PHẦN THỨ NHÌ


CHƯƠNG THỨ NHỨT

GIÁO LÝ ĐẠO PHẬT DẠY VỀ LUÂN HỒI , NHÂN QUẢ
LẠI CÀNG VÔ CÙNG HUYỀN BÍ.


TRƯỚC NHỨT LÀ LINH HỒN.

Nếu chúng tôi hỏi : “Đạo Phật dạy thuyết Luân Hồi và Nhân Quả phải chăng ? Thì sẽ có bạn nói : “Sao ngớ ngẩn thế ? Ai ai lại không biết rằng đạo Phật giải về Luân Hồi và Nhân Quả rành rẽ hơn các đạo kia”. Vâng. Đúng vậy. Nếu dạy thuyết Luân Hồi Nhân Quả thì phải công nhận có một cái tồn tại không bao giờ chết, gọi nó là NGÃ hay là LINH HỒN hay cái chi cũng được phải chăng ?

Chắc chắn người học đạo ai ai cũng muốn biết cái NGÃ hay là LINH HỒN ra sao ? Nó giống hình người không ? Ai sanh ra nó ? Lúc con người sống, nó ở tại đâu trong mình người da trắng ? Người da vàng ? Người da đen ? Chỗ nó ở có tùy theo giống dân mà khác nhau không ? Và tất cả những LINH HỒN đều giống nhau phải chăng ? Vậy thì chuyện có Linh Hồn rất là Thần bí.

SAU KHI THÁC RỒI CON NGƯỜI RA SAO ?

Sau khi bỏ xác con người ra sao ? Có bị bắt xuống âm phủ để xử tội không ? Nếu có thì âm phủ ở đâu ? Khi tin điều nầy người ta công nhận sự hiện hữu của Diêm Vương Thập Điện, quỉ sứ, dạ xoa, nhưng đồng thời khó giải quyết tại sao có hồn ma hiện về được. Lại còn một nỗi nữa, có một âm phủ chung cho tất cả các giống dân tộc trên địa cầu hay là nước nào có âm phủ nấy. Vua Diêm Vương sẽ dựa theo luật nào để xử tội ?

Bằng không có âm phủ thì Linh Hồn đi đâu ? (xin gọi con người cho dễ hiểu). Về cõi nào ? Sao ta không thấy nó ? Cách sanh hoạt của nó ra sao ? Có học hỏi chi chăng ? Hay là mê man như ngủ, rồi tới chừng nào mới đi đầu thai

SỰ ĐI ĐẦU THAI
Tại sao linh hồn đầu thai làm con của người nầy chớ không làm con của người kia ? Vào gia quyến nầy chớ không vào gia quyến khác ? Ở xứ nầy chớ không phải ở xứ kia ? Tại Trung Hoa chớ không phải ở Nam Dương ? Làm dân nước Anh ở Bắc Đại Tây Dương chớ không phải là người xứ Ba Tây (Brésil) thuộc Nam Mỹ Châu ? Làm đàn ông chớ không phải làm đàn bà ? Làm đàn bà chớ không phải làm đàn ông ? Linh hồn muốn đi đầu thai chỗ nào thì tự ý phải chăng ? Hay là bị bắt buộc ? Nếu bị bắt buộc thì ai bắt buộc ?

Còn như được tự do thì tại sao không đi đầu thai làm con nhà giàu sang, thông thái ở các nước văn minh mà lại thác sanh vào nhà nghèo nàn, dốt nát ở các nước nhược tiểu. Linh hồn sao dại dột quá vậy ?

THỬ BÀN VỀ 6 NẺO LUÂN HỒI.

Trong Phật giáo, nói đến chuyện Luân Hồi thì người ta liền nghĩ ngay đến việc con người đi đầu thai làm :

a/ hoặc Thiên Thần,

b/ hoặc thú vật,

c/ hoặc ngạ quỉ,

d/ hoặc A tu la.

hay là con người hoặc bị phạt ở Địa ngục. Rồi cứ tương truyền như vậy từ thời đại nầy qua thời đại khác. Con người có sẵn thành kiến như thế rồi thì khi nghe chánh lý cũng không bao giờ cho là đúng với sự thật.

Riêng tôi, tôi xin thú thật rằng : không khi nào tôi tin ở dưới đất có cái ngục để hành phạt Linh hồn. Tôi không tin có Diêm Vương, có Thập Điện, có quỉ sứ, có dạ xoa chi cả. Con người là Chơn Thần, xuống trần học hỏi và kinh nghiệm càng ngày càng nhiều, sau mới trở nên trọn sáng trọn lành. Phật đã dạy : chúng sanh đều có Phật tánh, chúng sanh sẽ thành Phật. Như vậy có nghĩa là con người càng ngày càng tiến lên cao chớ không phải sụt xuống thấp. Đọc Túc Sanh Truyện ta thấy Linh hồn đầu thai trước ở trong loài thú dưới nước, kế đó làm loài thú ở trên bờ rồi mới thành người và cuối cùng mới tu và đắc quả Phật, chớ không hề gặp chỗ nào nói rằng con người trở xuống làm thú vật cả. Hơn nữa, Phật không để một chữ nào thì làm sao dám quả quyết Phật dạy : có 6 nẻo Luân Hồi ?

Bây giờ ta hãy thử luận coi : Tội là gì ? Phước là gì ? rồi nhiên hậu mới biết nói rằng con người đầu thai làm súc vật hữu lý hay là phi lý ?

Chung quanh ta là những luật trời hành động để giúp cho muôn loài vạn vật, chẳng những ở tại quả địa cầu nầy mà còn ở nhiều cõi khác nữa, tiến hóa cho đúng với Cơ Huyền Diệu của Đức Thượng Đế đã sắp sẵn. Đâu đâu cũng có một sự quân bình, không khác nào mặt nước phẳng lặng như tờ.

Bây giờ ta hãy lấy một cục đá ném xuống nước; ta thấy một tia nước vọt lên cao hay thấp, mặt nước nổi sóng lớn hay nhỏ và làm một vòng tròn lan ra xa hay gần tùy theo sức ném mạnh hay yếu của ta và sức nặng hay nhẹ của cục đá.

Ta sanh ra một tư tưởng, tư tưởng nầy xẹt ra trên không phá sự quân bình không khác nào ta ném một cục đá xuống nước. Nhưng trái với cục đá, cái vòng tư tưởng đi ra xa rồi tới một ngày kia nó không đi tới được nữa thì nó trở lại cho người đã sanh nó ra.

Nếu tư tưởng nầy lành, nó gây ảnh hưởng tốt đẹp cho những người hay vật ở chung quanh thì cái hiệu quả trở lại cho ta là hạnh phúc. Người đời gọi là làm lành nên hưởng phước lành. Nhược bằng tư tưởng nầy ác, nó ảnh hưởng xấu cho những người và vật ở chung quanh ta thì cái hiệu quả trở lại cho ta là sự đau khổ. Người đời gọi là làm tội nên mắc họa.

Nói một cách khác, khi ta làm mất quân bình của Thiên Nhiên thì Thiên Nhiên phản động đặng lập quân bình như trước. Sự phản động có ích hay có hại cho ta tùy theo mục đích việc làm của chúng ta thuận hay nghich với Cơ Trời.

Cái lành hay là cái ác của chúng ta đều trở về với ta đúng với câu : “Hãy trả cho César cái gì thuộc về của César” – Nghĩa là Nhân nào Quả nấy.

Thật sự con người giống như những đứa trẻ ở trong hang tối hễ thấy ánh sáng thì đâm đầu chạy ra, bất chấp chi cả, cho nên đụng cái nầy, chạm cái kia, té lên té xuống.

Những sự lầm lạc là những bài học để dạy con người sau phải hành động khôn ngoan hơn trước. Có như thế thì con người mới tiến lên. Con người còn vô minh, con người không biết luật trời, hoặc có nghe nói mà không sợ nên mới lầm lỗi. Cái tội con người làm không có chi gọi là nặng nề cả đối với các Đấng Thiên Tôn cầm cân tội phước. Con người không có phạm tội gì lớn cho đến đỗi phải trở xuống đầu thai làm thú vật.

Theo luật trời, con thú không có hồn riêng biệt như con người, nó không có cá tánh. Nó thuộc về Hồn Khóm, nghĩa là cả trăm, cả ngàn con thú đồng một loại thì có chung một Hồn lớn gọi là Đại Hồn, Hồn của một con thú là Tiểu Hồn. Chừng con thú chết, hồn của nó đem những sự kinh nghiệm của nó giao cho Đại Hồn rồi tan mất. Sau Đại Hồn cho một Tiểu Hồn nhập vô mình con thú đặng đầu thai. Trái lại, con người là một Hồn riêng biệt đi đầu thai từ kiếp nầy qua kiếp kia.

Con thú muốn đi đầu thai làm người phải có Thượng Trí. Một khi đã có Thượng Trí rồi nó tách ra khỏi Hồn Khóm của nó, không bao giờ nó trở về đó nữa (xin xem quyển Đời sống Huyền bí của Thái dương hệ của tôi).

Con người không thể nào bỏ Thượng Trí trở nhập vô Hồn Khóm như trước đặng làm một con thú được.

Vì mấy lẽ trên đây không khi nào những người biết Đạo tin rằng con người có thể đi đầu thai làm A tu la, ngạ quỉ, súc sanh v. v. . . Mà A tu la là gì ? Ngạ quỉ là gì ? không ai biết hay thấy nó ra sao cả. Con người cũng chưa làm Thiên thần đâu, con người thì đầu thai làm con người mà thôi. Trừ ra khi nào tu hành tới bực La Hán sắp lên mới vào hàng Thiên thần được.

NHẬP VÀO MÌNH THÚ VẬT.

Nhưng có vài trường hợp con người sau khi thác rồi hay là lúc trở xuống đầu thai nhập vào mình thú vật.

Tỷ như bốn truyện sau đây :

A/ Bị Quả Báo.

Nếu một người nào đó không biết chế ngự sự thèm thuồng vật dục mà lại buông lung làm cho chúng nó được thỏa thích mãi thì y tạo ra một sự liên lạc chặt chẽ với một con thú nào có đặc điểm đó.

Chúng ta biết rằng trên cõi Trung giới, những tư tưởng và những tình cảm đều hiện rõ ràng. Thế nên cái vía của y hóa hình giống như con thú đó.

Tới khi trở xuống đầu thai, cái vía của y nhập vô cái vía của con thú loại đó. Y mắc kẹt vào thân mình của con thú không khác nào bị cầm tù. Y trở lại cõi Thiên Đường không được mà xuống trần thế cũng không được. Y tỉnh táo như thường, y giữ trọn vẹn những năng lực của con người mà y không dùng được. Những cơ quan của thú không phát ra được lời nói của con người. Y không thể sai khiến con thú theo ý muốn của y bởi vì nó còn hồn của nó. Y không đủ năng lực đuổi hồn nầy ra khỏi xác con thú. Y bực tức lắm. Y không biết làm sao cho người ta biết y mắc vào trường hợp nầy. Con thú đi đâu, y đi theo đó. Nó bị đánh, y cảm thấy y cũng bị đau vậy. Chừng con thú chết rồi y mới thoát ra ngoài được và sẽ đi đầu thai như thường. Trong lúc y ở trong mình con thú, sự tiến hóa của y bị ngưng trong một thời gian. Đây là một hình phạt cực kỳ ghê gớm và hết sức nặng nề của Thiên Nhiên để trừng trị những kẻ quên phứt bản tánh Thiêng Liêng, không kềm chế thú tánh mà ngày đêm cứ say hoa đắm nguyệt không nhớ tới phẩm giá của mình.

B/ Tự ý nhập vào mình thú vật chớ không bị nghiệp quả.

Mới nghe qua thì không ai tin rằng : Con người tự ý nhập vô mình thú vật, nhưng mà chuyện có thật mới là kỳ lạ.

Theo lẽ thường vài giờ sau khi con người thác rồi thì cái phách lìa khỏi cái vía, nó rớt ra ngoài. Con người khởi sự đời sống của mình trên cõi Trung giới, lúc nầy con người ở trong cái vía và dùng nó như dùng xác thịt ở cõi trần [2] . Từ lúc con người tắt hơi cho tới khi cái phách rớt ra, con người sẽ mê man. Khi qua cõi Trung giới rồi con người mới bắt đầu tỉnh lại.

Nhưng có một số người lầm tưởng xác thân là mình nên sợ chết lắm. Lúc tắt hơi rồi mà trong lòng họ còn núi nắm cõi trần hết sức.

Chừng họ tỉnh lại thì họ ra sao ? Họ không lên cõi Trung giới được bởi vì cái vía của họ còn dính với chất dĩ thái của cái phách – nghĩa là cái phách không rớt ra. Họ trở lại cõi trần cũng không được bởi vì họ đã mất xác thân rồi. Vậy thì họ ở cõi nào ?

Họ ở chính giữa cõi Trung giới và cõi Trần tức là ở trong bốn cảnh dĩ thái hồng trần (4 sous plan éthériques). Họ thông đồng với những người ở cõi Trung giới không được mà muốn giao thiệp với những người trần thế cũng không được. Họ ở hiu quạnh một mình, chung quanh thân mình họ là một đám sương mù dày đặc. Họ đâm ra hoảng hốt kinh sợ. Có khi họ thấy những người đồng cảnh ngộ với họ chạy như bay, họ muốn kêu lại mà không kịp, họ không chuyện vãn chi được. Một đôi khi tấm màn dĩ thái vén lên họ trông thấy mấy cảnh thấp của cõi Trung giới và họ không hiểu chi hết, họ tưởng đó là âm phủ. Cũng có lúc họ thấy một vài đồ vật quen thuộc ở cõi Trần, ấy là những hình tư tưởng mạnh mẽ hóa ra, nhưng chúng nó biến đi rất lẹ. Chung cuộc họ vẫn trơ trọi và thất vọng.

Đó tại họ không biết rằng nếu họ cương quyết bỏ chốn đó thì cái phách sẽ rớt ra lần lần, họ hôn mê một ít lâu, chừng tỉnh lại thì họ qua cõi Trung giới.

Có nhiều vị đệ tử và những linh hồn từ thiện ở cõi Trung giới đến chỗ nầy chỉ bảo phương pháp cho họ thoát ra khỏi cảnh đen tối, nhưng ít khi có hiệu quả bởi vì họ không có gan dạ và không tin cậy, họ tưởng rằng họ còn sống như thế mà làm theo lời khuyên bảo thì họ chết mất.

Có khi vài người thất vọng quá nên nghĩ thà chết cho rồi đặng đỡ khổ, họ không còn tưởng tới cái chi cả. Nhờ vậy mà cái phách rớt ra và họ rất ngạc nhiên và rất vui sướng vì được ra khỏi cảnh hắc ám đó.

Nhưng mà một tai hại nguy hiểm hơn hết là có nhiều người kiếm cách tiếp xúc lại với cõi trần. Họ tìm đồng cốt nhập vô. Nhưng họ thất vọng vì mỗi đồng cốt đều có một hồn ma tinh khôn theo giữ gìn. Hồn ma nầy đuổi họ đi – không cho họ léo lại gần đồng cốt. Hồn ma biết rằng : họ không khác nào kẻ gần chết đuối hễ vớ được cái chi thì đeo cứng cái đó. Nếu họ nhập vô mình đồng cốt rồi thì họ mừng lắm, họ không chịu xuất ra hoặc họ xuất ra rồi một hồi thì nhập vô nữa, mỗi ngày vài chục bận như vậy thì chẳng bao lâu đồng cốt sẽ hóa ra điên khùng.

Túng thế quá họ mới nhập vô mình thú vật. Họ rán sức đuổi hồn con thú ra ngoài - dầu không được trọn vẹn thì cũng làm chủ được hai phần xác thân của nó. Họ nhờ con thú mà tiếp xúc lại với cõi trần. Con mắt con thú thấy thì họ thấy, lổ tai con thú nghe thì họ nghe, con thú bị đòn bọng thì họ cũng đau đớn vậy.

Khác hơn trường hợp thứ nhứt là khi con thú thác rồi họ không đi đầu thai mà họ lại tìm những thú khác đặng ám ảnh. Họ chọn những con thú khờ khạo như bò, heo, trừu, còn những con thú khôn như khỉ, ngựa, chó, mèo thì ít bị họ chế ngự chúng được.

Tuy nhiên cũng có vài trường hợp ngoại lệ.

Đức Leadbeater đã thấy hồn của một người nhập vô mình của con mèo.

Câu chuyện con khỉ ở Pandharpur tỏ ra thông thạo hết những cuộc hành lễ của Bà la môn giáo mà ở Ấn Độ người ta đều biết làm cho ta đau lòng nghĩ đến sự khờ khạo của những linh hồn ám ảnh thú vật như thế đó. Họ tự ý chuốc cái khổ vào mình, họ tự ý hành phạt họ, chỉ vì họ không hiểu ý nghĩa thật của đời sống con người.

Tuy vậy, tới một ngày kia cái phách tự động rớt ra bởi vì chất dĩ thái rã lần, con người phải tuân theo luật thiên nhiên, bỏ chốn đó mà về Trung giới.

Về câu chuyện con người nhập vô mình thú vật người ta có thuật cho Đức Leadbeater ba trường hợp sau đây :

Trường hợp thứ nhứt:

Một nhà Thông Thiên Học lão thành được nhiều người kính mến nói với Đức Leadbeater như vầy :

Một ngày kia, một ông khách đến viếng tôi và tỏ cho tôi nghe một câu chuyện mà ông cho là lạ lùng lắm.

Ông khách nói : “Trước kia tôi rất giàu có, nhưng chẳng may thời suy vận bỉ, sự nghiệp tan tành theo mây gió.Tôi rất khốn khổ nên phải chịu làm bất cứ là nghề hèn mọn nào miễn là có tiền đặng nuôi thân thì thôi. Người ta mướn tôi làm nghề đồ tể, đập đầu thú vật trong một cái lò sát sanh lớn. Lắm lúc tôi nghe những tiếng rên siết đau thương nói với tôi : Ông ôi ! đừng đập chết chúng tôi. Chúng tôi là người bị dính vào mình thú vật. Chúng tôi chia sớt những sự đau đớn của chúng nó . Thét quá tôi xin thôi không còn gan dạ nào làm cái nghề sát sanh hại mạng nầy nữa”.

Nghe Hội Thông Thiên Học khảo cứu những câu chuyện kỳ lạ cho nên tôi mới đến hỏi ý kiến ông về việc nầy !

Đức Leadbeater nói: Ông khách hoặc có thần nhãn hoặc ông là người nhạy cảm nên thấy được hình tư tưởng biến thành lời nói.

Đó là chuyện ở Âu Tây, còn như ở bên xứ mình tôi dám chắc nhiều vị lão thành đã có nghe vài chuyện của những người thọc huyết heo thuật lại. Họ nói : khi cầm dao đâm vào cổ heo thì tôi nghe rõ ràng là tiếng người kêu la. Tôi cũng nghe một con heo nái nói với bầy con nó : Mai nầy người ta đem giết mẹ rồi mấy con ôi ! Thật là chuyện rùng mình rởn ốc.

Bao nhiêu đây chứng rằng hồn người nhập vô mình thú vật ở chỗ nào cũng có.

C/ Nhập vào mình thú vật vì bị dục tình thiêu đốt.

Trường hợp thứ nhì:

Một người kia hồi còn sanh tiền chỉ biết thú vui xác thịt. Chừng y thác rồi, những sự ham muốn quấy quá của y bồng bột sôi nổi dữ tợn. Y không chế ngự chúng nó được và bởi y mất xác thân rồi, y không biết làm sao cho chúng thỏa thích. Lòng y bứt rứt như bị thiêu đốt. Lâu lâu y phải nhập vào mình thú vật đặng trút đổ một phần gánh nặng đi.

C/ Bị đạo sĩ bắt hồn cho nhập vào mình thú vật.

Trường hợp thứ ba :

Một bà kia hồi còn sanh tiền không rõ vì duyên cớ nào mà nhục mạ một giáo phái. Sau khi bà thác rồi, một vị đạo sĩ của giáo phái đó, người ở phương Đông, dùng phù phép bắt hồn bà cho nhập vào mình thú vật.

Tiếc rằng câu chuyện tới đây chấm dứt nên có nhiều chi tiết chúng ta cần phải biết mà lại không có. Ta tự hỏi : “Tại làm sao lúc bà còn sanh tiền giáo phái đó lại không trả thù bà. Phải chăng bà là một nhà quí phái có thế lực lớn nên họ không làm chi bà được”.

Một lẽ khác – không phải dễ mà làm trái nghịch lòng Trời : bắt một hồn người cho nhập vào mình thú vật. Chung quanh ta có những vị Thiên thần, những vị đệ tử hộ trì khuất mặt, mấy vị nầy đều thấy và biết việc của đạo sĩ làm. Tại làm sao mấy vị ấy không can thiệp, ra tay giải thoát bà ta. Có lẽ bà ta phạm một quả rất nặng cho nên vị đạo sĩ mới thành công. Chừng bà trả hết quả rồi thì tự nhiên có người tới giúp bà ra khỏi cảnh ngục tù đó.

Dầu sao trong những trường hợp nầy không có trường hợp nào chứng nhận con người đầu thai làm thú vật cả.

Đầu thai làm thú vật có nghĩa là :

a/ Mất Thượng Trí.

b/ Mất Hồn người.

c/ Nhập vào Hồn khóm, không còn biết tư tưởng như con người và mất hết quyền năng của con người.

Đầu thai làm thú vật khác hẳn với việc nhập vào mình thú vật một thời gian.

Nói tóm lại, đối với tôi, riêng tôi thôi, thì trong 6 nẻo Luân hồi chỉ có :

Nhơn, đúng với chơn lý; còn Thiên, A tu la, Ngạ quỉ, Súc sanh, Điạ ngục không có thật.

Nhưng đối với quí bạn ai tưởng sao cũng được.