn bên ngoài được dẹp yên. Và ông Hodson cũng có nói: sự chết ở tâm hồn, sự mù lòa ở trí não còn nguy hại hơn sự chết và sự mù lòa ở xác thân.
Và đây tôi xin kể một câu chuyện chót. Hôm kia ở trên một đỉnh núi cao, có đến 5,6 ngàn người tụ họp xung quanh Đấng Christ đã từ 3, 4 ngày. Người thì đến nghe thuyết đạo, kẻ thì để được lành bịnh. Có nhiều người từ các xứ xa đến. Trước khi để các người ấy ra về, Ngài liền bảo các môn đệ Ngài cho những nhười ấy ăn uống. Các môn đệ thưa rằng: “Thưa Thầy chúng con chỉ có một ít bánh mì và vài con cá nhỏ thì làm sao cho các người dùng đủ?” Đấng Christ liền truyền đem những thức ăn ấy lại cho Ngài và sau khi cầu nguyện đến Chúa Cha, liền bảo môn đệ đi phát những thức ăn ấy. Những thức ăn ấy khi phát ra thì lại nẩy sanh cái khác. Và khi mỗi người ăn no đầy đủ thì thức ăn còn lại đựng được bảy giỏ đầy.
Câu chuyện này xảy ra trên núi chỉ nghĩa trạng thái của bồ đề tâm và những con cá tượng trưng cho lòng Bác Ái và Minh Triết. Chúng ta có thể hiểu thêm chuyện này như sau: lòng Bác Ái và sự Minh Triết rất cần thiết cho đời sống tinh thần và hằng ngày của chúng ta. Chúng ta cần khêu gợi nó lên, làm nó phát triển rộng rãi hơn. Và cũng như trong câu chuyện, thứ cá này là thức ăn cần thiết, nhưng càng chia sẻ cho người khác thì chẳng những không hao hụt đi, mà nó còn gia bội một cách nhiệm màu.
Với tinh thần Thông Thiên Học, tôi thuyết trình những điều trên đây để quý độc giả khảo xét và thử áp dụng phương pháp này để tìm hiểu đạo lý ẩn vi trong các Kinh Thánh.
Viết theo tài liệu trong quyển
“THE HIDDEN WISDOM IN CHRISTIAN SCRIPTURES”
Của ông Geoffrey Hodson