THUYẾT NGŨ UẦN PHÂN NỬA DUY VẬT, PHÂN NỬA DUY TÂM.

Tôi nhận thấy thuyết Ngũ Uẩn phân nửa duy vật, phân nửa duy tâm.

Duy vật – là khi nói con người do Ngũ Uẩn làm ra, thác rồi Ngũ Uẩn tan mất.

Duy tâm – là khi nói sự tríu mến đời rút Ngũ Uẩn mới làm ra một con người mới thọ lãnh nghiệp quả của người trước. Thật là Thần bí

CHÚNG TÔI KHÔNG TIN THUYẾT NGŨ UẨN NHƯ THẾ ĐÓ.

Chúng tôi không bao giờ tin thuyết Ngũ Uẩn như thế đó vì nó trái với chánh lý và không đúng với thật tế chút nào.

Trái với chánh lý vì lúc con người còn sanh tiền, sự tham sống và sự tríu mến đời do Ngũ Uẩn sanh ra; việc đó cho là phải; chớ sau khi con người thác rồi thì chúng nó cũng phải theo Ngũ Uẩn mà tan mất. Nói chúng nó còn lại thì nương tựa chỗ nào ? vào đâu ? Sự tham sống và sự tríu mến đời đâu còn nữa mà rút Ngũ Uẩn mới đặng làm ra một người mới. Người mới nầy đối với người cũ rất xa lạ mà lại lãnh nghiệp quả của người cũ.

Thật là vô cùng bất công.

Còn nhiều lẽ khác nữa :

a/ Theo thuyết Ngũ Uần thì đàn ông làm đàn ông mãi, còn đàn bà thì đàn bà mãi phải chăng ? Bởi vì không lẽ Ngũ Uẩn kiếp trước làm đàn ông rồi kiếp sau Ngũ Uần mới ráp thành đàn bà. Nếu đổ thừa tại nghiệp quả thì lại thêm rắc rối. Cái Nghiệp như chúng tôi đã nói; là kết quả của những tư tưởng, ý muốn, lời nói và việc làm lành hay dữ của một người. Cái Nghiệp làm gì biết tạo ra đàn ông hay đàn bà và có luật nào làm bao nhiêu điều lành được đầu thai làm đàn ông không ? Trọn một kiếp không phải người ta làm toàn là việc ác ? Cũng có làm những việc lành vậy. Như thế lành và dữ có bù trừ với nhau không ?

b/ Nếu Ngũ Uẩn làm ra con người bây giờ thì cũng là Ngũ Uẩn làm ra con người thuở xưa. Ai sanh chúng nó ra và ráp lại một cách khéo léo hết sức có đủ mặt mũi tay chơn, biết đi đứng nói năng, biết tưởng tượng, biết ham muốn, biết học hỏi, biết chế tạo, nhứt là việc sanh ra đàn ông và đàn bà. Có tinh trùng đực, tinh trùng cái không ? Có noãn sào đực, noãn sào cái không ? Tại sao hai tế bào hợp lại thành ra một người đàn ông hay một người đàn bà khác nhau từ hai bộ phận sanh dục cho tới diện mạo, cử chỉ giọng nói, tướng đi và thân hình.

Nhưng ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt thì Ngũ Uẩn làm ra những người da đen không tiến hóa bằng Ngũ Uẩn làm ra những người da vàng và Ngũ Uẩn làm ra người da vàng không văn minh bằng Ngũ Uẩn làm ra người da trắng. Toàn là những người đồng loại với nhau thì vì đâu có những sự bất công như thế đó ?

c/ Phải chăng theo thuyết Ngũ Uẩn thì những người ở xứ nào thì cứ đầu thai ở xứ nấy, bởi vì những người ở một nước, một xứ gây nhân quả với nhau mãi mãi chớ ít có khi gây với những ngoại bang. Hơn nữa theo thuyết Ngũ Uẩn nầy thì dân số trên địa cầu cứ giữ mãi một mực từ đời nầy qua đời kia, không tăng một người mà cũng không giảm một người.

Thí dụ dân số trên địa cầu là 3.864 triệu , nếu có 100.000 người chết thì sẽ có 100.000 Ngũ Uẩn khác thế vô chớ không có nguyên do nào để sanh thêm một người mới nữa, mang số 3.864 triệu lẻ một ( 3.864.000.001) cả. Mà đọc lịch sử thì ta thấy dân số thuở xưa ít hơn dân số ngày nay nhiều lắm.

d/ Theo thuyết Ngũ Uẩn thì số phần của những người tự vận sẽ ra sao ? Họ không còn tham sống. Họ không còn tríu mến đời nên họ mới tự sát. Sau khi Ngũ Uẩn của họ tan rã rồi thì sự tham sống và sự tríu mến đời đâu còn nữa, chỉ còn có cái Nghiệp mà thôi ?

Còn mấy đứa nhỏ sanh ra rồi chết, hoặc bỏ mình lúc 3-4 tuổi, 5-6 tuổi, chúng nó sẽ ra sao ?

Chúng nó đâu biết tríu mến đời, vì chưa đủ trí khôn ? Nói về nghiệp quả của đứa nhỏ mới sanh hay là 3-4 tuổi thì vô lý. 3-4 tuổi biết gì là tội, là phước.

Vịn theo thuyết Ngũ Uẩn thì phải giải quyết sự đầu thai của nó cách nào.

Chúng nó sẽ được đầu thai hay không ? Vào nhà nào ? Nước nào ? Và tại sao như thế ?

Còn nhìn vào thật tế thì quả là khí huyết cha mẹ tạo thành đứa nhỏ chớ không thấy sự ham sống, sự tríu mến đời hay là cái Nghiệp nào vô đó đặng rút Ngũ Uẩn làm ra một con người mới. Thế thì phải nghĩ làm sao bây giờ ?



THEO THUYẾT NGŨ UẨN ĐẠO PHẬT KHÔNG GIẢI THOÁT CHO AI CẢ.

Phải chăng theo thuyết Ngũ Uẩn, đạo Phật không giải thoát cho ai cả vì Ngũ Uẩn không cần giải thoát, chúng nó cũng tan rã. Còn nói giải thoát thì là giải thoát cho sự tham sống, sự tríu mến đời và cái Nghiệp thì đúng hơn. Mà chúng nó cần chi được giải thoát.



NẾU THUYẾT NGŨ UẨN QUẢ THẬT LÀ ĐÚNG THÌ NHỮNG VỊ PHẬT MẤY ĐỜI TRƯỚC VÀ ĐỨC THÍCH CA NGÀY NAY KHÔNG CÒN NỮA VÀ NIẾT BÀN LÀ CON SỐ KHÔNG.

Nếu quả thật thuyết Ngũ Uẩn là đúng với chơn lý thì quả vị Phật là con số không ( 0 ) và luôn mấy vị Phật đời trước và Đức Thích Ca ngày nay đâu còn nữa. Niết Bàn cũng là “không có gì hết”.

Bởi vì : Sự tríu mến đời của các Ngài,

Sự tham sống của các Ngài,

Và luôn cái Nghiệp của các Ngài

đã tiêu mất rồi.

Thế thì còn cái chi rút lại Ngũ Uẩn mới đặng làm ra một người mới, Đức Phật bây giờ không phải là Đức Thích Ca hồi trước đâu mà chính là một người mới khác và người nầy hưởng công quả của Đức Thích Ca và lãnh ngôi vị của Đức Thế Tôn.

Chắc chắn là các hàng Phật tử cũng như chúng tôi không công nhận điều nầy đúng với chơn lý.



NHỮNG ĐOẠN KINH PHẬT PHẢN ĐỐI THUYẾT NGŨ UẨN.

Sau đây là những đoạn kinh phản đối thuyết Ngũ Uẩn và mặc nhận có Linh hồn đi đầu thai.



I

LỜI TỶ DỤ VỀ CỤM RỪNG KỲ VIÊN.

Hỡi các đệ tử ! Nếu có người nào vô trong cụm rừng, chỗ chúng ta đang ở bây giờ lấy củi, lấy nhành cây, lá cây và cỏ đem về đặng đốt chụm, các đệ tử có cho rằng người đó nắm lấy các đệ tử và đốt các đệ tử chăng ? Các đệ tử bèn thưa : “Bạch Phật ! Cây cỏ không phải là các con và chúng nó cũng không phải thuộc về các con nữa”. Phật mới nói : “Vậy thì các con hãy thảy bỏ những cái nào không phải là của các con. Cái đó là nghĩa chi vậy. Ấy là các con bỏ xác thịt, bỏ sự cảm động, bỏ cái quan niệm, bỏ sự nhiệt động của cái trí, bỏ sự hiểu biết”. Mấy cái nầy có phải là Ngũ Uẩn không ?

Giáo lý và Triết lý đạo Phật trương 100.

(Le dogme et la philosophie du Boudhisme par Louis de la Vallée Poussin page 100).

II

NGƯỜI TU TRÌ TẤM LÒNG TRONG SẠCH

THÌ BIẾT ĐƯỢC MẤY KIẾP TRƯỚC CỦA MÌNH.

Trong cuốn kinh Samannaphala Sutta du Digha Nikaya có thuật mấy lời Phật nói như vầy : “Nếu một người kia từ giả làng va ở đặng đi qua làng khác, rồi bỏ làng đó đi qua làng khác nữa; chừng va trở về làng cũ, va có thể nói trong lòng rằng : “Thật là tôi đi từ làng tôi ở cho tới làng kia. Tôi đi cách nầy, tôi ngồi cách kia, rồi từ làng đó tôi đi qua làng khác, tôi cũng ngồi đứng như vậy, rồi cũng chính là tôi trở về làng cũ của tôi”.

Muôn tâu Đức Hoàng Thượng ! Người tu trì tấm lòng trong sạch rồi thì biết được mấy kiếp trước của mình. Va nhớ lại rằng : “Tôi sanh vào dòng nào, tôi tên chi, tôi ở chốn nào, tôi ăn uống làm sao, tôi chịu đau đớn hay là được vui vẻ cách nào. Rồi chính là tôi ở chỗ đó đầu thai lại đây vậy.

III

MỘT ĐOẠN KINH SAMYUTTA NÓI VỀ THỨC.

Có một đoạn kinh Samyutta nói về Thức như sau đây :

“Hỡi các đệ tử ! Cái mà người ta gọi là trí thức và tư tưởng hay là sự hiểu biết sanh ra rồi tan mất, ngày đêm thay đổi liền liền cũng như con khỉ nhảy nhót giỡn chơi trong rừng, buông nhánh nầy rồi bắt nhánh nọ vậy. (De même ô disciples, qu’un singe prenant ses ébats dnas une forêt ou dans un bois saisit une branche puis la laisse échapper et en saisit une autre, ainsi, disciples, ce qui est nommé l’esprit et la pensée ou la connaissance se produit et disparait dans un perpétuel changement de jour et de nuit).

Theo đoạn kinh nầy “Thức” không phải là “bất di bất dịch”. Nó thay đổi liền liền, ngày đêm không ngớt, và không “quan trọng”.

Theo khoa học hiện kim thì trong 7 năm xương cốt da thịt, tóc tai con người đều đổi mới hết. Còn máu huyết thì nội trong vài hôm đã biến ra khác, rồi do đồ ăn đem vô mình và luôn khí trời của ta thở nữa.

Vậy thì hết 7 năm, Ngũ Uẩn làm ra con người đều đổi hết một lần, da thịt khác, ý muốn khác, việc làm khác; nghĩa là Ngũ Uẩn 21 tuổi không giống Ngũ Uẩn hồi 14 tuổi, Ngũ Uẩn hồi 28 tuổi chẳng in Ngũ Uẩn hồi 21 tuổi, nhưng mà chúng nó phải thọ lãnh những hậu quả của Ngũ Uẩn từ 14 tuổi tới 27 tuổi đã gây ra; mà chính là chúng nó không biết chi về mấy việc ấy cả. Không đợi kiếp sau, một kiếp nầy ta đã thấy sự bất công rồi. Còn một lẽ quan trọng nhứt là :

Nếu Thức thay đổi liền liền thì Thức nào sanh ra danh sắc và làm cách nào sanh ra danh sắc trong thuyết Thập Nhị Nhơn Duyên và vô minh khởi đầu hồi nào ?

IV

CHUYỆN BÚT GA LA (PUDGALA) HAY LÀ MỘT NGƯỜI MANG GÁNH NẶNG.

Ta sẽ dạy người cho biết cái gánh nặng, người mang gánh nặng, khi cất gánh nặng lên vai và khi đặt gánh nặng xuống. Cái gánh nặng là Ngũ Uẩn. Người mang gánh nặng là Bút ga la (Pudgala); người nào đó hoặc một nhà sư, tên chi, thuộc dòng giống nào, sống bao nhiêu năm . . . Cất gánh nặng lên vai tức là khát khao, tức là ham muốn sự vui vẻ kiếp sống và lúc không còn sống nữa, để gánh nặng xuống tức là dứt hết sự khát khao. Để gánh nặng xuống và không cất gánh nặng mới khác, dứt được cội rễ sự khát khao, Bút ga la nhập vào cõi Niết Bàn.

(Giáo lý và Triết lý đạo Phật trương 90).

V

PHÁP CÚ – CÂU THỨ 380.

- Cái Ta là thầy của ta. Mỗi người đi trong con đường riêng của nó. Anh hãy tự điều khiển mình cũng như người lái buôn cầm cương con ngựa hung hăng.

(Le Moi est le Maître du moi, chacun marche dans sa voie à lui. Tenez vous donc vous même en rênes comme un mạrchand tient en rênes un coursier impétueux).

Cái Ta lớn nầy có phải là Linh hồn không ? Cái ta nhỏ có phải là Ngũ Uẩn hay là phàm nhơn không ?

Tiện đây tôi xin bàn về :

CHUYỆN VUA MILINDA VÀ ĐẠI ĐỨC NAGASENA
hay là
THUYẾT VÔ NGÃ.

Trong cuốn “Đức Phật, Đời sống, Giáo pháp và Hội Tăng Già của Ngài” tác giả Ông M. Oldenberg (Le Boudha, sa vie, sa doctrine, sa communauté par Oldenberg) nơi trương 289 có thuật câu chuyện đối thoại giữa vua Milinda và Đại đức Nâgasena, xin tạm dịch như sau đây:

Vua Hi Lạp Milinda [4] (tên thật là Ménandre) hỏi Đại đức Nâgasena [5] :

- Bạch Đại đức ! Người ta biết Ngài dưới đạo hiệu nào ? Ngài tên chi ?

Nâgasena đáp :

- Tâu Bệ hạ ! Tôi tên Nâgasena. Nhưng Nâgasena chỉ là một cái tên, một tiếng gọi, một danh từ mà thật sự không có ai là Nâgasena cả.

Đức vua hỏi :

- A ! 500 vị Thượng tọa Javanas (Hi Lạp) và 80.000 tăng lữ hãy nghe Đại đức Nâgasena nói đó. Ngài cho rằng “không có Nâgasena”. Ai có công nhận điều đó không ?

Bạch Đại đức, nếu không có Nâgasena thì ai dâng cho Ngài những đồ ăn cần dùng, quần áo, vật thực, nhà ở và ai cho thuốc men những kẻ bịnh hoạn ? Ai hưởng những vật đó ? Ai sống trong đức hạnh ? Ai trau dồi tánh nết ? Ai bước vào đường đạo và chứng quả Thánh ? Ai nhập Niết Bàn ? Ai sát sanh ? Ai trộm cắp ? Ai hưởng khoái lạc ? Ai vọng ngữ ? Ai uống rượu ? Ai phạm ngũ giới ? Vậy thì không có lành, không có dữ; không có người chủ động, không có ai bắt đầu làm những việc tốt, những việc xấu; những việc cao thượng, những việc hung bạo, không có sự ban thưởng, không có sự hành phạt nào cả. Bạch Đại đức ! Nếu ai giết Ngài, người đó cũng không phạm tội sát sanh.

Bạch Đại đức, tóc tai có phải Nâgasena không ?

- Tâu Bệ hạ ! không phải !

- Hình hài có phải là Nâgasena không ?

- Tâu Bệ hạ ! không phải !

- Những sự cảm giác có là Nâgasena không ?

- Tâu Bệ hạ ! không phải !

- Những hành vi, ý thức có phải là Nâgasena không ?

- Tâu Bệ hạ ! không phải !

- Hay là Ngũ Uẩn hiệp lại, đó là Nâgasena ?

- Tâu Bệ hạ ! không phải !

- Vậy thì ngoài Ngũ Uẩn có một Nâgasena không ?

- Tâu Bệ hạ ! không có !

- Ủa ! Tôi hỏi Ngài đủ cách mà tôi không thấy ai là Nâgasena. Nâgasena là một tiếng trống không ? Vậy Nâgasena là cái gì ? Bạch Đại đức, Ngài nói sai, Ngài nói dối, không có Nâgasena.

Nâgasena mới nói với vua :

- Tâu Bệ hạ ! Bệ hạ quen sống theo bực Đế vương. Bây giờ tới đúng ngọ, Ngài đi ra đường chơn không, Ngài đạp lên những đá nhọn, cát nóng, chơn Ngài đau, thân thể Ngài mệt nhọc, tâm thần Ngài bấn loạn.

Do đó sanh ra ý nghĩ về sự khổ não của hình hài.

Tâu Bệ hạ ! Bệ hạ tới đây đi xe hay đi bộ ?

- Tôi không đi bộ, tôi đi bằng xe.

- Tâu Bệ hạ ! Nếu Ngài đi bằng xe, xin Ngài giải nghĩa cho tôi biết cái xe là gì ? Có phải là cái gọng không ?

- Không.

- Có phải là bánh không ? Có phải là cái ách không ?

- Không phải.

- Mấy vật đó ráp lại có phải là cái xe không ?

- Không phải.

- Ngoài mấy vật đó, có vật gì gọi là cái xe không ?

- Cũng không có.

- Tâu Bệ hạ ! Tôi hỏi Bệ hạ đủ cách mà tôi không thấy chỗ nào là cái xe cả ? Xe là cái tiếng trống không. Vậy xe là cái gì ? Bệ hạ nói sái, Bệ hạ nói dối. Không có cái xe. Bệ hạ là vua, cai trị toàn xứ Ấn Độ ! Ngài sợ ai ? Ngài lại không nói đúng với chánh lý. Vậy thì 500 Thượng tọa và 80.000 tăng lữ hãy nghe vua Milinda nói : Ngài tới đây bằng xe. Mà tôi xin Ngài giải nghĩa cái xe thì Ngài nói không xuôi. Có ai công nhận điều đó không ?

500 Thượng tọa và 80.000 tăng lữ hoan hô Đại đức Nâgasena.

Đại đức Nâgasena bèn nói : “Tâu Bệ hạ ! Nếu bây giờ Ngài nói được thì hãy nói đi”.

Vua mới nói : “Bạch Đại đức ! Tôi không nói sai với chơn lý.

Đối với gọng xe, ví xe, thùng xe, trục xe, người ta dùng một tiếng, một danh từ là xe.

- Tâu Bệ hạ ! Thật vậy. Bệ hạ đã biết cái xe rồi đó. Đối với tóc tai tôi, da thịt tôi, xương cốt tôi, Ngũ Uẩn tôi, người ta dùng một tiếng, một danh hiệu là Nâgasena. Nhưng con người là Nâgasena đây không có thật. Ni cô Vajira [6] đã giải trước mặt Phật như thế đó.

Chỗ nào có những phần của xe ráp lại, người ta gọi là xe, cũng thế đó, chỗ nào Ngũ Uẩn hiệp lại thì chỗ đó là con người, ấy là quan niệm chung như thế [7] .

- Bạch Đại đức ! Thật là tuyệt diệu, thiệt là phi thường. Có nhiều nghi vấn quanh quẩn trong đầu óc tôi, Đại đức đã giải quyết, nếu Đức Phật còn sanh tiền chắc Ngài cũng tán thành. Hay thật ! Đại đức Nâgasena ! Nhiều nghi vấn quanh quẩn trong đầu óc tôi, Ngài đã giải quyết.

***

Chúng tôi biết bài nầy đặt ra cố ý để làm sáng tỏ thuyết Ngũ Uẩn, nghĩa là có Ngũ Uẩn chớ không có Linh hồn hay là Bản ngã đi đầu thai.

Nhưng cách bố cục không khéo léo, người có ý chỉ dòm vô thấy rõ ràng. Đây là nhược điểm :

Khi vua Milinda nghe Đại đức Nâgasena nói : “Không có con người Nâgasena” thì Ngài hỏi : Ai trau đức mình ? Ai bước vào đường Đạo ? Ai chứng quả Thánh ? Ai nhập Niết Bàn ? Ai phạm ngũ giới ? Nếu có ai giết Nâgasena thì người đó không phạm tội sát sanh.

Thì không thấy Đại đức trả lời làm sao cả, mấy câu hỏi nầy rất chánh đáng vậy. Tại sao Đại đức không đáp lại đặng hậu thế suy nghiệm coi những lời giải bày của Ngài có lý không ? Tại sao Đức Vua không đợi Đại đức trả lời coi thế nào mà lại vụt bắt qua câu hỏi khác ?

Chúng tôi đã thấy rõ dụng ý của tác giả. Phải chăng tác giả bị mấy câu hỏi trên đây làm nghẹt lối, trả lời không nổi nên phải tìm lối thoát bằng cách thêm cho vua Milinda câu hỏi ; “Tóc tai có phải là Nâgasena ?” Nhờ vậy Đại đức mới bắt từ đó đề cập tới cái xe và Ngũ Uẩn được.

Tác giả có ngờ đâu cách ngụy biện nầy làm hại tinh thần Phật giáo chẳng nhỏ.

Sự thật là chúng tôi không rõ câu chuyện xảy ra giữa vua Milinda và Đại đức Nâgasena thuở xưa ra sao, nhưng lấy theo tài liệu nầy thì chúng tôi kết luận như vầy:

Một là : Không có Nâgasena thì lẽ dĩ nhiên không có Milinda. Vậy ta hãy thử làm bài toán nầy, không có tức là “dê rô” (zéro) – Nâgasena nói chuyện với Milinda hay là dê rô nói chuyện với dê rô thì câu chuyện nầy cũng là dê rô. Đại đức không giải quyết cái chi cả. Ai giết Ngài cũng không phạm tội sát sanh vì không có con người Nâgasena.

Hai là : Không có Đức Thích Ca cũng như không có Nâgasena. Vậy thì có ai đâu mà thành Phật ? Phật là một tiếng trống không và Đạo Phật cũng là Đạo trống rỗng.

Ba là : Chúng tôi e cho những người trụy lạc đọc bài nầy họ sẽ mừng lắm. Họ sẽ bảo nhau : chúng không có thật. Thác rồi chúng rã tan mất. Tội tình gì phải nhọc xác tu hành, hãy chơi cho sung sướng cái đời. Chết rồi hết chuyện. Kiếp sau mình có lãnh quả gì đâu mà sợ. Rõ ràng bài nầy gián tiếp xúi giục họ làm thêm những việc tội lỗi chớ không chứng minh được cái chi cả.

Tác giả của bài nầy có nghĩ đến cái quả khốc hại của nó chăng hay là lầm tưởng rằng mình đã bài bác được thuyết có Linh hồn đi đầu thai. Chúng tôi có đọc vài bài nói về chuyện vua Milinda và Đại đức Nâgasena, nhưng chúng tôi ngạc nhiên thấy mất trọn một giai đoạn từ “Bạch Đại đức ! Nếu không có Nâgasena thì ai dâng cho Ngài đồ dùng tới . . . Nếu ai giết Ngài thì người đó không phạm tội sát sanh.

Đoạn nầy là đoạn cần ích lắm vì nó bắt được cái thuyết Ngũ Uẩn; vô tình hay cố ý người ta bỏ mất nó đi. Nhưng,

Dầu sao chơn lý vẫn là chơn lý.

Dầu sao cũng chớ nên làm cho đạo Phật biến thành anh em của phái Duy Vật.