(tiếp theo)
6
Người ta nghĩ rằng, nhờ vào các tài liệu về Thần hệ và bí pháp của người Ai Cập – được viết trong các kinh văn cổ – thì các nghi lễ và tín điều của các vị vua (Pharaonic) Ai Cập sẽ được hiểu rõ; ở mức độ nào đó, ít ra chúng cũng dễ hiểu hơn các triết lý cao siêu, hay thuyết phím thần của Ấn Độ [1]. Thế nhưng, giữa sưu tầm và tiến trình giải mã là hai công việc hoàn toàn khác nhau.
Trên đất nước Ai Cập ngày nay, dọc theo dòng sông Nile và cả phần đất liền, người ta đang tiến hành rầm rộ các cuộc khai quật khảo cổ, các di tích mới liên tục được tìm thấy, nhiều điều mới mẽ bắt đầu lộ diện. Sự kiện này chứng tỏ nơi đây đã từng có một lịch sử hùng hồn, đến nỗi các nhà khảo cổ học ở Viện Đại hoc Oxford cũng phải thốt lên:
“Ngoài các Kim tự tháp mà chúng ta trông thấy kia, còn có những tàn tích sót lại từ đền thờ và mê cung. Những bức tường nguyên vẹn được chạm khắc chữ tượng hình và hình vẽ lạ lùng về các nam nữ thần. Trên các cuộn giấy cói không hề bị thời gian tàn phá, là những bản kinh rời rạc còn rõ nét. Mặc dù với các cổ vật thu được, chúng ta có thể giải mã được phần nào bí mật của dân tộc này, song động lực nào để người Ai Cập tôn sùng lễ nghi đến như thế, vấn đề này chắc còn lâu chúng ta mới hiểu hết.”
Ở đây, sự kiện này một lần nữa gợi tiếp cho ta vấn đề cần suy nghĩ, các văn bản chữ tượng hình đã tìm thấy, nhưng chìa khóa giải mã thì mất tăm.
Thật vậy, các nhà khảo cổ có vẽ đã biết quá ít về những lễ nghi tang lễ của người Ai Cập và dấu hiệu bên ngoài để nhận biết sự khác nhau giữa đàn ông đàn bà qua xác ướp, đôi khi các nhầm lẫn này rất ngô nghê. Trong thời gian cách đây khoảng một hoặc hai năm, sai lầm kiểu này đã xãy ra tại Boulaq (Cairo). Trong lần nghiên cứu về một xác ướp vừa khai quật được, các nhà khảo cổ nhận xét đó là xác của một người đàn bà, vợ của một vị Pharaon tầm thường. Tuy nhiên, sau đó nhờ việc đọc được một chữ ghi trên lá bùa đeo cổ của xác chết, người ta mới vỡ lẽ, đó chính là xác của Sesotris, một vị Đại Đế của Ai Cập.
Tuy nhiên, phải thấy rằng “có điểm chung giữa ngôn ngữ và tôn giáo” của các dân tộc từng tồn tại trên địa cầu này. Đó là, từng có một tôn giáo chung của người Ấn Âu (Aryan) trước khi có sư ly khai của chủng tộc này, từng có chung một tôn giáo của người Semite (Tây Á hiện nay) trước khi họ tách rời nhau ra, hay sự phân chia của người Turanian (Ba Tư) trước khi có sự phân ly của người Trung Quốc và các bộ tộc khác thuộc lớp người Turanian. Do chỉ tìm được “ba trung tâm tôn giáo cổ” và “ba trung tâm ngôn ngữ cổ”, nhưng lại hoàn toàn không biết gì về nguồn gốc nguyên thủy của nó, các vị này (ở Viện Đại hoc Oxford) cũng không ngần ngại tuyên bố: “chúng ta đã tìm được một cơ sở nền tảng lịch sử thực sự, và đây là tiền đề cho các cuộc thảo luận khoa học bàn về các tôn giáo chính trên thế giới”.
Nhưng “cuộc thảo luận” của các nhà khoa học không hề gia tăng thêm giá trị cho “cơ sở nền tảng lịch sử”, khi mà với sự khan hiếm các dữ liệu trong tay, cho dù là các nhà nghiên cứu lỗi lạc đi nữa, không ai có đủ bằng chứng để đưa ra kết luận của riêng mình. Dù sao thì các nhà nghiên cứu này đã chứng minh rất khoa học, và làm đa số người thỏa mãn. Họ cho rằng, theo Định luật phát âm của Grimm, thì Đức Odin (một vị thần Bắc Âu cổ) và Đức Phật là hai người khác nhau. Và sau đó họ lại tuôn một mạch, Đức Odin được tôn sùng như một vị thần tối cao trong một thời gian dài, còn trước cả thời đại kinh Veda và kinh Homer (Hy Lạp cổ). Về điều này thì họ không ban cho “nền tảng lịch sử” chút giá trị nào, mà ngược lại còn bắt nó phục vụ cho “kết luận” của mình. Cho dù phương pháp đó nó tỏ ra vẽ khoa học, nhưng chất lượng thì xa rời thực tế.
Những quan điểm trái ngược nhau về vấn đề niên đại của kinh Veda của các nhà nghiên cứu lỗi lạc như Martin Haug, Max Muller, là chứng cớ để ta nói rằng các nghiên cứu này không làm lợi ích cho “nền tảng lịch sử”. Loại “bằng chứng bên trong” này thay vì làm ngọn hải đăng dẫn dắt cái trí đến chổ sáng, nhưng rốt cuộc thì chỉ là ngọn đèn lồng kéo tụt người ta vào nơi mờ ảo. Và cũng không có sự cải tiến mới lạ nào trong cách lý luận của những người nghiên cứu thần thoại qua kinh sách, để có thển giảm bớt chút ít sự sai lầm. Khi họ yêu cầu phải có “những bản kinh rời rạc được cho là tiết lộ về tổ tiên loài người”, được bảo quản trong trong các ngôi đền ở Hy-lạp và Italy, vì đây là những gì các bậc được điểm đạo Đông Phương công bố cho công chúng biết. Tuy nhiên, một vị Đại Đức người Tích Lan quả quyết với tác giả, mọi người điều hiểu rằng các kinh ngắn quan trọng thuộc giáo điều thiêng liêng của Phật giáo được tàng trữ ở nhiều nơi, tại những vùng đất mà người châu Âu không thể tiếp cận. Với Bà-la-môn giáo, cố Đại Đức Dayanand Sarasvati cũng cho biết, các kinh sách quan trọng của họ không thể nào để rơi vào tay người ngoài.
Khi nghe tin giáo sư Max Muller tuyên bố với thính giả của mình trong bài diễn thuyết rằng, “chả có bao nhiêu người ủng hộ cái lý thuyết, có sự ẩn tàng của lực lượng siêu nhiên đứng phía sau loài người”, thì nhiều nhà hiền triết đã phì cười. Một trong các vị Bà-la-môn này nói, “Nếu ông Moksh Mooller – người nói phát âm – là một người Bà-la-môn, và đến gặp tôi, tôi có thể đưa ông ấy đến hang động Gupta (một hang động bí mật) gần Okhee Math, ở dãy Himalaya. Ở đây chẳng cần lâu, ông ta sẽ tìm ra rằng những gì mà các Kalapani (Ấn Kiều) mang từ Ấn sang Âu Châu chỉ là những mảnh nhỏ so với pho kinh sách đồ sộ của chúng tôi. Đấy chỉ là những tiết lộ đầu tiên và sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới, và tất nhiên là các Mlechchhas (người nước ngoài ở Ấn) phải chờ đợi”.
Khi được hỏi thêm về sự kiện tiết lộ kinh sách này, thì ông không nói thêm điều gì nữa. Cuộc nói chuyện này xảy ra tại Meerut (Ấn Độ) vào năm 1880.
Trong thế kỷ vừa qua, tại Calcutta, những người Bà-la-môn có vẽ gian xảo khi lừa gạt Đại tá Wilford và Sir William Jones, nhưng những người này phải nhận kết quả như thế âu cũng do chính hành vi của họ. Theo sự thổ lộ của Sir William Jones (xem Asiat Res.., Vol I, trang 272), thì Đại tá Wilford quan niệm, các vị thần Brahma, Vishnu và Mahesa của người Bà-la-môn không khác gì Thượng-đế-ba-ngôi của Thiên chúa giáo. Điều này khiến những người Bà-la-môn này đã làm giả các bảng kinh cổ và đưa cho ông Wilford, họ chép các đoạn kinh cũ Purana bằng ngôn ngữ Bắc Phạn cổ trên những lá buôn, và xào nấu nội dung theo cách hiểu của ông Wilford về các vị thần của họ.
Đó là một bài học hay, và cảnh tỉnh các học giả nghiên cứu Đông Phương học, cũng như đã làm một vài người hổ thẹn. Nhưng nó đã làm cho kết quả nghiên cứu đi đến chiều hướng lầm lạc khá nhiều. Sự ham muốn nồng nhiệt đầy dục vọng kiểu như Đại tá Wilford đã tạo nên thị trường giả kinh sách cổ, đáp ứng nhu cầu của phái đoàn truyền giáo. Hay là đây là việc làm đầy toan tính của họ với mục đích xuyên tạc rằng, kinh Purana nói về Đức Krishna có được nhờ đạo văn Kinh Thánh Do Thái. Nhưng sau đó, các giáo sư Đại học Oxford trong bài luận “Khoa học và tôn giáo”, có nói đến câu chuyện kinh giả nổi tiếng và việc này đã làm ông Đại tá Wilford buồn phiền. Cần phải chấp nhận rằng những người nghiên cứu lịch sử chân chính không thể can thiệp để làm thay đổi lịch sử. Cho dù nếu đi theo chiều hướng kết luận của ông Wilford, để thấy kinh Tân Ước và Cựu Ước không hề vay mượn từ kinh sách Bà-la-môn và Phật giáo; thì không thể suy ra là kinh Do Thái chưa hề vay mượn kinh Chaldea, chính Eusebius đã cắt xén những cuốn kinh của người Chaldea.
Đối với người Chaldea, chắc chắn người thầy đầu tiên của họ là người Bà-la-môn. Các công trình nghiên cứu của ông Rawlinson cho thấy có sự ảnh hưởng không nhỏ của kinh Vệ Đà trong truyện thần thoại Babylon. Và từ lâu Đại tá Vans Kennedy cũng chứng minh, Babylonia từng là đất của người Bà-la-môn, vì có sự ảnh hưởng của nền giáo dục Ấn với Phạn ngữ. Nhưng tất cả những bằng chứng như vậy đã phải lung lay với thuyết của giáo sư Max Muller. Nó là những gì mà mọi người đã biết. Các qui tắc về ngữ âm trở thành dung môi chứng minh có sự liên kết “bà con họ hàng” giữa các vị thần linh trên thế giới. Đức mẹ của thần Mercury (Budha, Đức Thot- Hermes) là Maia; mẹ của Đức Phật (Gautama) là Maya; mẹ của Chúa Jesus cũng là Maya (vì Mary là Mare, nghĩa là biển cả, ảo tưởng lớn)… Nhưng theo “quy tắc về luật phát âm” của nhà ngữ học Bopp thì chẳng thể có bất cứ sự liên quan nào về cách phát âm như trên.
Với nỗ lực nhằm kết nối nhiều sự kiện đã xảy ra thành trang lịch sử mới chưa từng được ghi nhận, đó là một việc làm táo bạo, nhưng táo bạo đến mức mà phủ nhận những chi tiết không ăn khớp với kết luận của họ, thì nó trở nên liều lĩnh quá mức.
Trong khi người ta ngàng càng khám phá ra nền nghệ thuật, chữ viết và sự hiểu biết khoa học đã tồn tại từ xa xưa, nhưng cũng không thể ngăn cản họ ghi nhận những dân tộc này vốn là man rợ. Những vết tích về nền văn minh lớn thời tiền sử, từng tồn tại ngay vùng Trung Á vẫn còn tìm thấy rải rác. Dù chỉ với chút ít bằng chứng, cũng không thể phủ nhận sự tồn tại nền văn minh đó. Và liệu với một nền văn minh như vậy, làm gì có chuyện không có chữ viết, không có văn học, hay văn hóa? Sự đứt đoạn về sử liệu là do có những nước từng bị tiêu diệt trong quá khứ. Toàn thể vùng cao nguyên Tây Tạng được vây quanh những bức tường núi liên tục, từ thượng lưu dòng sông Khuan-Khe xuống đến đồi Kara-Korum, đã là nhân chứng cho nền văn minh suốt năm nghìn năm, và nơi đây chứ nhiều bí mật lạ kỳ để kể cho nhân loại.
Miền Đông và Miền Trung của vùng này – Nan-Schayn và Altyne Taga – xưa kia có nhiều thành phố lớn cỡ Babylon. Một thời kỳ địa chất biến động đã đi qua nơi đây, những vụ sụt lở cát đã chôn vùi vài thành phố, sau đó vùng đất này biến thành sa mạc khô cằn rộng lớn, có tâm tính từ lưu vực sông Tarim. Du khách đa phần mới đặt chân đến vùng đất này, nếu vượt qua những đồi cát sẽ tìm thấy những vùng cao nguyên có nước, sự sống đang tồn tại và phát triển ở đó. Những nơi như thế này, chưa có một người Âu Châu nào từng đi tới. Vài nơi trong số các ốc đảo đó, ngay cả các cư dân bản địa cũng không cách nào xâm nhập được. Nơi đây thường xuyên có những trận bão cát có thể “xé nát sa mạc và quét sạch những gì trên đường chúng đi qua”; vì vậy các thư viện được đào sâu dưới lòng đất và lối vào là các ốc đảo, trong điều kiện như vậy các kinh sách luôn được lưu giữ an toàn, kể cả các cuộc chiến tranh đã từng cào nát vùng này.
“Người ta không nhìn thấy một hồ nước, một bụi cây, một ngôi nhà nào, và chung quanh là những dãi núi tạo nên địa hình lồi lõm, dựng lên xung quanh bãi xa mạc nóng boảng và khô khan…”
Nhưng cũng không cần khuyến khích độc giả tiến sâu vào bãi sa mạc mênh mông này, chỉ cần đi tới vài nơi có người sinh sống, rồi ta cũng sẽ tìm ra dấu tích nền văn minh cổ còn sót lại ở đây. Như ốc đảo Tchertchen, nằm khoảng 4.000 feet trên mực nước của sông Tchertchen-D’arya, được bao quanh bởi tàn tích đổ nát của một đô thị xa xưa. Dân cư ở đây vào khoảng 3.000 người, nhưng lại thuộc nhiều chủng tộc khác nhau, trong đó có những chủng tộc mà các nhà nhân chủng học chưa hề biết đến và không biết phân loại họ vào đâu. Các cư dân này tượng trưng cho tàn tích của chừng 100 giống dân, của 100 nước không còn tồn tại nữa, ngay chính cả những người này họ cũng không biết tổ tiên mình là ai. Một vài bộ tộc thì nói, tổ tiên của họ là những người đầu tiên được cai trị bởi những vị thần (genii) vĩ đại của sa mạc. Điều này có thể được gọi là mê tín hay vô minh, tuy nhiên theo quan điểm của Giáo lý bí truyền, câu trả lời có thể tìm thấy trong truyền thuyết về thời kỳ sơ khai. Duy nhất chỉ có bộ lạc Khoorassan cho rằng mình có nguồn gốc từ vùng Afghanistan (ngày nay), và có trước cả thời Alexander, họ tin vào điều này nhờ dựa vào những câu truyện thần thoại mà bộ tộc còn lưu giữ. Đại tá Prjevalsky, một người Nga, đã tìm thấy những di tích đổ nát của hai thành phố cổ khá gần với ốc đảo Tchertchen; theo truyền thuyết địa phương, một thành phố bị phá hủy cách đây khoảng 3.000 năm, bởi những người anh hùng khổng lồ; còn thành phố kia bị người Mông Cổ tàn phá vào thế kỷ thứ X.
“Các cuộc biến động địa chất và thiên tai xảy ra ở đây như chuồi cát hay bão cát, đã làm đô thị này trồi lên những cổ vật kỳ lạ từ dưới lòng đất. Các loại đồ sành sứ, đồ dùng nhà bếp bị vỡ, và cả những bộ xương người. Những người bản xứ còn tìm thấy những đồng tiền bằng kim loại bạc hoặc đồng, những thỏi bạc được nấu chảy, và cả các kim loại quý như kim cương và ngọc thạch. Nhưng đáng chú ý nhất là những mảnh kính vỡ, các cái quan tài bằng loại gỗ không hề bị hư mục, bên trong là xác ướp được giữ gìn rất tốt… Những xác ướp đàn ông thường rất cao lớn, cường tráng, với mái tóc dài dợn sóng. Người ta còn tìm thấy một hầm mộ có 12 xác chết đang ngồi trong đó. Trong một lần khác họ còn tìm được một xác chết của một thiếu nữ. Người này được chôn cất trong tình trạng đôi mắt được bịt bằng những cái đĩa hình tròn bằng vàng, và một cái kiềng vàng gắn chặt hai bên hàm, chạy dài từ dưới cằm lên tận đỉnh đầu. Trên người xác chết là bộ y phục đan bằng len chật ních, những ngôi sao bằng vàng đính trên ngực, còn đôi bàn chân thì không mang gì cả” (Bài diễn thuyết của N.M.Prjevalsky).
Về điều này Prjevalsky còn tiết lộ thêm, dọc theo cuộc hành trình sông Tchertchen, ông còn nghe những truyền thuyết nói rằng ở đây có khoảng 23 thành phối bị chôn vùi đã vài nghìn năm. Ở vùng Kerya, các cư dân của họ cũng có cùng câu chuyện như vậy.
Những vết tích của nền văn minh, và những truyền thuyết được lưu truyền trong cộng đồng, cho chúng ta thêm quyền tin tưởng vào một giả thuyết khác, giả thuyết của những người có đạo đức và học thức. Đó là, người ta đã khai quật được các thư viện dưới lòng sa mạc, một số lượng lớn các kinh sách đã tìm thấy và dĩ nhiên hiện giờ chúng đang cất dấu ở nơi an toàn.
Tóm lại, Giáo lý bí truyền là triết lý của một tôn giáo duy nhất được phổ biến khắp nơi trong thế giới cổ đại thời tiền sử. Các bằng chứng về sự khuếch tán này, như các tài liệu về lịch sử của nó mà chúng ta đang có vinh hạnh tiếp cận, còn một nguồn khác lớn hơn đang nằm khắp nơi dưới lòng đất, và giáo lý của các vị Chân sư đang được bảo quản trong các tàng thư ở các giáo phái.
Các thuyết trên sẽ đáng tin cậy thêm nếu những giả thuyết sau đây được các học giả nghiên cứu kỷ càng: Đó là câu chuyện hàng nghìn mảnh da thuộc dùng để ghi sách, đã được cứu thoát khỏi thư viện Alexandria trước khi nó kịp bốc cháy. Hay hàng nghìn quyển kinh chữ Phạn đã biến mất dưới triều đại vua Akbar; còn Trung Quốc hay Nhật Bản thì có truyền thuyết phổ thông nói rằng, hàng nghìn quyển luận kinh cổ từ lâu đã không còn trong tay kẻ phàm phu; sự biến mất của nền văn học minh triết huyền bí của thành Babylon. Hay Sự đánh mất chìa khóa để giải mã chữ tượng hình của người Ai Cập, kinh Veda của người Hindu, kinh viết về giáo lý của Đức Phật.
Các nhà huyền môn khẳng định rằng, tất cả các tài liệu hiên nay vẫn còn phải được bảo vệ, tránh sự cướp đoạt và hủy hoại của người da trắng. Đâu đó, vào thời kỳ sáng sủa hơn trong tương lai, những tài liệu này rồi sẽ trở về với loài người, như lời Đại Đức Dayanand Sarasvati từng nói. Hiện nay, những tài liệu này tạm “thất truyền” đối với đa số người, bởi lòng ích kỷ và dục vọng sẽ là mối nguy cho nhân loại, nếu họ có nó trong tay. Chỉ vài người có linh hồn tiến hóa cao mới nhận được ân huệ này, nhưng không ai trong số họ được tiết lộ nó ra ngoài, nếu chưa được phép.
Những đệ tử huyền môn sơ cấp thường hay nêu thắc mắc, chúng tôi hiểu được nhu cầu phải bảo vệ những bí mật quan trọng của tôn giáo, thế nhưng liệu có nguy hiểm nào khi chúng tôi muốn tiếp cận về triết học, đơn cử như là biết được sự tiến hóa của những dãy hành tinh.
Sự nguy hiểm là như thế này: Ví dụ như học thuyết về chuỗi bảy hành tinh, bảy chủng tộc, và bảy luân xa của con người. Vì mỗi luân xa liên quan đến một cõi, trong một cõi thì luân xa này có những huyền năng thần bí phi thường. Bất kỳ sự tiết lộ nào cũng dẫn đến manh mối, để người ta tìm mọi cách nghiên cứu hay thực nó, nhằm đạt đến những cảnh giới cao hơn. Nếu đó là một kẻ phi đạo đức, hắn sẽ gây tội ác với nhân loại, nhất là đối với người phương Tây ưa chuộng vật chất và vô minh.
Đúng là những giáo lý này được che dấu, nhưng kiến thức cơ bản và sự tồn tại thực sự của nó không bao giờ bị các vị Đạo sư giữ riêng mình, các vị luôn khuyến khích đệ tử tuân thủ giới luật, và thực hành để đạt đến sự toàn thiện. Nó đã từng được tiết lộ từ giai đọa này sang giai đoạn khác trong quá khứ, và ở cả thời điểm hiện tại nữa. Đó là các vị Chân sư như Đức Pythagoras, Plato, những môn đồ của phải tân Plato, hay tôn giáo của người Nazarenes.
Hơn nữa, có một sự kiện nổi tiếng xảy ra ở Nga mà tác giả cũng được biết đến. Một vị giáo sĩ giúp việc trong Tòa đại sứ Nga cho biết, trong thư viện Hoàng gia St Petersburg đã ghi, có một nhà thần bí học người Nga đã tìm cách đi Tây Tạng, vượt qua rặng núi Ural để tầm sư học đạo trong những ngày mà người Âu Châu chưa biết gì về vùng Trung Á này. Tới thời điểm hiện nay, đã có những hội như Freemasonry và Secret về thần bí học mọc lên tự do ở Nga. Điều này chứng tỏ, có nhiều người Nga đã đến Tây Á tìm đạo và có người trở về với kiến thức thần bí phong phú, nhiều hơn những gì mà dân các nước Châu Âu khác biết đến. Có nhiều trường hợp mà tác giả có thể kể ra tên tuổi, nhưng e rằng sự vội vàng của mình sẽ làm phiền lụy đến thân nhân các vị được điểm đạo đã qua đời. Để kiểm chứng điều này, độc giả nên đến các thư viện ở Nga và tìm hiểu lịch sử của hội Freemasonry, nó sẽ xác tín điều tác giả nói.
Nhiều độc giả thường đặt cùng một câu hỏi, liệu Thông Thiên Học có phải là một tôn giáo mới không? Tuyệt nhiên không, chúng tôi không phải là sáng lập viên hay tín đồ của một tôn giáo mới nào cả và giáo lý Thông Thiên Học cũng chẳng phải là giáo lý mới. Một vài giáo lý mà chúng tôi đưa ra không phải mới được công bố lần đầu, mà nó đã được đức Ragon thuyết giảng nhiều lần ở Âu Châu.
Nhiều học giả có chung nhận đình là, chưa bao giờ có một nhà sáng lập tôn giáo đích thực nào, dù là người Aryan, người Semit hay là người Turanian. Những vị được coi là giáo chủ của các tôn giáo này, họ chỉ là người truyền bá, họ có cách thuyết pháp thu hút tín đồ; những giáo lý mà họ nói, nó có từ khi có nhân loại. Như vậy, trong buổi bình minh của loài người, chân lý này đã được các vị Đạo sư truyền khẩu và gìn giữ trong các Thánh điện, chỉ có các bậc cao đồ dùng thần nhãn mới nhìn thấy nó. Sau này, các giáo lý này được phân ra và được mã hóa cho mỗi vùng đất khác nhau. Như Legge nhận định, Đức Khổng Tử dứt khoát là một nhà truyền pháp, chứ ông không phải là người sáng tạo.
Chính Đức Khổng Tử đã nói, “Tôi chỉ là người truyền đạt, chứ tôi không lập ra điều gì mới cả. Tôi tin tưởng ở người xưa và vì vậy, tôi kính mến họ”.
Tác giả cũng kính mến họ, cho nên tác giả tin tưởng vào các vị thánh nhân này và những lời minh triết của các ngài. Và hiện giờ tác giả cũng làm cái nhiệm vụ tương tự như thế, nghĩa là ở vị trí của người truyền đạt. Còn những ai bác bỏ điều này, thì tác giả cũng chấp nhận ý kiến của họ, vì cả hai có quan điểm khác nhau. Nhưng theo phong cách của nhà nghiên cứu, họ phải bác bỏ dựa trên những luận điểm mang tính phản biện, chứ không phải là kiểu công kích ác ý.
Những điều được nói đến trong quyển sách này được tập hợp từ các giáo lý truyền khẩu và các kinh sách cổ. Phần mở đầu là những đoạn Thánh kinh của một dân tộc mà chưa có nhà nhân chủng học nào biết tới, nó sử dụng thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ và không được khoa học chấp nhận, ngôn ngữ điện từ. Nhưng cũng phải mất nhiều thế kỷ nữa những bí mật này mới hoàn toàn mở với đa số nhân loại, còn trong hiện tại và thời gian tới, từng chút ít vấn đề nhỏ sẽ được tiết lộ.
(hết phần giới thiệu)
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks