Ý KIẾN CỦA CÁC NHÀ KHOA HỌC VỀ VỊ TRÍ CỦA
KHU VỰC KHAI QUẬT 18 HOÀNG DIỆU
1. Nhà sử học BÙI THIẾT cho rằng:
“Cuộc khai quật khảo cổ học ngẫu nhiên tọa lạc vào khu vực trung tâm Hoàng thành, như một cố ý để Thăng Long tự hiện lên làm nhân chứng cho ngàn năm Thăng Long – Hà Nội”(HN, 21/5/2004)
Nguồn: Thử xác định vị trí thành Thăng Long từ hệ thống bản đồ trước thế kỷ XIX. Hội thảo về Hoàng thành Thăng Long ngày 03/6/2004 tại Viện Khảo cổ học.
2. PGS.TS TỐNG TRUNG TÍN:
Năm 2004:
* Về vị trí của thành Thăng Long thời Lý – Trần – Lê ở đâu đó là một vấn đề mà giới nghiên cứu đã quan tâm và thảo luận từ lâu. Đại thể có hai quan điểm chính sau:
- Trung tâm là điện Kính Thiên ngày nay vẫn còn nền móng và các thành bậc chạm rồng và hoa lá thời Lê Sơ.
- Ý kiến của học giả Trần Huy Bá, Hoàng Đạo Thúy v.v…thì cho rằng thành Thăng Long thời Lý – Trần ở phía tây vườn Bách Thảo.
* Từ tư liệu khảo cổ học kết hợp với nguồn thư tịch cổ và các di vật hiện còn trên mặt đất, chúng ta có thể hiểu rõ thêm về vị trí và quy mô Hoàng thành Thăng Long thời Lý – Trần – Lê:
1. Ranh giới phía Bắc: có chùa Am Cửa Bắc, chùa Linh Sơn, quán Trấn Vũ, chùa Trấn Quốc. Đáng lưu ý nhất là chùa Am Cửa Bắc.
2. Ranh giới phía Nam: có Cột Cờ, chùa Long Khánh, đàn Nam Giao, chùa Hàm Long. Đáng lưu ý là các di tích sau: Di tích Cột Cờ, bia chùa Hàm Long.
3. Ranh giới phía Đông: chùa Cầu Đông, đình Đông Môn, Hội quán Phúc Kiến, đền Bà Móc, chùa Thái Cam, đền Bạch Mã, Ô Quan Chưởng, đình Hoa Lộc. Đáng chú ý là các di tích sau: Chùa Đông Môn, Hội quán Phúc Kiến ở 40 phố Lãn Ông, chùa Thái Cam 16 D Hàng Gà.
4. Ranh giới phía Tây: có chùa Một Cột, Am Cây Đề, đình Đông Các, chùa Láng, chùa Huy Văn v.v…Đáng lưu ý nhất là các di tích sau: Chùa Một Cột, chùa Am Cây Đề (Thanh Ninh tự) 2 phố Lê Trực, chùa Huy Văn.
* Quy mô của Hoàng thành Thăng Long thời Lê được xác định ỏ khoảng sau:
- Bắc khoảng đường phố Phan Đình Phùng
- Nam khoảng đường phố Trần Phú
- Đông khoảng phố Thuốc Bắc
- Tây khoảng đường Hùng Vương.
Nguồn: Kết quả thăm dò Khảo cố học Đoan Môn, Bắc Môn, Hậu lâu, 62-64 Trần Phú và vấn đề vì trí, quy môn của Hoàng thành Thăng Long thời Lý – Trần - Lê. Hội thảo về Hoàng thành Thăng Long ngày 03/6/2004 tại Viện Khảo cổ học.
Năm 2007:
Về vị trí của kinh thành Thăng Long, trong nửa thế kỷ XX giới khảo cổ học và sử học đã nghiên cứu, thảo luận và hình thành nên số ý kiến khác nhau mà tựu chung có 2 loại ý kiến:
- Trần Quốc Vượng và Vũ Tuân Sán cho rằng trung tâm của kinh thành Thăng Long là điện Kính Thiên thời Lê (thế kỷ) được xây trên nền điện Càn Nguyên (sau đổi là điện Thiên An) trung tâm thiết triều của triều Lý và triều Trần (thế kỷ XI – XIV).
- Các ý kiến khác đều cho rằng vị trí của thành Thăng Long không phải là ở điện Kính Thiên mà nghiêng về phía Tây và sau đó dịch chuyển dần về phía đông.
Các phát hiện mới về khảo cổ học đã chứng minh ý kiến của Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán là có cơ sở xác thực bởi hai lý do sau:
- Thứ nhất, khi khai quật thăm dò ở khu vực Quần Ngựa, khảo cổ học đã không tìm thấy tầng văn hóa dày và các dấu tích kiến trúc dày đặc trải suốt từ thời tiền Thăng Long cho đến thời Lý – Trần – Lê như ở khu vực Ba Đình. Nhiều đồ phế thải của lò nung tìm thấy ở đây cho thấy khu vực này có thể tồn tại những lò nung của các thời Lý – Trần – Lê cho thấy ở đây có những khu vực lao động sản xuất bình dân. Việc tìm thấy một số di tích kiến trúc cao cấp các thời Lý – Trần ở đây chí chứng tỏ rằng đó là một số dinh thự phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, thưởng ngoạn của quý tộc cung đình. Dấu tích kiến trúc thời Lê có nhiều hơn nhưng vẫn không dày đặc như ở khu trung tâm là sự minh chứng cho việc ghi chép về việc mở mang Hoàng thành Thăng Long dưới thời Lê. Do đó trung tâm thành Thăng Long Lý – Trần – Lê không phải ở khu vực Quần Ngựa.
- Thứ hai, cuộc khai quật năm 1998 tại Đoan Môn đã tìm thấy con đường đi lát gạch hình hoa chanh thời Trần ở độ sâu 1,90m. Con đường này có hướng tiến thẳng từ Đoan Môn đến Bắc Môn. Việc xây dựng con đường hết sức kiên cố, mặt đường được lát đẹp có sử dụng lại vật liệu xây dựng đời Lý. Điều đó chứng tỏ rằng đây là một con đường rất quan trọng trong Hoàng cung. Trong hiện trạng di tích ở đây thì có thể đoán đó là con đường chính đạo từ Đoan Môn tiến đến điện Thiên An thời Lý – Trần. Sau này thời Lê, thời Nguyễn đều tiếp tục xây con đường nàu ở bên trên con đường Lý – Trần.
Hai phát hiện trên đây kết hợp với việc phát lộ phức hệ di tích ở 18 Hoàng Diệu cách điện Kính Thiên khoảng 100m đã cho thấy khu vực trung tâm của thành Thăng Long thời Lý – Trần – Lê chính là khu vực có điện Kính Thiên. Xung quanh điện này, sử cũ ghi có hàng trăm cung điện, lầu gác, chùa quán khác của nhà vua. Chính điều này đã giải thích lý do vì sao khu vực khai quật 18 Hoàng Diệu có nhiều kiến trúc với nhiều loại hình chồng xếp, cắt phá lẫn nhau nhiều đến như vậy.
Hội thảo khoa học toàn quốc năm 2004 đã nhất trí xác định khu vực khai quật 18 Hoàng Diệu là một bộ phận trung tâm của Cấm thành cũng tức là trung tâm của Hoàng thành Thăng Long thời Lý – Trần – Lê.
Mặt khác, các cuộc khai quật cũng cho thấy rõ quy hoạch tổng thể của kinh thành Thăng Long thời xưa. Theo đó, kết hợp với các ghi chép của sử cũ, bản đồ cổ sẽ thấy quy hoạch của Thăng Long với đặc trưng nổi bật là một đô thị - sông hồ, trong đó khu trung tâm của kinh đô là ở khu trung tâm Ba Đình hiện nay với điện Kính Thiên là tâm điểm. Phía đông khu trung tâm kinh thành có sông Hồng với nhiều cửa sông, bên bãi là trung tâm trao đổi, buôn bán. Phía tây là nơi sản xuất thủ công nghiệp. Đó là quy hoạch khoa học đẹp, phù hợp với địa hình trung tâm châu thổ sông Hồng.
Nguồn: Những dấu tích của thành Thăng Long cần được bảo tồn và phát huy giá trị. Tham luận tại Hội thảo Bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa - cách mạng tiêu biểu của Thủ đô Hà Nội, ngày 12/5/2007 tại Viện Văn hóa thông tin, Bộ VHTT.
3. GS. TRẦN QUỐC VƯỢNG:
Trung tâm điểm của cấu trúc thành Đại La của Cao Biền (thế kỷ 9), của thàng Thăng Long thời Lý – Trần (thế kỳ 11-14) và cả của thành Đông Kinh thời Lê (thế kỷ 15 - 18 ) và cả Bắc thành (đời Gia Long), Hà Nội thành (đời Minh Mạng – Tự Đức) thời Nguyễn (thế kỷ 19) là Núi Nùng.
Cái ý của cụ Biệt Lam Trần Huy Bá và của cụ Hoàng Đạo Thúy (xem Lịch sử Hà Nội Trần Huy Liệu chủ biên, 1960; Thăng Long Đông Đô Hà Nội của Hoàng Đạo Thúy, 1967) là núi Nùng ở trong vườn Bách Thảo đã tỏ ra không vững. (Hà Nội hè 2004)
Nguồn: Lại bàn về vị thế Hoàng thành Thăng Long. Hội thảo về Hoàng thành Thăng Long ngày 03/6/2004 tại Viện Khảo cổ học.
4. GS. LÊ VĂN LAN:
Qua khảo sát một số tài liệu văn bản, ta thấy rằng: vòng tường Hoàng thành Thăng Long khởi đắp năm 1010 ở đầu thời Lý, có nguồn gốc/và thực tế/ là vòng tường thành Đại La đời Hàm Thông, do Cao Biền đắp năm 866, được Lý Thái Tổ sửa snag , tôn tạo. Vị trí và quy mô của nó, do đó, có thể được nhận diện, thông qua mấy điểm chuẩn, là: ở bờ nam sông Tô Lịch, bao quanh núi Nùng (Long Đỗ) ở trung tâm, cửa Đông mở ra ở trước phố Hàng Buồm ngày nay, và chu vi khoảng 6 km (lấy con số tròn).
…Thành cổ Hà Nội, Hoàng thành Thăng Long, thành Đại La. Tất cả đều chung vị trí (tức ở cùng một chỗ) và sấp sỉ như nhau (tức gần bằng nhau) về quy mô!
Nguồn: Vị trí và quy mô Hoàng thành Thăng Long đời Lý qua tài liệu văn bản. Hội thảo về Hoàng thành Thăng Long ngày 03/6/2004 tại Viện Khảo cổ học.
5. PGS.TS ĐỖ VĂN NINH:
Đã có thể kết luận chính xác rằng Thăng Long thời Lý - Trần, Đông Kinh thời Lê và cả Hà Nội thời Nguyễn nữa đều xây dựng với trục trung tâm Đoan Môn - Kính Thiên và Cột Cờ - Đoan Môn - Kính Thiên - Cửa Bắc. Trục Cột Cờ - Cửa Bắc có lệch vài độ so với trục Đoan Môn - Kính Thiên song về cơ bản có thể coi là một. Cũng có thể khái quát một câu rằng: Kinh đô nước ta tất cả mọi đời đều chỉ xây quanh một trục.
Nguồn: Những hiểu biết mới về Thăng Long.
6. PGS.TS ĐẶNG VIỆT BÍCH:
Khu vực 18 Hoàng Diệu mà di tích đã phát lộ, sau khi tham quan vài lần, thì tôi ngờ rằng: đây là một khu vực bếp ăn trong hoàng cung, với đống vỏ sò, hến…còn lưu giữ trong lòng đất.(Hà Nội 9/5/2007)
Nguồn: Một vài ý kiến về bảo tồn, phát huy các giá trị di tích lịch sử - văn hóa – cách mạng tiêu biểu của Thủ đô Hà Nội. Tham luận tại Hội thảo Bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa - cách mạng tiêu biểu của Thủ đô Hà Nội, ngày 12/5/2007 tại Viện Văn hóa thông tin, Bộ VHTT.
7/ GS.Phan Huy Lê:
Theo bản đồ quy hoạch của khu trung tâm chính trị Ba Đình, có nhiều lô. Trong đó, lô D có diện tích 57.000 mét vuông, nằm giữa bốn đường Hoàng Văn Thụ, Độc Lập, Bắc Sơn và Hoàng Diệu. Tại đây từ những năm 1960, đã xây nên Hội trường Ba Đình. Đến cuối thập niên 1990, có chủ trương xây dựng tại lô này hai tòa nhà lớn: Nhà Quốc hội và một tòa nhà phía sau, gần đường Hoàng Diệu, gọi là Hội trường Ba Đình mới.
Theo luật về di sản văn hóa, trước khi xây dựng các công trình lớn, cần tiến hành khai quật khảo cổ học. Đến giữa năm 2003, đã phát lộ một phức hệ di tích rất phong phú và đa dạng. Vào tháng 9-2003, Trung ương đã có chủ trương đúng là di chuyển ngay Hội trường Ba Đình sang khu đô thị mới Mỹ Đình và đổi tên thành Trung tâm hội nghị quốc gia.
Còn riêng khu nhà Quốc hội, ở trên chủ trương cho tiếp tục khai quật. Từ 2003 đến giữa 2004, diện tích khai quật lên tới 19.000 mét vuông, phát lộ một di tích vô cùng quý giá. Nó kéo dài suốt từ thời kì tiền Thăng Long, đến thời An Nam đô hộ phủ, trải qua thời Đinh và Tiền Lê, và đặc biệt là nó kéo dài liên tục qua thời Lý, Trần và Lê sơ.
Có rất nhiều di tích cung điện tại đây. Có cả những giếng nước còn nguyên vẹn, hệ thống thoát nước, chiến thuyền. và rất nhiều di vật. Di tích ở đây còn kéo dài đến tận thời Mạc, thời Lê – Trịnh cho đến cuối thế kỷ 18 và còn tiếp tục đến nửa đầu thế kỷ 19, tức là thời kì thành Hà Nội của triều Nguyễn. Các kiến trúc và di vật tìm được đã chứng tỏ nền văn hóa lâu đời của Việt Nam, kết tinh truyền thống xây dựng, các nghề thủ công cũng như cách thức tổ chức và quy hoạch ở trung tâm Hoàng thành.
Như vậy, tại lô D, ngoài di tích ở trên mặt đất, thì khảo cổ học đã chứng minh được là trong lòng đất có cả bề dày lịch sử ngàn năm Thăng Long. Mà đây là ở khu quan trọng nhất của thành Thăng Long, tức là Cấm thành.
Nguồn : http://www.bbc.co.uk/vietnamese/viet...huyle_iv.shtml
" Giáo sư có thể trình bày sơ đồ kiến trúc Cấm Thành theo sử liệu?
- Kết quả nhiều năm nghiên cứu về cấu trúc thành Thăng Long kết hợp với 2 năm nghiên cứu khảo cổ vừa rồi đã hội đủ những căn cứ khoa học cho phép khẳng định khu di tích 18 Hoàng Diệu nằm trong Cấm Thành. Ngay từ khi mới phát lộ năm 2003, các nhà sử học, khảo cổ học đã xác định khu di tích nằm trong Hoàng Thành, nay tiến lên một bước xác định khu di tích nằm trong Cấm Thành tức trung tâm của Hoàng Thành. Chúng ta có một số vật chuẩn quan trọng để định vị Cấm Thành.
Thứ nhất, trung tâm của Cấm Thành là Điện Kính Thiên thời Lê sơ, xưa là điện Càn Nguyên, Thiên An thời Lý, thời Trần. Đó là cung điện quan trọng bậc nhất, nơi tiến hành các nghi lễ long trọng nhất của triều đình, nơi tiếp sứ giả nước ngoài, nơi thiết triều bàn những việc quốc gia đại sự. Nền điện Kính Thiên bây giờ còn đó với bậc thềm và lan can đá chạm rồng mang đặc trưng nghệ thuật trang trí thế kỷ XV. Kiến trúc này xây dựng trên núi Nùng tức Long Đỗ (Rốn Rồng) nơi tụ hội khí thiêng của non sông theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền.
Thứ hai là Đoan Môn là cửa Nam của Cấm Thành. Tài liệu sử sách cho biết vị trí của Đoan Môn cũng không thay đổi qua các triều đại. Vừa rồi khảo cổ đã đào thám sát và xác định chắc chắn Đoan Môn còn lại hiện nay được xây dựng từ thời Lê, đến thời Nguyễn có sửa sang. Dưới chân Đoan Môn đã phát hiện dấu tích kiến trúc của thời Lý, thời Trần. Đoan Môn phải hiểu là cửa Nam phía trong trong cùng của Cấm Thành, bởi theo Phan Huy Chú và Nguyễn Văn Siêu thì phía nam Cấm Thành có ba lần cửa, nhìn trên bản đồ Hồng Đức cũng thấy điều đó. Theo một số tài liệu đời Nguyễn thì Cột Cờ được xây dựng trên nền cửa Tam Môn là cửa Nam ngoài cùng của Cấm Thành. Như vậy là Kính Thiên – Đoan Môn – Cột Cờ/Tam Môn là trục trung tâm của Cấm Thành.
Thứ ba là chùa Một Cột. Theo văn bia Sùng Thiện Diên Linh (chùa Đọi, Duy Tiên, Hà Nam) do Nguyễn Công Bật soạn năm 1121 thời Lý thì chùa Diên Hựu tức chùa Một Cột dựng ở phía tây Cấm Thành. Vậy tường thành phía tây của Cấm Thành không thể quá vị trí Chùa Một Cột. Theo bản đồ Hồng Đức và nhiều tài liệu địa lý học lịch sử, ở phía tây bắc của Cấm Thành có cửa Tây (Tây Môn) và phía ngoài có núi Khán Sơn và chùa Khán Sơn là nơi vua Lê Thánh Tông lên duyệt binh. Đầu thế kỷ XIX khi nhà Nguyễn xây dựng lại thành Thăng Long, từ năm 1831 đổi tên là thành Hà Nội, thì Khán Sơn nằm bên trong, ở về phía tây bắc của thành Hà Nội, nghĩa là nằm ở khoảng cuối Hùng Vương gần Phan Đình Phùng, trước mặt Phủ Chủ tịch và Thủ tướng phủ hiện nay. Từ đó, tôi phỏng đoán tường thành phía tây Cấm Thành ở vào khoảng đường Độc Lập đến giữa Quảng trường Ba Đình.
Vậy là ta đã xác định được vị trí trung tâm, trục trung tâm cùng giới hạn phía nam và phía tây của Cấm Thành. Theo bản đồ Hồng Đức, Cấm Thành có hình chữ nhật, nhưng Đông cung và Thái miếu ở phía đông - theo Nguyễn Văn Siêu - dù nằm trong tường thành bảo vệ nhưng không coi là trong Cấm Thành, và như thế Cấm Thành gần như hình vuông. Điều này cũng rất phù hợp với việc nhà Nguyễn xây dựng thành Hà Nội trên cơ sở mở rộng Cấm Thành, vì trong chỉ dụ của vua Gia Long có nói thành Thăng Long (Cấm Thành) chật hẹp, cho nên phải mở rộng thêm. Thành Hà Nội của nhà Nguyễn vì thế rộng hơn Cấm Thành, nhưng nhỏ hơn Hoàng Thành.
Nguồn : VietNamNet
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)




Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks