Trong phần này chúng tôi cũng xin giới thiệu một bài viết quan trọng của HOÀNG GIÁP về việc xây dựng các Thành cổ tại Trung Quốc - Bài này được đăng trong TẠP CHÍ HÁN - NÔM số 1 năm 2003 - Ngõ hầu có một cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề chúng ta đang bàn .

THIÊN VĂN HỌC CỔ ĐẠI TRUNG QUỐC VỚI VIỆC XÂY DỰNG HOÀNG THÀNH, HOÀNG CUNG
HOÀNG GIÁP

Sử thư của Trung Quốc nói: “Vũ tác cung thất” (Vua Hạ Vũ xây dựng cung thất). Như vậy Trung Quốc đã xây cung điện từ thời Hạ. Nhưng việc xây dựng hoàng thành, hoàng cung thì bắt đầu từ Tần Thuỷ Hoàng xây thành và cung Hàm Dương. Tiếp theo nhà Hán xây cung Trường An, Nguỵ Tấn xây cung Lạc Dương, nhà Đường xây cung Trường An, nhà Tống xây cung Khai Phong, nhà Nguyên, Minh, Thanh xây Hoàng thành, Hoàng cung, Cố Cung ở Bắc Kinh.
Hoàng cung bao giờ cũng gắn liền với thành và nằm ở giữa 3 vòng thành là Thành Ngoại, Thành Nội và Cung Thành. (Tam Viên) Cung Thành còn gọi là Thành Trung hay Tử Cấm Thành. Trong hoàng cung lại xây dựng rất nhiều cung điện như Càn Nguyên điện sau là Thái Hòa điện, Trung Hòa điện, Bảo Hòa điện, Đông Cung, Thái Miếu, Giảng Võ điện... Tìm hiểu về hoàng thành, hoàng cung là vấn đề không dễ dàng. Do vậy bài này chỉ xin đề cập đến việc vận dụng một phần kiến thức thiên văn học và thần học để xây dựng hoàng thành, hoàng cung ở Trung Quốc và ở Việt Nam.
1. Đôi nét về thiên văn học cổ đại Trung Quốc

Người Trung Quốc từ rất sớm đã có máy “Toàn cơ ngọc hành” để quan trắc thất chính (mặt trời, mặt trăng, sao kim, sao mộc, sao thủy, sao hỏa, sao thổ) và nhị thập bát tú hay còn gọi là Tứ tượng (bốn cụm sao Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ) đồng thời còn xem xét hai khí âm dương, chu kỳ phát triển của vạn vật trong một năm.
Thời Chu người Trung Quốc đã chế tạo được kính viễn vọng quan sát tinh tượng, phát hiện ra sao Thái Tuế (Mộc tinh) di động trên không trung theo chiều từ Đông sang Tây chu kỳ một vòng quanh mặt trời là 12 năm. Mười hai năm được biểu thị bằng 12 địa chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, nhờ thế mà đặt ra lịch pháp. Đồng thời thiên văn học cũng chia khoảng không gian giữa “Tứ tượng” thành ba bộ phận gọi là “Tam viên” (ba vòng tường không gian) gọi là Tử Vi Viên, Thái Cực Viên, Thiên Thị Viên. Sở dĩ gọi là “viên” vì nó được bao bọc bởi các tinh tượng giống như tường vây vậy. Thái Vi Viên là Thượng Viên, Tử Vi Viên là Trung Viên, Thiên Thị Viên là Hạ Viên. Tử Vi Viên là trung tâm của trời là nơi Thiên Đế ngự trị. Thiên Đế cư trú trong Tử Cung hay Tử Vi Cung thuộc Tử Vi Viên.
Sử ký, Thiên Quan thư của Tư Mã Thiên viết: “Bấy giờ thiên văn đem chia tinh tượng thành 5 khu gọi là ngũ cung: Đông Cung, Tây Cung, Nam Cung, Bắc Cung và Trung Cung. Trung Cung (nằm ở Trung Viên) thuộc vùng sao Bắc Đẩu. Thiên Đế ngự ở Tử Cung hay ở Tử Vi Cung. Trong cung có ngôi sao sáng nhất gọi là sao Bắc Cực tượng trưng cho Thái Nhất (Thiên Đế)”.
Bằng tư tưởng thiên nhân hợp nhất Tần Thủy Hoàng cho rằng Thiên Đế ở Tử Vi Cung thì Hoàng Đế nhân gian cũng ở Tử Vi Cung. Khi xây dựng thành Hàm Dương và cung Hàm Dương, Tần Thủy Hoàng đã phỏng theo Tử Vi Cung của sao Bắc Đẩu mà xây dựng. Các cung điện ở bốn mặt cũng phỏng theo vị trí các tinh tượng mà xây dựng.
2. Quy tắc cơ bản của việc xây dựng hoàng thành, hoàng cung ở Trung Quốc
Bắt đầu từ Tần Thủy Hoàng xây cung Hàm Dương đã tận dụng kiến thức thiên văn như Tam viên, Tứ tượng, Âm dương, Ngũ hành để xây dựng hoàng thành, hoàng cung. Tiếp theo các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đã tuân theo nguyên tắc đó và hoàn thiện hơn trong việc xây dựng hoàng thành, hoàng cung. Hoàng cung bao giờ cũng xây ở Cung Thành (Hoàng Thành, Tử Cấm Thành), bảo vệ bên ngoài có Thành Nội và Thành Ngoại gọi là Tam viên.
Bất kỳ hoàng cung nào cũng xây theo nguyên tắc Nam tiền triều, Bắc hậu tẩm. Tiền triều là dương nên to lớn uy nghi lẫm liệt. Tiền triều là dương động nên mọi việc thiết triều, bẩm báo, tấu lệnh, xuất quân chinh phạt... đều diễn ra ở tiền triều. Trung tâm của Tiền triều là Tử Vi Cung hay Thái Cực điện, thời Tống gọi là Sùng Nguyên điện, Càn Nguyên điện, Triều Thiên điện; thời Minh, Thanh gọi là Thái Hòa điện. Đấy là nơi vua ngự để thiết triều. Hậu tẩm ở phía sau Thái Cực điện. Hậu tẩm là âm nên nhỏ và ấm cúng. Hậu tẩm là âm nên tĩnh, là nơi ăn uống nghỉ ngơi.
Theo thuyết Ngũ hành thì Đông phương tòng Mộc tượng mùa xuân chủ sinh bởi vậy ở phía Đông của hoàng cung bao giờ cũng xây các công trình thuộc lĩnh vực văn trị, văn hóa như Lại khoa, Lễ khoa, Hộ khoa... Cũng vì vậy cung Thái tử được xây ở phía Đông tượng trưng cho sự non trẻ, sinh sôi phát triển. Ở phía Đông còn xây Tổ Miếu, “Tả Tổ Miếu hữu Xã Đàn”. Con người đều nhờ vào tổ tông mà phồn diễn sinh hóa nên Tổ Miếu phải xây ở phía Đông.
Tây phương tòng kim tượng mùa thu, không phát triển chủ sát. Bởi vậy ở phía Tây của hoàng cung bao giờ cũng xây dựng các công trình thuộc lĩnh vực binh hình võ bị như Trung Thư khoa, Hình khoa, Binh khoa... Việc duyệt binh, diễn võ, xử án, tù tội đều ở phía tây.
Sinh đông tử tây, văn đông võ tây, khi thiết triều cũng tuân theo quy luật này. Mỗi khi thiết triều thì cứ an bài văn đông võ tây, quan văn chầu bên tả phía Đông, quan võ chầu bên hữu phía Tây. Quan văn đi theo cửa Đông Văn Lâu (cửa Sùng Văn) bên cạnh Ngọ Môn mà vào. Quan võ đi theo cửa Tây Vũ Lâu (cửa Tuyên Vũ) bên cạnh Ngọ Môn mà vào. Khi xuất chinh quân đội cũng đi theo cửa Vũ Lâu ấy.
Theo thuyết Ngũ Hành thì Đông thuộc Mộc mầu xanh, Tây thuộc Kim mầu trắng, Nam thuộc Hỏa mầu đỏ, Bắc thuộc Thuỷ mầu đen, Trung ương thuộc Thổ mầu vàng. Mầu sắc của hoàng cung cũng không ngoại lệ. Cung điện ở Trung ương như Tử Vi Cung, Thái Cực điện, Càn Nguyên điện sau gọi là Thái Hòa điện, Trung Hòa điện, Bảo Hòa điện... xây tường mầu hồng ngói mầu vàng. Cung thất ở phía Đông lợp ngói mầu lục mầu xanh nên còn gọi là Thanh Cung. Cung thất ở phía Bắc như Văn Uyên Các, thư phòng, nhà ăn... lợp bằng ngói mầu xám, đen. Mầu đen xám tượng Thủy, Thủy khắc Hỏa nên tránh được hỏa tai.
Ban đầu hoàng thành chỉ xây 4 cửa, sau này mới mở thêm các cửa phụ. Bốn cửa ấy tượng trưng cho Tứ tượng do bốn vị phương thần cai quản. Phía đông là Thanh Long, phía Tây là Bạch Hổ, phía Nam là Chu Tước, phía Bắc là Huyền Vũ. Thời Hán người ta đã dùng những viên ngói họa hình tứ phương thần để lợp các cung điện ở bốn phương, mong các thần bảo hộ cho hoàng cung. Thời Đường còn gọi cửa Nam của Hoàng Thành là cửa Chu Tước, cửa Bắc của Hoàng thành là cửa Huyền Vũ.
Thời Minh, Thanh khi xây dựng và cải tạo Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh người ta gọi Nam Môn là Ngọ Môn lại gọi là Ngũ Phong Lâu. Phong chính là tên gọi khác của thần Chu Tước. Cửa Bắc vẫn gọi là Huyền Vũ Môn, sau do kiêng huý vua Khang Hy nên gọi là Thần Vũ Môn. Ngoài ra tại Ngự hoa viên còn cho xây đền thờ tứ phương thần Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ.
3. Việc xây dựng hoàng thành hoàng cung ở Việt Nam
Về lịch sử hoàng thành hoàng cung ở Việt Nam tương truyền vua Hùng xây cung điện ở Bạch Hạc (Phú Thọ). An Dương Vương xây thành Cổ Loa ở Đông Anh, Đinh Bộ Lĩnh xây thành Hoa Lư, Lý Thái Tổ xây thành Thăng Long, Gia Long xây thành Phú Xuân nay là Cố đô Huế. Nói là xây dựng hoàng thành nhưng bao giờ cũng gắn với xây dựng hoàng cung. Những công trình hàng ngàn năm về trước nay đã bị hủy hoại rất nhiều. Loa thành và thành Hoa Lư chỉ còn dấu vết. Hoàng cung chỉ là đền thờ. Cố đô Huế còn nguyên vẹn, quy mô kiến trúc gần giống Cố Cung ở Bắc Kinh. Hoàng thành và hoàng cung các triều Lý - Trần - Lê ở Thăng Long là điều đáng quan tâm nhất. Khi dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, Lý Thái Tổ đã triệt để lợi dụng địa thế Đại La cao, có đê ngăn nước có núi có sông, “nội khí tràn đầy, ngoại thế mở rộng” để xây thành Thăng Long. Hoàng cung nhà Lý xây trong Tử Cấm Thành, tiền án có núi Long Đọi, hậu chẩm có núi Tam Đảo, Thanh Long có núi Yên Tử, Bạch Hổ có núi Tản Viên. Trong Thành có núi Nùng và Tam Sơn.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Lý Thái Tổ xây dựng cung điện ở trong Cung thành Thăng Long, phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu làm điện Giảng Vũ, lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, chính hướng nam là điện Cao Minh, đều gọi là thềm rồng; bên trong thềm rồng có mái cong, hàng hiên bao quanh bốn mặt. Sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long An và Long Thụy làm nơi nghỉ ngơi; bên tả làm điện Nhật Quang, bên hữu làm điện Nguyệt Minh, đằng sau dựng hai cung Thúy Hoa và Long Thụy làm chỗ ở cho cung nữ. Dựng kho tàng, đắp thành đào hào, bốn mặt thành mở bốn cửa: phía Đông gọi là cửa Tường Phù, phía Tây gọi là cửa Quảng Phúc, phía Nam gọi là cửa Đại Hưng, phía Bắc gọi là cửa Điệu Đức. Lại ở trong thành làm chùa ngự Hưng Thiên và lầu Ngũ Phượng Tinh, ở ngoài thành làm chùa Thắng Nghiêm ở phía Nam”.
Sách Thăng Long cổ tích khảo chép: “Núi Nùng ở chính giữa kinh thành có tên gọi nữa là Long Đỗ. Núi hình tròn đỉnh núi bằng phẳng cây cối um tùm gần với Tây Hồ. Phía sau có Tam Sơn làm gối, sơn thủy hữu tình là thắng cảnh của đô thành. Lý Thái Tổ định đô đã xây chính điện trên núi này. Thường có đôi hạc bay đến nhảy múa ở nơi vua ngự. Cơ đồ nhà Lý xuy vi không thấy đôi hạc đâu nữa”.
Như vậy Càn Nguyên điện của triều Lý mà triều Lê gọi là Kính Thiên điện, Vạn Thọ điện được xây trên núi Nùng. Từ núi Nùng về phía Nam là tiền triều, từ núi Nùng về phía Bắc là hậu tẩm. Trước Kính Thiên điện là Đoan Môn hay Ngọ Môn. Phía trái cạnh Đoan Môn là cửa Văn Lâu, phía phải cạnh Đoan Môn là cửa Vũ Lâu. Quan văn theo cửa Văn Lâu mà vào, quan võ theo cửa Vũ Lâu mà vào. Khi đi chinh phạt thì quân đội cũng đi theo cửa Vũ Lâu ấy. Phía Đông của Kính Thiên điện là Đông Cung và Thái Miếu. Phía Tây Kính Thiên điện là Chí Kính điện, Giảng Võ điện. Tất cả đều tuân theo quy tắc văn đông võ tây, sinh đông tử tây, tả (Đông) Tổ Miếu (Thái Miếu) hữu (Tây) Xã Đàn.
Thời Lý chưa thấy tài liệu nào nói bốn phía của kinh thành Thăng Long lập đền thờ tứ phương thần là Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước và Huyền Vũ. Nhưng nay vẫn thấy đền thờ Chu Tước ở trại Văn Hương (nay là ngõ Văn Hương) làng Văn Chương (quận Đống Đa - Hà Nội). Còn Trấn Vũ Quán thờ Huyền Vũ thì đã được khẳng định xây từ thời Lý. Quán xưa ở phía Đông bắc kinh thành Thăng Long nay nằm trên đường Thanh Niên quận Ba Đình, Hà Nội.
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chép: “Trước tiết lập xuân 1 ngày, Bộ Công cho rước một con trâu bằng đất nung mang đến đàn ở phường Đông Hà (khu vực đền Bạch Mã Cửa Đông - Hà Nội). Đúng tiết lập xuân Phủ doãn phủ Phụng Thiên và quan huyện Thọ Xương, Quảng Đức lấy cành dâu đánh vào con trâu đất rước vào điện vua làm lễ. Lễ cầu thời tiết thuận hòa mùa màng bội thu, người và vật đều khỏe mạnh”.
Lễ này thể hiện việc cầu sinh sôi phát triển tại phía Đông vào mùa xuân. Còn mùa thu, mùa không phát triển chủ sát người ta đã đưa tử tù ra trại Kim Mã phía Tây kinh thành Thăng Long để hành quyết. Nơi đây vẫn còn nghĩa địa chôn cất tử tù. Tương truyền chùa Kim Sơn lập nên để tế độ cho các vong hồn tử tù.
Giảng Võ điện được xây ở gần núi Khám Sơn phía Tây kinh thành Thăng Long. Có thuyết cho Giảng Võ điện được xây trên núi Khán Sơn. Dù xây ở đâu thì Giảng Võ điện cũng là nơi vua ngự để xem đấu võ tập bắn.
Long Biên bách nhị vịnh chép: “Núi Khán Sơn ở phía Tây điện Nùng Sơn trong nội thành. Sử ký chép khoảng năm Thuận Thiên (1428 - 1433) vua Lê Thái Tổ xây điện Giảng Võ trên núi Khán Sơn. Vua thường ra để xem tập bắn”.
Nhận xét
Vấn đề xây dựng hoàng thành, hoàng cung là công việc lớn lao bậc nhất của một nhà nước phong kiến. Để xây dựng hoàng thành, hoàng cung các triều đại đã phải bỏ ra không biết bao tiền của và công sức. Đặc biệt phải biết vận dụng rất nhiều kiến thức khoa học như địa chất, địa lý, thủy văn, phong thủy, toán học, thần học, kiến trúc, hội họa... Trong bài viết này chỉ mong đề cập đến một vài khía cạnh của thiên văn học kết hợp với thần học trong việc xây dựng hoàng thành, hoàng cung, bởi đây là những vấn đề rất cần quan tâm tìm hiểu.
H. G

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách Hán Nôm
1. Ngô Sỹ Liên: Đại Việt sử ký toàn thư. Ký hiệu A.3/1-4.
2. Thăng Long cổ tích khảo. Ký hiệu VHv.2471.
3. Long Biên bách nhị vịnh. Ký hiệu A.1310.
Sách Trung Quốc
1. Lưu Quốc Quân Thần mật đích tinh tượng, Quảng Tây nhân dân xuất bản xã, Nam Ninh, 1992.
2. Lưu Quốc Quân Hoàng cung quy chế, Hoa Trung lý công đại học xuất bản xã, Hồ Bắc, 1994.

Nguồn : TẠP CHÍ HÁN NÔM số 1- 2003 .