Dưới đây là bài tham luận của Nguyễn Xuân Diện ở tiểu ban 1, được viết xong vào tháng 6 năm 2004.
Đã trình bày tại Hội nghị khoa học Tiểu ban 1: Những vấn đề chung về Hoàng thành Thăng Long, họp tại Viện Khảo cổ học. 27-30/7/2004

Vị trí Kinh thành Thăng Long và Hoàng thành Thăng Long
qua ghi nhận của thư tịch cổ



1. Vị trí của núi Nùng và điện Kính Thiên:

Trong cuộc thảo luận về vị trí của Hoàng thành Thăng Long vừa qua, vị trí của núi Nùng được cho là rất quan trọng, vì sách cổ chép rằng điện Kính Thiên đời Lê dựng trên núi ấy, nên giúp cho việc định vị Hoàng thành (bài của GS. Trần Quốc Vượng).
Trước đây, trong chuyên khảo “Hà Nội trong giai đoạn anh hùng (1873 -1888)” [Hanoi pendant la période héroique (1873 -1888)], xuất bản tại Paris năm 1929, tác gi André Masson cũng cho biết điện Kính Thiên được xây trên gò đất thiêng Nùng Sơn, “gò núi trong nhiều thế kỷ được coi như núi hộ mệnh của thành phố”. Ông còn dẫn ghi chép của các sĩ quan Pháp có mặt tại Hà Nội vào ngày 15 -11 -1875 (Chapotot), và tháng Năm năm 1885 (Frédéric Garcin), và cả ghi chép của Trương Vĩnh Ký khi thăm Bắc kỳ năm 1876.
Gần đây, trong chuyên khảo Tìm lại dấu vết thành Thăng Long, học gỉa Phạm Hân (tức Phạm Kim Hùng, cán bộ Bộ Ngoại giao, nay đã quá cố) đã có một bài viết riêng về núi và điện, dưới tiêu đề “Núi Nùng với điện Kính Thiên”. Đoạn viết đó dài 4 trang (chỉ có ở bản in năm 2003), cho biết các tư liệu sau đã chép Núi Nùng ở giữa thành Hà Nội: Đại Nam nhất thống chí, Hoàng Việt địa dư chí, Thăng Long cổ tích khảo, Long Biên bách nhị vịnh, Thượng kinh phong vật chí.
Nay xin dẫn thêm và dẫn lại các kho cứu của người xưa về vị trí của núi để các nhà khảo cổ có thêm tài liệu tham khảo.
1.1. Danh sĩ, học giả Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) trong bài “Trả lời các câu hỏi về di tích ở Thăng Long” cho một người bạn, vào tháng Hai, năm Ât Hợi (1815), niên hiệu Gia Long, có viết về núi Nùng, trong mục Danh sơn, sách Châu Phong tạp thảo như sau:

“Núi Nùng: Núi đất ở giữa thành Thăng Long. Khi triều Lý định đô, xây dựng làm chính điện. Triều Lê là điện Kính Thiên, nay là Bắc thành. Hoàng cung ở phía trước điện. Đời truyền, ở trên điện phía sau tòa ngự, núi và đầm thông khí như hình hang chuột, đó là rốn rồng[long tê]”.[tờ 8a].
Phạm Đình Hổ còn cho biết, ngoài núi Nùng, còn có núi Tam Sơn, núi Khán Sơn, núi Thái Hoà. Về núi Tam Sơn, ông viết như sau: “Tam Sơn: Núi đất ở trong thành Thăng Long, nằm về phía Bắc Hoàng cung”[tờ 8a]. Về núi Thái Hoà thì: “Núi đất ở phía Tây, bên ngoài thành Thăng Long” [tờ 8b]. Về núi Khán Sơn, vì văn bản mất chữ nên không còn đọc được những chữ xác định vị trí. (Châu Phong tạp thảo, VHv.1873. Tờ 8a và 8b)
Như vậy: Núi Nùng là núi đất ở giữa thành Thăng Long. Thời Lý là vị trí chính điện. Thời Lê là vị trí của điện Kính Thiên. Và trong thành Thăng Long không chỉ có núi Nùng mà còn có núi Tam Sơn. Khái niệm “Thành Thăng Long” là chỉ một phạm vi rộng, trong đó có “Hoàng cung”(Cấm thành). “Hoàng cung” không trùng với điện Kính Thiên.
1.2 Cụ Đặng Xuân Khanh, sau khi tham khảo sách cổ ở Viễn Đông bác cổ học viện đã viết về núi Nùng như sau:

“Núi Nùng ở chính giữa kinh thành, còn có một tên nữa là núi Long Đỗ. Núi hình tròn, cây cối um tùm, tiếp liền với Tây Hồ; đằng sau có Tam Sơn làm chẩm (...). Lý Thái Tổ định đô ở đây, lấy núi này làm án, dựng chính điện ở trên (...). Triều Trần đổi làm hành cung, dựng lầu Vọng Nguyệt đối diện với núi Nùng. Triều Lê là điện Kính Thiên. Triều Nguyễn đặt hành cung, vẫn theo tên cũ. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) đổi làm điện Long Thiên”(Thăng Long cổ tích kho tịnh hội đồ, VHv.2471. Tờ 9 a và 9 b).
Như vậy: Núi Nùng có tên gọi là núi Long Đỗ (Chữ Hán viết Long là Rồng, đỗ là bụng. Long đỗ là bụng rồng). Triều Lý dựng nền điện trên núi. Triều Lê dựng điện Kính Thiên trên núi. Triều Nguyễn đặt hành cung ngay trên núi, đến 1843 đổi làm điện Long Thiên.
1.3. Thăng Long cổ tích khảo (không rõ niên đại) chép về núi Nùng như sau:

Núi ở chính giữa thành. Núi không cao lắm, đất đá lẫn lộn. Thời Đường, Cao Biền gọi núi này là Mũi rồng (Long Tỵ) và làm bùa để yểm đi. Đào lên, qủa là có một lỗ thông khí, như hình hang chuột. Triều Lý, xây chính điện lấy núi này làm án. Triều Lê xây điện Kính Thiên lấy núi này làm chẩm. (Thăng Long cổ tích khảo, A.1820. Tờ 17b)
Như vậy: Theo tài liệu này thì núi Nùng được Cao Biền gọi là Mũi rồng, không phải là bụng rồng hay rốn rồng như các cách gọi khác từng được thư tịch ghi nhận. Và các triều Lý và Lê đều không xây điện lên trên núi mà chỉ lấy núi là án hoặc chẩm mà thôi. Cũng sách này, khi viết về đền Long Đỗ thần quân, cho biết ngôi đền nằm phía Bắc Long thành, trấn giữ phương Bắc, khi xưa Cao Biền đến yểm mà không được nên phải lập đền [tờ 15b và 16a].
1.4. Từ những ghi chép trên, ta có thể rút ra một vài điều như sau:
- Núi Nùng nằm giữa thành Thăng Long.
- Nhiều tài liệu chép cho đây là Rốn rồng, nhưng lại có tài liệu cho là Mũi rồng, Bụng rồng.
- Trên núi Nùng đời Lý dựng chính điện, đời Lê dựng điện Kính Thiên. Có tài liệu chép chỉ lấy núi làm án hay chẩm chứ không xây cất ở trên.
- Núi Nùng không trùng với nền Hoàng cung. Trong bài “Trả lời các câu hỏi về di tích ở Thăng Long”, sách Châu Phong tạp thảo, viết vào khoảng thời gian từ 1790 đến đầu thời Minh Mệnh (1820), của Phạm Đình Hổ thấy có xuất hiện hai cách gọi này: Thành Thăng Long (có chỗ gọi là Long thành), Hoàng cung. Theo đó, Thành Thăng Long là chỉ một khu vực rất rộng, bên trong là Hoàng thành - tức là khu vực bao quanh nơi Vua ở. Trong Hoàng thành là Hoàng cung (tức Tử Cấm thành) chỉ nơi sinh hoạt và làm việc của nhà Vua.

2. Thêm một số dẫn liệu về ranh giới thành Thăng Long:
Trong báo cáo “Kết qủa thăm dò Khảo cổ học Đoan Môn, Bắc Môn, Hậu lâu, 62 - 64 Trần Phú và vấn đề vị trí, quy mô của Hoàng thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê” của PGS.TS Tống Trung Tín, ngày 3 tháng 6 - 2004 tại Hà Nội có dẫn các thư tịch cổ để xác định ranh giới và quy mô Hoàng thành Thăng Long ở bốn phía Bắc - Nam - Tây - Đông. Cụ thể như:
- Phía Bắc: Chùa Am Cửa Bắc, chùa Linh Sơn, quán Trấn Vũ, chùa Trấn Quốc;
- Phía Nam: Cột cờ, chùa Long Khánh, đàn Nam Giao, chùa Hàm Long;
- Phía Đông: Chùa Cầu Đông, đình Đông Môn, Hội Quán Phúc Kiến, đền Bà Móc, chùa Thái Cam, đền Bạch Mã, Ô Quan Chưởng, đình Hoa Lộc;
- Phía Tây: Chùa Một Cột, Chùa Am Cây Đề, đình Đông Các, chùa Láng, chùa Huy Văn.
Nay chúng tôi xin đưa thêm một số dẫn liệu nữa, góp phần xác định ranh giới Kinh thành Thăng Long, rút từ Châu Phong tạp thảo như sau:
- Phía Tây Bắc thành có: Quán Trấn Vũ [tờ 14a]
- Phía Tây Nam thành có: Hồ Tú Yên [UYÊN](phường Bích Câu)[tờ 9a]
- Phía Tây thành có: Chùa Một Cột [tờ 11a], Đền Linh Lang [tờ 20a]
- Phía Đông Nam thành có: Hồ Tả Vọng (tức hồ Hoàn Kiếm) [tờ 8b]
- Phía Nam thành có: Văn Miếu [tờ 9a]

3. Vị trí thành Thăng Long qua các đời:
Một số nhà nghiên cứu trước đây đã khẳng định thành Hà Nội xây trên nền tành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê. Và thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê nằm trên nền thành Đại La của Cao Biền. Dưới đây xin giới thiệu một ý kiến khác về vấn đề này.
Nhà sử học Đặng Xuân Bảng (1828 - 1910) có một cuốn sách rất giá trị về sử học, đã được cụ Đỗ Mộng Khương dịch, Viện Sử học và Nxb Văn hóa thông tin xuất bản năm 1997. Đó là cuốn Sử học bị khảo - tác phẩm mà GS. Đào Duy Anh xem “là một công trình nghiên cứu điạ lý học lịch sử quan trọng nhất trong học giới nước ta ở thời phong kiến”.
Sách có phần Địa lý khảo, trong đó có hai phần có giá trị tham khảo tốt là “Các nơi đô hội xưa nay” và “Đô thành nước ta”. Phần “Các nơi đô hội xưa nay” có đoạn:

“Xét sách An Nam kỷ yếu chép rằng: “Lý Nguyên Gia đời Đường Mục Tông (820 - 824) làm đô hộ thấy cửa phủ có dòng nước ngược, sợ người Giao Châu làm phản, nên năm Trường Khánh thứ 4 (824), sai thầy địa lý xem đất, chọn được đất ở bờ sông Tô Lịch liền đắp thành nhỏ rồi dời phủ đến đấy ở. Xem thế thì thành Thăng Long bắt đầu từ niên hiệu Trường Khánh (821 - 824) dời đi trong niên hiệu Bảo Lịch (825 - 827), đắp lại trong niên hiệu Hàm Thông (850 - 874). Từ đời Lý, đời Trần về sau, đời nào cũng có sửa đắp. Nay các thành có 16 cửa ô, 36 phố phường là xây dựng trong niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786) đời Lê, chứ không phải dấu cũ thành Đại La của Cao Biền. Thành Đại La của Cao Biền lại không phải dấu cũ thành Đại La của Trương Bá Nghi, cũng không phải lỵ sở Giao Chỉ cũ đời Tùy. (Tùy thư chép quận lỵ Giao Chỉ ở Tống Bình, là chưa xét rõ).(Sđd trang 264 - 265).
Sau Đặng Xuân Bảng, một tác gỉa người Pháp là Madrolle trong cuốn sách Guides Madrolle, Indochine du Nord, Tonkin, xuất bản tại Hà Nội năm 1939 cũng có ý kiến gần trùng với Đặng Xuân Bảng. Những nghiên cứu này đã được nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Đạm lưu ý. Hơn nữa, sơ đồ của La Thành (767), Đại La thành (867) và Thăng Long thành (1010) theo nghiên cứu của Madrolle còn được giới thiệu tại trang 16, trong cuốn sách Thành lũy Phố phường và Con người Hà Nội trong lịch sử của Nguyễn Khắc Đạm, xuất bản năm 1999.
Mới đây, trong hội thảo về Vị trí, quy mô Hoàng thành Thăng Long, tại Hà Nội ngày 3 - 6 - 2004, GS. Lê Văn Lan lại khẳng định các thành từ thời Cao Biền đến Nguyễn ở Hà Nội “đều chung một vị trí (tức ở cùng một chỗ) và sấp sỉ như nhau (tức gần bằng nhau) về quy mô”.
Hà Nội, tháng 6 -2004


Tài liệu tham khảo chính
Sách chữ Hán - Nôm ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm
1. Châu Phong tạp thảo. VHv.1873
2. Thăng Long cổ tích khảo. A.1820
3. Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ. VHv.247
Sách tiếng Việt
4. Đại Việt sử ký toàn thư. Tập II. In lần thứ hai có sửa chữa. Cao Huy Giu phiên dịch. Đào Duy Anh hiệu đính, chú gỉai. Nxb KHXH. H, 1972. [Trang 92].
5. Đại Việt sử ký toàn thư. Bản in Nội các quan bản. Tập II. Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích. Hà Văn Tấn hiệu đính. [Trang 320]. Và tập IV chụp nguyên bản chữ Hán. [Trang 336]. Nxb KHXH. H, 1993.
6. Phạm Đình Hổ - Tuyển tập thơ văn. Trần Kim Anh dịch và giới thiệu. Nxb KHXH. H, 1998.
7. Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo. Đỗ Mộng Khương dịch. Viện Sử học và Nxb Văn hóa Thông tin. H, 1997. [Trang 264 - 265]
8. Đặng Xuân Khanh: Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ. Bản dịch của Đinh Thanh Hiếu. Bản thảo chưa xuất bản.
9. Đỗ Văn Ninh: Thành cổ Việt Nam. Nxb KHXH. H, 1983.
10. Phạm Hân: Tìm lại dấu vết thành Thăng Long. Tái bản có bổ sung. Nxb Văn hóa Thông tin. H, 2003.
11. Andre' Masson : Hà Nội giai đoạn 1873 - 1888. Lưu Đình Tuân biên dịch. Nxb Hải Phòng. Hải Phòng, 2003.
12. Nguyễn Khắc Đạm: Thành lũy Phố phường và Con người Hà Nội trong lịch sử. Nxb Văn hóa Thông tin. H, 1999. [Trang 15 -16].
13. Các tham luận Hội thảo khoa học: “Vị trí, quy mô Hoàng thành Thăng Long qua hệ thống bản đỗ và tư liệu khoa học”, do Viện Khảo cổ học tổ chức tại Hà Nội, ngày 3 - 6 - 2004, của các tác gỉa: Tống Trung Tín, Trần Quốc Vượng, Đỗ Văn Ninh, Nguyễn Duy Hinh, Lương Ninh, Nguyễn Vinh Phúc, Bùi Thiết, Lê Văn Lan.
14. Các bài báo đưa tin về Hội thảo khoa học nêu trên, đăng trên các báo: Gia đình & Xã hội, Tiền Phong, Khoa học và Đời sống, VNNET, Nghiên cứu Lịch sử.