(tiếp theo)
4
Kể từ khi thư viện Alexandria (Ai Cập) bị phá hủy, đã có nhiều nổ lực của thành viên hội Brotherhoods bỏ ra để tìm kiếm các kinh sách còn sót lại. Họ từng tuyên bố rằng, có lần đã tìm thấy tất cả những quyển sách bị tiêu hủy, ngoại trừ ba bản sao của một trong quyển thánh kinh này đã được gìn giữ an toàn ở những nơi khác. Một trong những nơi đó là Ấn Độ, bản quý giá cuối cùng được giấu kín trong triều đại của hoàng đế Akbar (1556-1562).

Họ khẳng định, một trong những kinh sách đó được chép ra mà không hoàn toàn dùng ẩn ngữ hay ký tự tượng hình nào cả. Ban đầu nó được mã hóa để tránh những cặp mắt tò mò, những kẻ không phận sự, kể cả các nhà cổ tự học thông minh nhất. Đến thời Hoàng đế Akbar thì nó được hủy bỏ và chép lại bằng Phạn ngữ, nhưng vài vị cận thần cuồng tín của đức vua không ưa thói tò mò tọc mạch đầy tội lỗi của ngài đối với các quyển kinh của kẻ ngoại đạo. Vì vậy, họ đã giúp những người Bà-la-môn che giấu bản thảo này; như ông Badaoni còn công khai bài tỏ sự ghê tởm với đức vua, vì ngài đã tỏ ra quá say mê ngoại giáo. [1]

Còn có giả thuyết cho rằng, những đạo viện (lamasaries) giàu có khi xây dựng nơi để ẩn tu (gonpa), hay thánh điện (lakhang) trên các ngọn núi, họ không quên đào những địa đạo sâu thẳm bên trong lòng đất hay tận dụng các thạch động chằng chịt làm thư viện. Chính ở những địa điểm như vậy, chẳng hạn như ở miền Tây Tsaydam, trong những con đường hiểm trở của đèo Kuen-lun (Tây Tạng), các kinh sách được lưu giữ một cách an toàn. Dọc theo triền núi Altyn-Tagh (Tây Tạng) – nơi chưa có người châu Âu nào đi tới – có vài ngôi nhà ẩn trong hẻm núi sâu, chính xác là một thôn. Ở đó có một ngôi chùa nghèo và vị Lạt-ma già ẩn tu. Những du khách từng đi chiêm bái về kể rằng: bên trong ngôi chùa đó, dưới những căn hầm ở lòng đất có chứa nhiều kinh sách, nhiều đến nổi mà theo họ ước lượng ngay cả Viện bảo tàng Anh Quốc còn không đủ chổ chứa.

Những giả thuyết này dễ làm cho người ta cười cợt và ngờ vực. Nhưng trước khi độc giả nào định bài bác nó, thì xin hãy ngừng lại và theo dõi tiếp các sự kiện đình đám về khảo cứu tôn giáo trong thời gian gần đây. Bắt đầu là các cuộc khảo sát quy mô lớn của những nhà Đông Phương học, cho đến những công trình khảo cứu của các học giả ngôn ngữ học; họ đều thống nhất kết luận rằng: một số lượng lớn các kinh sách hiện nay được xác nhận là có nguồn gốc cổ xưa, nhưng trong quá trình khảo cứu người ta cho biết, không còn tìm thấy dấu vết của bản gốc. Nếu đây là các loại sách bình thường thì có lẽ chẳng ai màn tới, và nó sẽ bị phủ lớp bụi thời gian cho đến khi không còn đọng lại chút gì trong trí óc con người. Nhưng khốn thay, nó lại là chìa khóa để hiểu đúng các tác phẩm còn tồn tại đến bây giờ. Bởi vì, những sách còn lại này chỉ là những trích đoạn rơi rớt và được người đời sau chắp vá. Cho nên phần lớn người đọc chẳng hiểu nó nói đến điều gì nếu không có lời bình kèm theo; đến ngay cả các học giả, mỗi người lại có một cách lý luận khác nhau, chẳng ai chịu ai.

Một ví dụ rõ ràng trong trường hợp nan giải này là các kinh sách của Lão Tử (Lao-tse). Tương truyền đương thời ngài đã viết đến 930 quyển kinh về Đạo Đức và Tôn giáo, 70 quyển về cách luyện pháp thuật, tổng cộng là khoảng một nghìn quyển. Nhưng kinh điển nhất vẫn là Đạo đức kinh (Tao-te-ching) – như một “Thánh kinh của Lão Giáo” (cách nói của Stanislas Julien), quyển này chỉ có khoảng 5.000 chữ, chiếm chưa tới 12 trang giấy. Nhưng giáo sư Max Muller nhận thấy rằng “nó thật khó hiểu nếu không có lời bình kèm theo, đến nỗi mà ông Julien khi có ý định dịch tác phẩm này phải tham khảo ý kiến hơn 60 nhà nghiên cứu” (Le livre de la Voie et de la Vertu -1842), trong đó bản luận cổ nhất xuất hiện vào khoảng năm 163 – TCN.

Nếu tính từ thời điểm Lão Tử viết quyển Đạo Đức Kinh (thế kỷ thứ 6 TCN) cho đến sự xuất hiện bản luận cổ nhất (năm 163 – TCN), thì đã hơn 4,5 thế kỷ. Trong ngần ấy thời gian là quá đủ để người ta giấu bớt giáo lý của ông, ngoại trừ các cao đồ được điểm đạo. Một vài người Nhật đã từng là môn đồ thông thái của Lão Tử, và họ còn lưu giữ trong tay các học thuyết bí truyền của Lão giáo, họ cười nhạo các học giả Trung Quốc và Phương Tây đã ngây thơ tin vào các văn bản hiện tại. Theo họ, đó chỉ là phần công truyền, những bài luận nhằm mục đích che đậy, còn lời bàn thật sự từ lâu đã biến mất khỏi những đôi mắt phàm tục.

Bây giờ chúng ta điểm lại các kinh văn cổ của người Do Thái (Semite), người Chaldean (vùng Irad hiện nay), nếu chúng không được Thánh kinh Moise (Mosaic Bible) ghi lại thì ngày nay chúng ta chẳng có gì để tìm kiếm. Và khi đó, các nhà nghiên cứu chỉ có đôi dòng về lịch sử tôn giáo của thành Babylon, chu kỳ quan sát thiên văn kỳ lạ của các Pháp sư (magi) người Chaldean, hay chút ít tư liệu về nền văn học huyền bí của họ. Vì thực tế thì số kinh sách đó chỉ còn rời rạc vài đoạn, mà nghe nói là được bộ luận của tu sĩ Berosus (người Chaldean) trích dẫn.

Tuy nhiên, tác phẩm này gần như vô giá trị, cho dù có dùng để dò tìm manh mối về nguồn gốc số kinh sách đã thất truyền. Bởi vì, nó đã qua bàn tay của Giám mục Caesarea – người tự cho mình quyền kiểm soát và in ấn các bản kinh của các tôn giáo khác – và chắc chắn rằng, cho đến ngày nay bút tích của ông ta vẫn còn đó. Vậy thì, bộ luận nói về tôn giáo vĩ đại ở Babylon đã có từ đâu?

Tu sĩ Berosus (mục sư của đền thờ Belus) viết bộ luận này bằng tiếng Hy-lạp và dâng nó cho Alexander Đại đế. Trong tác phẩm này, ông Berosus trích một số đoạn trong quyển kinh nói về Chiêm-tinh-học, quyển kinh này được bảo quản trong đền thờ Belus trong một thời kỳ đến 200.000 năm, nhưng hiện giờ đã thất lạc. Vào thế kỷ thứ I – TCN, Alexander Polyhistor (học giả Hy Lạp, sống ở Rome) đã trích lục nhiều đoạn trong bản kinh này, nhưng cũng bị mất. Sau đó đến Giám mục Eusebius (270-340) – Palestine – đã dùng những đoạn trích này để viết cuốn niên sử (Chronicon) của mình. Nhưng ông Eusebius với vai trò là người tuyên truyền cho tôn giáo mới, cảm thấy các điểm tương đồng cùng bản sắc giữa kinh sách của người Do Thái và người Chaldea là điều nguy hiểm cho Kinh Thánh Do Thái. Và dĩ nhiên kinh sách của người Chaldea đã bị hô biến.

Bằng cách sử dụng giản đồ Manetho (sử gia Ai Cập – khoảng 250 TCN), nhiều nhà nghiên cứu đã nhìn thấu sự thật bên trong. Nhà khảo cổ Bunsen tố cáo Eusebius là kẻ cắt xén lịch sử vô cùng nhẩn tâm; còn Socrates thì nói, ông ta là gã thợ rèn lịch sử táo bạo và liều lĩnh.

Vì vậy, ngoài những bản kinh sót lại đầy mơ hồ như trên, tất cả các kinh văn khác của người Chaldea đã hoàn toàn biến mất khỏi những đôi mắt phàm tục, y như số phận Châu Atlantis bị tàn phá không còn chút dấu vết nào. Sau này, một vài sự kiện lịch sử được khôi phục, người ta còn hiểu biết thêm về những vị Thiên thần sa đọa (Fallen Angels) được nhân cách hóa như là Bel và Dragon.

——

[1] Badaoni viết trong quyển Muntakhab at Tawarikh:

“Hoàng Đế của chúng ta thích thú với tôn giáo của những kẻ ngoại đạo, những loại ngoại giáo này nhiều vô số kể và kinh sách của thì không tài nào đếm hết được… Bọn họ (những kẻ Sramana và Bà-la-môn) vượt qua người khác nhờ đã học được các bộ luận về đạo đức, về khoa vật lý và tôn giáo, có sự hiểu biết về tương lai, quyền lực tinh thần, cách hoàn thiện con người. Họ chứng minh được bằng chứng cớ và dựa trên lý luận, đến nỗi chân lý của họ vững như bàn thạch. (Ain i Akbari, translated by Dr. Blochmann, p. 104, note.)

5

Và giờ chúng ta tiếp tục khảo sát đến phần kinh sách của người Ấn Âu (Aryan), các kinh Phệ Đà (Veda). Các nhà Đông Phương học đều biết, kinh Veda bao gồm 8 bộ, trong đó các bộ đáng chú ý là: Rig-veda, Sama-veda, Yajur-veda, Atharva-veda, và Brahmanas. Riêng bộ quan trọng nhất là Rig-Veda chỉ chứa “khoảng 10.580 câu thơ, hoặc 1.028 bài thánh ca”. Còn kinh Brahmanas có nhiều bản luận và chú giải nhất, nhưng dù vậy, cho đến ngày nay không phải ai cũng hiểu được nó một cách chính xác. Vì để hiểu đúng những câu thánh ca nguyên thủy nhất, cần phải có chìa khóa, nhưng tiếc rằng các nhà Đông Phương học của chúng ta chưa tìm ra được nó.

Còn Phật giáo thì sao? Trong thời gian qua các học giả viết gì về giáo lý Phật giáo? Họ có đầy đủ các bản kinh sách này không? Chắc chắn là không. Mặc dù người ta đã biết, có tới 325 quyển kinh Kanjur và Tanjur, chúng cân nặng tổng cộng từ 4-5 cân Anh; nhưng họ lại không biết gì về Lạt-ma-giáo (Lamaism). Hay kinh Saddharma-alankara có 29.368.000 chữ (nếu không kể lời bình và chú giải), nhiều hơn 5 đến 6 lần quyển Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo (Bible). Chỉ với hai tập kinh Kanjur và Tanjur, trong quá trình dịch “các dịch giả thay vì trình bày nguyên bản, nhưng lại xen vào những lời bình của họ nhằm biện minh cho trường phái của mình” (Buddhism in Tibet – E.Schlagintweit), làm cho độc giả không được tiếp cận vấn đề cốt lõi của nó. Hơn nữa, theo truyền thuyết được lưu truyền ở Nam và Bắc Tông cho biết, giáo điều thiêng liêng của Phật giáo nguyên thủy có 80.000 hay 84.000 bài kinh ngắn, nhưng hầu hết đã không tìm thấy và chỉ còn lại khoảng 6.000 bài – như hiện nay. Theo cách hiểu của người Châu Âu như thế là thất truyền, còn đối với các tông đồ Bà-la-môn hay Phật giáo thì không ai kết luận có chuyện đó.

Theo mức độ tín ngưỡng của những tín đồ Phật giáo, những dòng viết về Thích Ca, hay Chánh Pháp (Good Law) luôn được họ tôn sùng, và đáng lẽ ra các kinh sách này phải được giữ gìn cẩn mật mới đúng. Thế nhưng việc để mất gần 76.000 bài kinh ngắn như thế quả thật là kỳ lạ. Tuy nhiên, khi điểm lại tiến trình lịch sử Phật giáo, ta thấy trong thời điểm bị đàn áp tín ngưỡng tại Ấn Độ bởi người Hồi Giáo (Vua Al-Mahdi; triều đại Abbasad; 775-785) và phải tiến hành cuộc di cư ra khỏi vùng đất phát tích này, chắc là họ đã đánh mất một phần kinh sách. Nhưng cũng cần phải nói rõ, trước đó các vị La-hán đã bắt đầu cuộc truyền đạo vào khoảng năm 300 TCN [1]. Sau đó, các cao đồ khác đã đến các vùng đất Trung Quốc (hiện nay) vào khoảng năm 61 (Reverend T. Edkins, “Chinese Buddhism.”) để truyền bá tín ngưỡng ra bên ngoài vùng Kashmir và Hy-mã-lạp-sơn. Vì vậy, với các học giả Phương Đông, họ không bao giờ nhìn nhận với người Phương Tây, có chuyện kinh Phật bị thất truyền. Bởi họ tự hào có đủ khả năng để gìn giữ gìn pho kinh thiêng liêng nhất của mình, những người nước ngoài “vô cùng cao siêu” không đời nào tiếp cận được, với lý do đơn giản, cần phải cách ly các giáo lý thượng thừa của họ để tránh bị lợi dụng và bêu rếu.

Từ dữ kiện lấy được từ các nhà Đông Phương học, tác giả nhận thấy: (a) Các học giả nghiên cứu về tôn giáo cổ thực sự có rất ít dữ liệu để đưa ra kết luận chính xác vấn đề, sau cùng họ đánh giá kết quả theo chiều hướng có lợi cho tín ngưỡng của mình. (b) Việc thiếu hụt tư liệu đó không thể ngăn cản họ độc đoán hóa (dogmatising) tín điều.



[1] Một tu viện Phật giáo được dựng lên tại núi Kailas vào năm 137 TCN, và Tướng Cunningham nói rằng còn lâu hơn nữa. Lassen, (“Ind. Althersumkunde” Vol. II, p. 1,072).