kết quả từ 1 tới 17 trên 17

Ðề tài: MINH TRIẾT BÍ TRUYỀN

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #6

    Mặc định

    CƠ ĐỐC GIÁO BÍ TRUYỀN

    NGUYÊN TÁC: ESOTERIC CHRISTIANITY

    Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

    MỤC LỤC
    Lời nói đầu
    1.Phía ẩn mật của các Tôn Giáo
    2.Phía ẩn mật của Cơ Đốc Giáo:Chứng cớ của Thánh Kinh
    3.Phía ẩn mật của Cơ Đốc Giáo:Chứng cớ của Giáo Hội
    4.Đấng Christ trong lịch sử
    5.Đấng Christ trong thần thoại
    6.Đấng Christ trong thần bí học
    7.Sự chuộc tội
    8.Sự sống lại và sự thăng thiên
    9.Tam nguyên
    10.Cầu nguyện
    11.Sự tha tội
    12.Phép Bí Tích: Đại cương
    13.Phép Bí Tích: Trường hợp cụ thể
    14.Khải thị
    Lời kết
    Sự Minh Triết Ẩn Vi Trong Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo
    Giải Đáp Những Vấn Đề Thiết Yếu
    Cuối sách

    LỜI NÓI ĐẦU
    Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

    Quyển sách này nhằm mục đích gợi một vài ý tưởng về những chân lý ẩn sâu trong Cơ Đốc Giáo thường bị bỏ qua và phủ nhận. Lòng ước muốn chia sớt rộng rãi những chân lý vô giá, không che đậy ánh sáng giác ngộ, đã đưa đến tấm lòng nhiệt thành không ngại góp ý vào Cơ Đốc Giáo, và đã trình bày những giáo lý ấy dưới một hình thức đôi khi làm mất lòng một vài người.
    Mệnh lệnh “Giảng Tin Lành cho mọi người” đã được giải thích là không nên giảng Minh Triết (gnosis) cho một số ít người, hiển nhiên nó đã xóa mờ một lời nói ít phổ thông hơn của cùng vị Đại Giáo Chủ trên: “Đừng bỏ vật thánh cho chó, cũng đừng quăng ngọc châu mình cho heo” (Matt 7:6)
    Tính đa cảm sái chỗ ấy đã không chịu nhận thấy những tình trạng bất đồng hiển nhiên của trí khôn và đạo đức, do đó nó đã thâu hẹp nhu g74 giáo lý cao siêu và hạ thấp xuống mức độ mà các hạng người kém tiến hóa có thể vươn tới được. Nó đã hy sinh cái cao siêu cho cái thấp kém và lại làm tổn thương cả hai. Tính đa cảm ấy đã không có chỗ đứng trong lương tri hào hùng của những người Cơ Đốc đầu tiên. S.Clement đã nói một cách ngay thẳng về các Bí Pháp: “Ngay đến bây giờ, tôi cũng ngại liệng ngọc báu cho heo, e rằng chúng sẽ dẫm lên rồi quay trở lại cắn chúng ta’. Bởi vì rất khó trình bày Ánh Sáng chân chính bằng những ngôn từ thật sự trong sáng và thuần khiết cho các người chưa được huấn luyện.”
    Nếu muốn tái lập lại phần Minh Triết chân chánh, thì người ta chỉ nên hạn chế nó theo vài quy lệ cổ xưa mà thôi và không nên hạ thấp chân lý xuống ngang trình độ của hạng người kém phát triển. Chỉ bằng cách giảng dạy cho một số ít người tiến hóa mới có thể mở đường cho sự phục hồi nền hiểu biết cổ thời, và sự nghiên cứu Tiểu Bí Pháp cần đi trước Đại Pháp. Đại Bí Pháp không bao giờ được phổ biến mà chỉ được những Vị Huấn Sư “truyền khẩu” cho đệ tử mà thôi. Nhưng các Tiểu Bí Pháp hiện nay có thể được phục hồi và một quyển sách như thế này nhằm phát họa những nét đại cương và chỉ rõ bản chất của các lời giáo huấn cần phải được nắm vững. Nếu nơi nào lời giảng chỉ nêu ra những dấu hiệu, những điều bóng gió thì cần phải tham thiền về những chân lý được cố ý ẩn dấu mới thấy được những nét đại cương và nhờ tham thiền liên tục, ánh sáng càng ngày càng tỏ lộ rõ ràng, đầy đủ hơn. Hạ trí chỉ chăm lo vấn đề bên ngoài. Tham thiền sẽ làm hạ trí an tĩnh, và chỉ khi nào nó an tĩnh rồi, tinh thần mới có thể giác ngộ được nó. Kiến thức về những chân lý tinh thần chỉ có thể được đạt bằng cách ấy, từ bên trong chứ không từ bên ngoài, từ Tinh Thần thiêng liêng mà chúng ta là đền thờ chứ không phải từ một vị Huấn Sư bên ngoài.
    Đây là con đường của Minh Triết Thiêng Liêng. Nó chẳng phải như vài người nghĩ là một sự pha chế của Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Lão Giáo hay một tôn giáo đặc biệt nào khác. Nó chính là Cơ Đốc Giáo bí truyền, cũng như nó cũng chính thật là Phật Giáo bí truyền. Nó thuộc về tất cả mọi tôn giáo, không ngoại trừ tôn giáo nào. Nó là nguồn cội cho các tư tưởng trong quyển sách nhỏ này, nó giúp những người tìm Ánh Sáng- cái Ánh Sáng chân thật “ dến thế gian soi sáng mọi người.”(S.John 1:9) mặc dù hầu hết chưa chịu mở mắt nhìn nó. Nó không đem Ánh Sáng đến. Nó chỉ nói:”Hãy ngắm nhìn Ánh Sáng.” Nó chỉ kêu gọi một số ít người khao khát hiểu biết hơn là truyền cho họ các giáo lý công truyền. Nó không nhắm đến những người tự thấy đã đầy đủ với những giáo lý công truyền. Tại sao lại phải cung cấp thực phẩm cho người không đói? Còn đối với những người đang đói, nó sẽ là miếng bánh mì chứ không phải là hòn đá.
    CHƯƠNG 1
    Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

    PHÍA ẨN MẬT CỦA CÁC TÔN GIÁO
    Có lẽ nhiều người mới xem qua tựa sách đã nghĩ ngay rằng không có điều gì đáng được gọi là “Cơ Đốc Giáo bí truyền”. Một quan niệm phổ thông cho rằng C.Đ.G. không có các giáo lý huyền bí, và các “Bí Pháp” dẫu Tiểu hay Đại Bí Pháp cũng chỉ là của tà giáo. Câu “những Bí Pháp của Đức Jesus” rất quen thuộc với những người Cơ Đốc của thế kỷ đầu tiên sẽ gây ngạc nhiên cho các người kế vị họ về sau. Hiện nay người ta phô trương rằng C.Đ.G. không có điều chi bí mật, những gì phải nói thì nói cho mọi người, những gì cần giảng thì giảng cho tất cả. Những chân lý C.Đ.G. được cho là rất giản dị đến độ “một người dại khờ cũng không thể đi lạc trong đó”, và câu “Kinh Thánh đơn giản” đã trở nên một câu khuôn mẫu.
    Vì thế cần chứng tỏ rằng ít ra trong thời Giáo Hội Đầu Tiên, C.Đ.G. cũng có phần giáo lý ẩn mật không thua gì các tôn giáo lớn khác, phần này chỉ do một nhóm nhỏ chọn lọc trong Huyền Môn gìn giữ như một bảo vật vô giá. Nhưng trước khi chứng minh, ta nên xem xét toàn diện vấn đề về khía cạnh ẩn mật của các tôn giáo và tìm hiểu tại sao phải có một khía cạnh như thế nếu một tôn giáo muốn mạnh mẽ và bền vững. Nhờ vậy chúng ta mới thấy sự hiện hữu của khía cạnh ấy trong C.Đ.G. hiện ra như một kết luận đã có rồi, và sự tham khảo trong những văn tự của các Cha Cơ Đốc mới có vẻ đơn giản và tự nhiên thay vì lạ lùng và khó hiểu. Vì là một sự kiện lịch sử nên sự hiện hữu của phần bí truyền được minh chứng dễ dàng. Nhưng người ta cũng có thể chứng minh sự cần thiết của nó trên phương diện lý trí.
    Câu hỏi đầu tiên cần giải đáp là: mục đích của các tôn giáo là gì? Tôn giáo được những người khôn ngoan hơn quảng đại quần chúng truyền bá ra cho thế giới để thúc đẩy sự tiến hóa của nhân loại. Sự tiến hóa như một bậc thang lên cao trên đó mọi người đều không cùng một trình độ nên bậc nào cũng có họ. Người tiến hóa cao nhất cách xa hẳn người tiến hóa thấp nhất về cả sự sáng suốt và đức hạnh. Năng lực nhận thức và hành động thay đổi theo từng mỗi bậc. Do đó đưa ra cùng một giáo lý cho tất cả mọi người không ích lợi gì. Phần nào giúp ích được người khôn ngoan thì kẻ dại khờ không hiểu được; điều nào đưa một vị thánh vào trạng thái xuất thần thì lại bỏ rơi kẻ tội lỗi. Trái lại một giáo lý thích hợp với kẻ sơ học sẽ trở nên vô vị với một triết gia; điều gì giúp giải phóng một tội nhân thì hoàn toàn vô bổ cho một vị thánh. Tuy nhiên, mọi hạng người đều cần đến tôn giáo để có thể vươn lên một đời sống cao hơn, và không nên hy sinh một hạng người này cho một hạng người khác. Vậy thì tôn giáo phải có nhiều cấp bậc theo trình độ tiến hóa; nếu không, nó không đạt mục đích.
    Câu hỏi kế tiếp: Các tôn giáo thúc đẩy sự tiến hóa nhân loại theo phương hướng nào? Tôn giáo thăng tiến bản tính đạo đức và trí tuệ, và giúp bản tính tinh thần tự khai mở. Tôn giáo nhìn nhân loại như một phức thể và gắng đáp ứng với mọi thành phần. Do đó các giáo lý phải thích ứng với mỗi lý trí, mỗi tâm tình riêng. Nếu tôn giáo không đạt đến và hướng dẫn trí tuệ, nếu nó không tinh luyện và cảm ứng cho các mối cảm động thì nó đã thất bại rồi vậy.
    Ngoài ra nó còn phải kích động khai mở bản tính tinh thần, đó là một động lực hiện hữu sẵn có bên trong con người và cứ mãi thúc đẩy nhân loại tiến hóa, triền miên tìm kiếm Thượng Đế.
    Tôn giáo sẽ đáp ứng các nỗi khắc khoải ấy, tăng cường, tinh luyện và hướng dẫn chúng vào con đường chánh đáng: hợp nhất tinh thần con người với tinh thần thiêng liêng để cho “Thượng Đế là tất cả trong tất cả” (I Cor. 15:28).
    Câu hỏi kế tiếp hiện đến khi ta nghiên cứu: Tôn giáo có nguồn gốc nào? Ngày nay có hai câu trả lời của một nhóm Thần Thoại Đối Chiếu, và của một nhóm Tôn Giáo Đối Chiếu. Cả hai cùng đặt nền tảng trên các sự kiện đã được chấp nhận. Công phu khảo cứu đã chứng tỏ hùng hồn rằng các tôn giáo trên thế giới giống nhau một cách rõ rệt về các giáo lý chánh đại, về các quyền năng siêu phàm và mức tiến hóa tinh thần cao tuyệt của các Vị Sáng Lập, về các quy luật đạo đức của các Ngài, về cách Ngài tiếp xúc với những cõi giới vô hình. Tính tương đồng ấy, theo cả hai trường phái, đều chứng tỏ các tôn giáo có một nguồn gốc chung.
    Nhưng về bản chất của nguồn gốc chung ấy thì hai phái còn đang bất đồng ý kiến. Phái Thần Thoại Đối Chiếu cho rằng nguồn gốc chung ấy là do sự vô minh, và những giáo điều cao cả nhất chỉ là các sự biểu lộ được tinh luyện lại của các phỏng đoán thô sơ và man dã của các người hoang dã sơ khai đối với các hoàn cảnh. Sùng bái ngẫu tượng, thờ thần, thờ thiên nhiên, thờ mặt trời, đó là những chất liệu của mảnh đất đầu tiên cho một tôn giáo tươi đẹp mọc lên.
    Thượng Đế là một hình ảnh tổng hợp nhiều vị Thần, họ là những mãnh lực của thiên nhiên được nhân cách hóa. Tất cả được tóm tắt trong câu: Những tôn giáo là các nhánh của một thân cây chung- sự vô minh của con người.
    Trái lại phái Tôn Giáo Đối Chiếu cho rằng tất cả mọi tôn giáo đều xuất phát từ những lời giáo huấn của những Bậc Thiêng Liêng thỉnh thoảng xuất hiện ở nước này hoặc nước khác trên thế giới. Tuy cùng những chân lý căn bản giống nhau, nhưng các Ngài rút ra những phần thích hợp với khả năng, trình độ của dân tộc ấy vào thời kỳ ấy. Các tín ngưỡng sơ khai là hình thức suy đồi, thoái hóa, biến dạng, còi lụn của các tôn giáo chân chính. Vào thời ấy tín ngưỡng thờ mặt trời và các hình thức đúng đắn thờ phượng thiên nhiên là những tôn giáo thanh khiết, đầy biểu tượng nhưng cũng đầy sự hiểu biết và chân lý sâu xa. Những vị Đại Huấn Sư họp thành một Đại Đoàn Huynh Đệ, các Ngài đã vượt cao hơn nhân loại và xuất hiện vào những thời kỳ nào đó để soi sáng thế giới. Các Ngài cũng là những người bảo vệ tinh thần cho nhân loại. Quan điểm này được kết đọng trong câu: “Những tôn giáo là các nhánh của một thân cây chung- nền Minh Triết Thiêng Liêng”.
    Cuộc tranh luận giữa hai trường phái đối lập được xét theo sự vững chắc của các bằng chứng mỗi bên đưa ra. Phương pháp duy nhất để quyết định bên nào đúng chỉ bằng cách khảo sát các tổ tiên trung gian xa xôi. Chứng cớ của phái tin vào sự Minh Triết thuộc loại này. Họ dẫn chứng rằng các Vị Sáng Lập tôn giáo- xét theo các sự ghi chép về các lời dạy của Ngài- thì tiến hóa rất cao hơn mức độ của nhân loại; các Thánh Kinh chứa đựng những quy luật đạo đức, những lý tưởng cao cả, những cảm hứng thi vị, những lời xác quyết triết lý thâm sâu dẫu cho các người cùng thuộc một tôn giáo ấy về sau cũng không thể nào viết được một cách thiện mỹ và cao siêu như thế- Đó là cái cũ cao siêu hơn cái mới thay vì cái mới cao siêu hơn cái cũ. Không có trường hợp nào chứng tỏ có sự cải thiện các tôn giáo trong khi đó có nhiều trường hợp giáo lý thuần khiết bị suy đồi; và cả đến những tôn giáo của dân tộc sơ khai nếu được nghiên cứu cẩn thận, người ta sẽ tìm được nhiều ý tưởng cao cả vượt xa khỏi năng lực sáng tạo của họ.
    Còn một lý do khác là tại sao một vài chân lý nào đó chỉ được dạy một cách bí truyền mà thôi. Hiển nhiên đó là vì “Kiến thức là quyền năng”.Sở dĩ một triết lý cao siêu được truyền bá một cách công khai là vì nó không làm hại được một ai. Người ta có thể giảng dạy nó không do dự, bởi vì nó không hấp dẫn kẻ ngu dốt. Nhưng có những giáo lý liên quan đến sự cấu tạo của thiên nhiên, hoặc giải thích những luật bí hiểm và soi sáng các phương cách ẩn mật. Nhờ hiểu biết chúng, người ta có thể chế ngự được các năng lực thiêng liêng và sử dụng vào các mục đích nào đó, giống như một nhà hóa học chế tạo các hợp chất. Sự hiểu biết ấy rất hữu ích cho người tiến hóa cao và gia tăng năng lực phụng sự của họ.Nhưng nếu nó được công bố ra thế giới, nó sẽ bị lạm dụng vào những mục đích ích kỷ, và con người dễ sa vào tà đạo có mục tiêu chia rẽ thay vì kết hợp. Do đó mà một số giáo lý được giữ kín đối với những người chưa đủ trình độ đạo đức để nhận lãnh. Các vị Huấn Sư rất muốn truyền bá nó cho những người nào biết sử dụng quyền năng ấy để phụng sự cho ích lợi chung và thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại.
    Đây không phải là vấn đề lý thuyết. Sử sách Huyền môn cũng có ghi lại các chi tiết của những biến cố như được nói đến trong Sáng Thế Ký. Thời xưa ở lục địa Ắt Lăng Tíc, sự hiểu biết được truyền bá một cách không nghiêm ngặt đối với trình độ đạo đức, sự trong sạch và vô ngã của thí sinh. Những người nào đủ trí thông minh đều được dạy, như ngày nay người ta dạy khoa học thường thức vậy. Kết quả là họ hiểu biết nhiều nhưng đồng thời cũng rất xấu xa. Thế giới rên xiết dưới sự áp chế của họ. Do đó Châu Ắt Lăng Tíc (Alantic) bị tiêu diệt đi, toàn bộ ngập chìm sâu dưới đại dương. Kinh Thánh Do Thái ghi lại vài tiểu tiết ấy trong câu chuyện Đại Hồng Thủy, còn Kinh Thánh Ấn Độ ghi lại trong câu chuyện của Đức Vaivasvata Manu.
    Sau kinh nghiệm nguy hại ấy, các vị Huấn Sư đòi hỏi những điều kiện khắc khe về tính tinh khiết, vô ngã và tự chủ của các thí sinh. Ngài đặt nặng vấn đề đạo đức hơn trí khôn. Vì sự giáo huấn tự nó sẽ mở mang trí khôn. Các Ngài thà bị người không hiểu biết công kích cho là ích kỷ vì giấu kín các điều hiểu biết hơn là các Ngài thúc đẩy thế giới vào một thảm họa Atlantic khác.
    Sang qua các sự kiện thực tế, chúng ta sẽ hỏi vào thời trước, khía cạnh ẩn mật này có hiện hữu không? Chắc chắn là có. Mỗi tôn giáo đều tuyên bố có nắm giữ một giáo lý ẩn mật chứa đựng các kiến thức thần bí, lý thuyết lẫn thực hành. Kiến thức thần bí tuy được quảng bá cho quần chúng nhưng dưới dạng một biểu tượng, một ngụ ngôn mà một người thông minh có thể tìm hiểu được. Còn phần kiến thức thần bí thực hành chỉ được dạy với những điều kiện xác định đã được công bố, các thí sinh phải làm tròn những điều kiện này. S.Clement of Alexandria muốn ám chỉ đến Bí Pháp, ông nói: “Sau sự tinh luyện là các Tiểu Bí Pháp làm nền tảng chuẩn bị cho các điều về sau. Còn trong Đại Bí Pháp, người ta không còn phải học hỏi điều gì về vũ trụ nữa mà chỉ việc chiêm ngưỡng và tri nhận thiên nhiên”.
    Đối với các tôn giáo cổ xưa, tình trạng này không cần phải thảo luận. Huyền Môn Ai Cập rất vẻ vang và những người con cao quý nhất của Hi Lạp đi đến Sais và Thebes để dược các vị Chân Sư Minh Triết Ai Cập điểm đạo. Huyền Môn Mithra ở Ba Tư, Huyền Môn Orpheus và Bacchus và sau đó Eleusinian ở Hi Lạp, Huyền Môn Samothrace, Scythia, Chaldea ít ra cũng là những tên rất quen thuộc như các từ ngữ trong gia đình. Huyền Môn Eleusinian dẫu trong hình thức yếu kém nhất cũng được các tinh hoa của Hi Lạp như Pindar, Sophocles, Isocrates, Phutarch và Plato khen ngợi. Những Huyền Môn ấy được xem là rất hữu ích vì nó nêu lên sự hiện tồn sau khi chết, cũng như người được Điểm Đạo biết rằng nó bảo đảm cho hạnh phúc tương lai của y. Sopater còn quả quyết rằng sự Điểm Đạo thiết lập sự quan hệ của linh hồn với Thiên Nhiên thiêng liêng, và trong bài ca về Demeter có nói bóng gió đến Hài Nhi thánh thiện Iacchus, đến sự chết và sự sống lại như các Huyền Môn đã đề cập. Người ta học được nhiều điều về mục tiêu của Huyền Môn nhờ Iamblichus, nhà thông thần học lớn ở thế kỷ 3 và 4. Thông thần học(theurgy) là pháp thuật,”phần cuối cùng của môn khoa học của các giáo chức(sacedortal)”được thực hành trong Đại Bí Pháp để triệu cầu những vị cao siêu hiện diện. Lý thuyết các Huyền Môn căn cứ có thể tóm tắt như sau: Có một Đấng Duy Nhất, cao hơn vạn vật, không di dịch, ngự trong sự tĩnh lặng nhất thể của chính Ngài. Từ đó, phát xuất ra Thượng Đế Tối Cao, Nguồn cội của mọi vật, Thượng Đế của các Thượng Đế, Nguyên nhân đầu tiên, tự biểu lộ trong Ánh Sáng. Nơi Ngài tuôn ra Thế Giới Thông Tuệ, Trí Đại Đồng, và những Thượng Đế vô thể cũng thuộc vào đó. Từ Thế Giới Thông Tuệ này lại phát xuất ra Linh Hồn Thế Giới, và các hình thể thông tuệ thiêng liêng cùng hiện diện với các thể của các Thượng Đế. Kế đó là các đẳng cấp khác nhau của những Vị Siêu Nhân. Con người thuộc một đẳng cấp thấp hơn, có bản chất liên hiệp với các vị này, và có khả năng hiểu họ. Những giào lý này được quảng bá trong Huyền Môn. Các vị siêu nhân có thể được triệu cầu, họ xuất hiện để dạy dỗ, nâng cao và tinh luyện con người. Iamblichus nói rằng những vị Thượng Đế tuôn xuống dồi dào cho các nhà thông thần, kêu gọi linh hồn họ hướng lên Ngài, hiệp nhất với Ngài, tập cho họ quen tách rời khỏi các thể-trong khi vẫn còn ở với xác thể-để được dẫn đến một khí thể trường cửu và thông tuệ của họ, vì linh hồn có một sự sống kép, một phần kết liền với xác thể, còn một phần khác tách rời khỏi mọi thể. Rất cần luyện tập cách tách rời linh hồn khỏi hạ thể để nó có thể hiệp nhất với Thượng Đế bằng phần thiêng liêng và thông tuệ của nó. Khi Thượng Đế xuất hiện, linh hồn nhận được “sự giải thoát khỏi các dục vọng, một sự toàn thiện tuyệt mỹ, và một năng lực phi thường” và hưởng được tình thương thiêng liêng và một niềm vui sướng vô biên.
    Proclus cũng dạy rằng sự cứu rỗi duy nhất của linh hồn là sự trở về hình thức thông tuệ của nó và như thế thoát khỏi vòng sinh hóa, khỏi các cuộc lang thang triền miên, đạt đến con Người chân thật. Đây là sự sống mà những người được Orpheus điểm đạo vào Huyền Môn Bacchus và Proserpiine, và đây cũng là kết quả của việc thực hành những hạnh tinh luyện.
    Những đức tính này rất cần thiết trong Đại Bí Pháp vì chúng liên quan đến sự tinh luyện thể tinh anh hơn mà linh hồn hoạt động trong đó khi thoát khỏi cái thể thô nặng. Các đức tính thực tiễn này tùy thuộc đời sống thông thường của con người và chúng phải được phát triển đến đến một mức độ nào đó trước khi y có thể trở nên một thí sinh của một Trường. Kế đó là những đức tính tinh luyện, nó giúp cho thể tinh anh-thể của tình cảm và của hạ trí được tinh luyện. Thứ ba là những đức tính thông tuệ, và thứ tư là sự chiêm ngưỡng, nhờ đó con người có thể hiệp nhất với Thượng Đế, Porhyry viết: “Ai hành động hợp với những đức tính thực tiễn là một người xứng đáng, ai hành động phù hợp với những đức tính tinh luyện là một người thiên thần. Ai hành động theo những đức tính thông tuệ là một Thượng Đế, còn người nào hành động theo những đức tính khuôn mẫu (paradigmatic) là Cha của các Thượng Đế”.
    Các đẳng cấp thiên thần và các đẳng cấp khác cũng đưa ra nhiều huấn thị trong Huyền Môn, và Đức Pythagore - vị Đại Huấn Sư được Điểm Đạo ở Ấn Độ, đã dạy cho các đệ tử hữu thệ của Ngài biết kiến thức về chân tướng của sự vật - được người ta nói rằng Ngài có một kiến thức về âm nhạc thâm sâu đến nỗi Ngài có thể sử dụng nó để chế ngự những dục vọng thô bạo nhất của con người và để chiếu sáng tâm trí họ. Iamblichus đã nêu ra những trường hợp này trong quyển Đời Sống của Đức Pythagore.
    Trường phái Thytagore ở Magna Graecia bị đóng cửa vào cuối thế kỷ 6 trước T.C, vì sự hà khắc của chính quyền, nhưng những cộng đồng khác vẫn còn tồn tại, lưu giữ truyền thống thiêng liêng, Giáo sư Mead nói rằng Plato đã tinh thần hóa nó để bảo vệ nó khỏi dự xúc phạm đang gia tăng, và các nghi lễ của Eleusinian còn bảo tồn vài hình thức của nó nhưng đã mất đi hẳn chất liệu. Phái tân-Platon thừa hưởng di sản của Pythagore và Plato, người ta nên nghiên cứu những tác phẩm của họ nếu muốn hiểu đôi điều về sự vĩ đại và nét mỹ lệ đang được bảo tồn cho thế gian trong Huyền Môn.
    Trường phái Pythagore có thể sử dụng như một hình thức kỷ luật. Về điều này, ông Mead có đưa ra nhiều chi tiết lý thú và nhận xét: “Những tác giả của thời thượng cổ đều đồng ý rằng kỷ luật này đã thành công tạo được nhiều gương sáng chói nhất, không những về sự tinh khiết mà còn về sự giản dị trong tư thái, sự tế nhị, và sự say mê học hỏi nghiêm trang ít ai bì kịp. Cả đến các tác giả Cơ Đốc cũng chấp nhận điều này”. Trường này cũng có những đệ tử bên ngoài, vẫn sống cuộc đời gia đình và xã hội. Còn những đệ tử trong Trường thì có ba bậc: trước tiên là bậc Thinh Văn phải tịnh khẩu hai năm để học hỏi và cố gắng nắm vững những giáo lý. Bậc thứ nhì là sinh viên Toán học được dạy hình học và âm nhạc, bản chất của con số, hình thể, màu sắc và âm thanh. Bậc thứ ba là sinh viên Vật lý học phải nắm vững thuyết thành hình vũ trụ và siêu hình học. Điều này dẫn đến Huyền Môn chân chính. Những thí sinh muốn vào Trường phải là người có tiếng trong sạch và có một phong thái an nhiên tự tại.
    Sự đồng nhất chặt chẽ giữa những phương pháp và mục đích mà những Huyền Môn khác nhau trên theo đuổi với những phương pháp và mục đích của Yoga ở Ấn Độ đều được mọi người công nhận. Tuy nhiên, không cần giả thiết rằng mọi quốc gia thượng cổ đều phát xuất từ Ấn Độ: tất cả đều phát xuất từ một nguồn gốc chung: Tổng Bộ ở Trung Á, nơi phái các vị được Điểm đạo đi khắp mọi nơi. Họ đều truyền dạy cùng những giáo lý như nhau, theo đuổi cùng những phương pháp như nhau để cùng dẫn đến những mục đích như nhau. Họ có một ngôn ngữ chung và một biểu tượng chung. Như thế Đức Pythagore đã du hành qua Ấn Độ và được Điểm Đạo cấp cao ở đấy. Sau này, Đức Apollonius of tyana theo vết chân Ngài. Ngôn từ và tư tưởng của Plotinus trong câu sau đây quả giống như của người Ấn Độ: “Bây giờ tôi tìm cách đưa cái Ngã trong tôi trở về với Đại Ngã (All.Self)”.
    Người Ấn Độ nghiêm nhặt nhấn mạnh đến bổn phận chỉ truyền dạy kiến thức cao cả cho người xứng đáng mà thôi. “Điều bí nhiệm sâu xa nhất của mục đích của kiến thức…thì không được tuyên bố cho một ai không phải là con, là đệ tử hay là một người có tâm trí bất an”. “Hãy đứng lên!Thức tỉnh! Sau khi tìm thấy các Vị Cao Cả, hãy nghe Ngài. Đường Đạo rất khó đi, giống như lưỡi dao cạo sắc bén”. Rất cần Vị Huấn Sư vì kinh sách không đủ. “Mục đích của kiến thức” là để nhận biết Thượng Đế và hiệp nhất với Ngài, chứ không phải chỉ để tin tưởng và thờ phượng xa vời mà thôi. Con người phải biết thực tại của Sự Hiện Hữu thiêng liêng và kế đó biết rằng cái Ngã thâm sâu nhất của chính y vốn là một với Thượng Đế, và mục đích của đời sống là để thực hiện sự hiệp nhất đó. Nếu tôn giáo không thể hướng dẫn con người đi đến sự thực hiện đó, thì tôn giáo chỉ là một miếng đồng kêu vang mà thôi”.
    Người ta cũng quả quyết rằng con người có nên tập tách rời thể xác nặng kệch: “Một người phải quyết tâm tách linh hồn khỏi thể xác của y như thân cây vượt khỏi vỏ bao của nó”. “Trong cái vỏ vỏ vàng cao nhất, Brahman cư ngụ. Đó là Ánh Sáng trắng chói lọi của các Ánh Sáng, mà những người tri thức được Bản Ngã đều biết”.
    Người Do Thái cũng có nền kiến thức ẩn mật và những Trường Điểm Đạo của họ. Các tiên tri ở Naioth do Samuel điều khiển (Isamuel 19:20) tạo nên một Trường ấy, và những lời giáo huấn được họ truyền khẩu với nhau. Những Trường tương tự cũng có ở Bethel và Jericho(II King 2:2-5), và trong Biểu Kê ở Cruden có lời ghi chú lý thú sau đây: “Những Trường của các tiên tri là những Trường đầu tiên mà chúng ta có thể tìm thấy bất cứ bài tường thuật nào trong Thánh Kinh. Nơi đó, các đệ tử của các tiên tri tập sống một cuộc đời ẩn dật, khổ tu, học hỏi và chiêm ngưỡng, và đọc luật của Thượng Đế…Những Trường của các tiên tri được tiếp nối bằng các giáo đường”.
    Kinh Kabbala chứa đựng những giáo lý bán công truyền, trong đó có một phần là công trình của Giáo sĩ Moses de Leon, ông chết năm 1305. Nó gồm có 5 quyển Bahir, Zohar, Sepher Sephiroth, Sephit Yetzirah và Asch Metzareth. Kinh được xác nhận là do khẩu truyền từ những thời đại cổ xưa-từ thời thượng cổ như lịch sử đã ghi nhận. Wynn Westcott nói rằng: “Tập tục Do Thái cho rằng những phần cổ xưa nhất của quyển Zohar có trước khi xây dựng Đền thờ thứ hai” và người ta nói rằng Giáo sĩ Simeon ben Jochai đã có viết vài đoạn trong thế kỷ thứ nhất. Saadiah Gaon mất năm 940- nói quyển Sepher Yetzirah “rất cổ xưa”. Vài đoạn giáo lý khẩu truyền cổ xưa được thêm vào trong Kinh Kabbala như bản văn hiện nay, nhưng sự Minh Triết tối cổ chân thật của người Do Thái vẫn còn được một số người con chân chính của Israel gìn giữ.
    Những nét đại cương trên đây cũng đủ chứng tỏ có sự hiện diện của khía cạnh ẩn mật trong các tôn giáo trên thế giới ngoài Cơ Đốc Giáo. Bây giớ chúng ta hãy khảo sát xem Cơ Đốc Giáo có là một ngoại lệ của quy luật đại đồng này không?...
    Last edited by dienthoai; 08-04-2011 at 03:25 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Tuyệt chiêu luyện bùa yêu bí truyền của người Dao
    By OM_DZAMBHALA in forum Cộng đồng Mạng XH,Trò chuyện vui, Spam, Xả stress
    Trả lời: 11
    Bài mới gởi: 11-06-2018, 06:48 PM
  2. Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 01-06-2012, 11:51 AM
  3. TÂM VŨ TRỤ
    By doxuantho in forum Đạo Việt Nam
    Trả lời: 242
    Bài mới gởi: 26-03-2012, 02:27 PM
  4. Truyền thọ tam quy
    By phúc minh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 21-03-2011, 06:28 PM
  5. BÀ LA MÔN GIÁO VÀ TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
    By aptruong in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 19-01-2011, 12:58 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •