Đám cưới người Dao

Hôm nay tại bản Đông Áng, xã Châu Sơn, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn có một đám cưới của người Dao Thanh Y tổ chức theo phong tục cổ truyền cho cô dâu Hà Thị Vân và chú rể Lý Văn Hai.

Từ sáng sớm hai chảo gang to đã được đun "hết tốc lực" bằng những thanh củi rực cháy, và bà con người Dao trong vùng đã thay phiên nhau đến "uống rượu mừng".

Phải chờ đến 15h chú rể mới được phép đến nhà gái đón dâu, tôi tranh thủ gặp già làng Hà Văn Cắm và trưởng bản Hà Văn Sắt tìm hiểu về phong tục cưới xin của người Dao Thanh Y. Rất may, cả hai người đều thông thạo tiếng phổ thông.

Quá trình dựng vợ gả chồng của người Dao cũng tiến hành qua ba bước: Dạm hỏi - Đính hôn - và Tổ chức đám cưới. Là một trong những việc hệ trọng nhất của đời người, nên cha mẹ hai bên đều có thái độ thận trọng và nghiêm túc. Họ thường trực tiếp trao đổi ý kiến và bao giờ cũng dựa trên sự thuận tình của đôi trẻ chứ không theo hủ tục phong kiến "cha mẹ đặt đâu con ngồi đó".

Trước khi đến dạm hỏi, nhà trai nhờ người "đánh tiếng" với nhà gái về thời gian họ sẽ đến thưa chuyện. Người trực tiếp đi dạm hỏi là cha, mẹ chàng trai và một người đàn ông hàng xóm đứng tuổi có đức độ, uy tín và kinh tế khá giả. Lễ vật dạm hỏi chẳng có gì khác ngoài chai rượu trắng mặc dù nhà gái bao giờ cũng chuẩn bị sẵn mâm cơm thịnh soạn để đãi khách. Nếu nhà gái đồng ý sẽ đặt "tờ mệnh" ghi ngày tháng, giờ sinh của cô gái lên bàn thờ, vị đại diện nhà trai đặt lên đó 3.000 đồng và nhận lấy tờ mệnh. Nhà trai đem tờ mệnh đó về, đưa đến thầy mo cùng tờ mệnh chàng trai để xem số cho đôi trẻ. Nếu số đôi trẻ không hợp nhau, nhà trai chỉ cần thông báo đến nhà gái qua đôi lời nhắn nhủ. Nếu số hợp nhau, nhà trai sẽ đến nhà gái lần thứ hai, đặt lên bàn thờ gia tiên 12.000 để làm lễ và ít ngày sau đó, lễ đặt chân gà (tức lễ đính hôn) được tổ chức.

Trong lễ đính hôn, nhà trai đem đến nhà gái lễ vật bao gồm hai con gà, hai chai rượu, hai ống gạo nếp. Nếu gà được nhà gái đem mổ ngay để làm đồ cúng là mọi việc suôn sẻ. Hai họ sẽ tiếp tục chuyện trò, thỏa thuận số lượng các đồ lễ mà nhà trai phải đem sang nhà gái trong dịp cưới. Số lượng này tùy thuộc vào dòng họ cô gái lớn hay bé và phong tục riêng của mỗi tộc Dao. Với Dao đỏ vùng Tràng Định là 4 triệu tiền mặt, 140kg thịt lợn, 8 lít rượu, 1 con gà và số thịt dùng để chia phần cho những người thân thích trong gia đình cô dâu (trước đây ông, bà ngoại mỗi người 12kg, con trai cả của ông ngoại 8 kg, con trai thứ, con gái của ông ngoại và anh chị em ruột của cô dâu mỗi người 2 kg). Với Dao Lù Gang vùng Mẫu Sơn là 1,5 triệu đồng, 50kg thịt lợn, 50 lít rượu trắng, 30kg gạo và một số thịt phần. Với Dao Thanh Y ở Đình Lập đồ thách cưới có phần khiêm tốn hơn, chỉ có 40kg thịt lợn, 1 đến 2 đồng bạc trắng và 1,8 triệu tiền mặt.

Một nửa số tiền mặt đó nhà trai phải đưa cho nhà gái trước khoảng mươi ngày để mua một đôi hoa tai bằng vàng hoặc bạc, 2 chăn bông, 2 chiếc chiếu, 2 phích đựng nước, 2 nồi con. Những tư trang và đồ dùng này được bổ sung vào số của hồi môn cùng với toàn bộ tặng phẩm và tiền mừng của người thân, dân bản sẽ được đem về nhà trai trong lễ rước dâu.

Sau lễ đính hôn, nếu không gặp điềm gì xấu như giữa đường gặp rắn bò ngang, hoẵng kêu, nhện sa, thì lễ cưới sẽ được gấp rút chuẩn bị. Nhà trai xem được ngày tốt, đem hai lít rượu đến nhà gái thông báo ngày cưới. Nhà gái nhận rượu, đem một lít ra uống cùng nhau, một lít gửi biếu ông bà ngoại, vừa là để tỏ lòng hiếu thảo, vừa là kính báo sắp gả con.

Lễ cưới của người Dao còn được gọi là lễ uống rượu. Trong ngày vui đó, chỉ có chú rể người Dao Thanh Y mới đi đón dâu. Cùng đi với chú rể có một ông hàng xóm đức độ, uy tín, gia cảnh đề huề (như người đại diện và chứng kiến), một người đàn bà đứng tuổi giúp chú rể ăn vận trang phục truyền thống.

15h ngày hôm đó, họ đến sát bản Đông Áng thì dừng lại bên bờ sông chờ ông đại diện thông báo cho nhà gái và xin phép thày mo. Mỗi lần thông báo và xin phép đó, ông đại diện đều đặt lên bàn thờ vài ba ngàn đồng để làm lễ. Mặc dù thày mo đã cho phép, đoàn nhà trai vẫn không được đến thẳng nhà gái mà phải đến một nhà hàng xóm gọi là nhà tiền trạm. Nhưng để vào được nhà tiền trạm này, chú rể khoác lên người bộ áo cưới có khá nhiều dải vải hoa văn sặc sỡ trông như những lá bùa và phải qua ba lần dừng lại trước dải lụa đào do bốn người phụ nữ giăng ngang và hát những bài dân ca chúc mừng. Cứ sau mỗi bài hát, ông đại diện nhà trai lại vui vẻ thưởng cho bốn người ngăn đường 12.000đ để dải lụa đào được mở ra. Ngày hôm sau khi sang nhà gái, họ còn trải qua 2 lần ngăn đường như thế, một lần ở cửa nhà, một lần ở cửa buồng cô dâu.

Ông Phóng - bố đẻ cô dâu - trịnh trọng đặt lên bàn thờ một mâm cơm cúng. Thày mo rì rầm khấn báo tổ tiên về việc có một người con gái trong gia đình đi làm dâu con ở dòng họ khác. Cô dâu Hà Thị Vân từ trong buồng riêng đi ra, nghẹn ngào xúc động vái lạy tổ tiên 3 lần trước sự chứng kiến của người thân. Rồi cô bước ra khỏi nhà mà không được phép quay lại. Theo sau cô là đoàn người đi đón dâu của họ nhà trai, kể cả những người gánh lễ vật đến nhà gái từ hai hôm trước, và một số người nhà gái đưa dâu cùng với của hồi môn.

Vượt qua hơn hai giờ đồng hồ đi bộ, những người rước dâu về đến nhà trai ở bản Khe Pặn. Tại đây một nghi lễ trang trọng nhất trong ngày cưới được tổ chức - cô dâu vái lạy tổ tiên nhà chồng. Bàn thờ trong ngày cưới được gọi là Hồng Đường (tiếng Dao là Hoòng Toòng), có kê một dãy bàn ghế trang trọng, trên bàn có bày 12 bát con, 12 đôi đũa, 12 chén rượu tượng trưng cho 12 họ đầu tiên của người Dao và vài bát gan lợn. Bố mẹ chàng rể chắp tay mời 12 vị đáng kính nhất của chủ và khách lên ngồi vào hai dãy ghế ở hai bên bàn. Thày mo bắt đầu tiến hành các nghi lễ. Cô dâu và chú rể được dẫn đến trước Hồng Đường. Cô dâu trùm khăn kín mặt, đứng lạy, chỉ có chú rể quì xuống 3 lần, mỗi lần 3 lễ tổ tiên. Lễ xong, cô dâu, chú rể vào buồng riêng, trả lại mấy gian nhà ngoài cho quí khách khề khà nhắm rượu và chuyện trò rôm rả.

Hai ngày hôm sau, đôi vợ chồng trẻ mới đưa nhau về nhà gái làm lễ lại mặt (tiếng Dao gọi là ùi mỉn). Gia đình nhà trai cho một cô bé gái từ 12 đến 15 tuổi đi theo để khi đến gần nhà gái thì gánh giúp đồ lễ. Đồ lễ có gà, rượu, bánh (hoặc gạo). Ngày hôm đó, chú rể được bố vợ dẫn đi chào họ hàng thân thích. Hôm sau, đôi vợ chồng trẻ mới quay lại Khe Pặn, và cuộc sống mới thực sự bắt đầu.

Lên vùng cao Lạng Sơn vào mùa đông và mùa xuân rất hay gặp đám cưới Dao. Bạn sẽ có cảm giác như gặp một rừng hoa di động, bởi vì trang phục của con gái Dao thật đẹp và rực rỡ. Tất nhiên là bạn sẽ phát hiện thêm một vài điều không giống với những nghi lễ mô tả trong bài viết này. Giữa các tộc Dao ở các địa phương thường có những phong tục riêng, khác biệt. Nhưng có điều chắc chắn là bạn sẽ được họ nhiệt thành mời uống những chén rượu mừng ngất ngây nồng ấm.

(Theo Dương Văn)

HELLBOY