Vua Ba Tư Nặc nói:

- Trước đây ta từng nghe lục sư nói: “Sa môn Cù Đàm, học hỏi cạn cợt, mặt còn trẻ trung, tuổi tác còn nhỏ. Trong những kinh của lục sư nói rằng: “Người hay làm trò huyễn hóa yêu mị, là Cù Đàm vậy, nếu ai tôn sùng, phần nhiều bỏ mất, con đường chơn chánh”.

- Vị quan Định Huệ, dùng kệ thưa vua:

Thích Ca mâu Ni, Thầy trời người

Từng vô lượng kiếp tu khổ hạnh

Nay được thành Phật, chuyển pháp luân

Lại nương chư Phật quá khứ nói

Chẳng trái nguyện của khắp chúng sanh

Sức Từ bi lớn cứu loài mê

Gặp Phật khó như rùa gặp bọng

Cũng như gặp hoa mẫu Ưu đàm

Cúi xin nhà vua qua nghe pháp

Chớ tin lời lục sư ngoại đạo.

Đại thần Định Huệ, nói kệ ấy rồi, do sức thần thông, vọt khỏi mặt đất, bay lên hư không, cao hàng trăm thước, liền ở trước vua, làm các chú thuật, trong khoảng một niệm, khiến núi Tu di và nước biển lớn, vào hết trong tâm, an nhiên vô ngại.

Vua Ba Tư Nặc, thấy việc này rồi, khen rất hiếm có: “Đây mới đúng là, chơn thiện tri thức”, liền lạy Định Huệ, thưa với người rằng:

- Thầy ông là ai?

Ngài Định Huệ đáp:

- Thầy tôi là Phật Thích Ca Mâu Ni, hiện nay ở tại, đại thành Vương Xá, trong núi Linh Thứu, đang nói về Kinh Trường Thọ Diệt Tội.

Vua nghe lời này, lòng rất mừng rỡ, liền đem việc nước, tạm giao Định Huệ, vua cùng quyến thuộc, các quan, trưởng giả, xe báu bốn ngựa, trước sau vây quanh, và người phụ nữ, với con của bà, cầm những tràng hoa, trăm thứ cúng dường, đến thành Vương Xá, vào núi Linh Thứu. Vua bỏ Vương phục, quanh Phật bảy vòng, chắp tay cúi lạy, rãi hoa cúng dường, đem hết câu chuyện, của người phụ nữ, bạch lên Đức Phật.

Đức Thế Tôn bảo vua Ba Tư Nặc:

- Người phụ nữ này, về đời quá khứ, thân làm mẹ ghẻ, tâm sanh ganh tỵ, hòa hợp thuốc độc, giết con vợ trước đến ba mươi đứa, những đứa bị giết đều phát thề rằng: “Nguyện ta đời đời kiếp kiếp sau này, thường làm con bà, bèn chia ly ngay, khiến bà khỏ sở, một cách đau đớn”. Bây giờ người nữ, đến đây được nghe, Như Lai nói Kinh Trường Thọ Mạng lâu dài, bài kệ vào tai, oan gia trái chủ, từ đây dứt hẳn.

Bấy giờ, Đức Phật bảo khắp đại chúng:

- Khi một người nữ nào đó thọ thai, thì ma Ba Tuần, thả bốn rắn độc, thuộc về bốn đại, giặc ác sáu trần, vào thân người ấy. Một đại chẳng điều, mạng căn liền diệt. Như Lai có Đà la ni thần chú, có thể tăng thêm, mạng sống tuổi thọ, cho các trẻ con, nếu ai lo khổ, nghe chú của ta, qua tai một lần, thì không bệnh gì, mà chẳng trừ lành, hay khiến quỷ dữ, bỏ chạy tứ tán.

Đức Thế Tôn liền nói thần chú rằng:

Ba đầu di, ba đầu di đề tỳ hề ni hề ni, hề di da lê, gia la gia lệ, hầu la hầu la, do lệ do la, do lệ ba la, ba lệ văn, chế sân diệt, tần diệt bát thệ mạt diệt trì na ca lê, Ta bà ha.

Đức Phật nói tiếp:

- Văn cú của chú Đà la ni này, nếu kẻ thiện nam, người thiện nữ nào, thọ trì đọc tụng, vì tất cả những trẻ thơ bệnh hoạn, lúc còn trong thai, sau khi ra thai, mà đem diễn nói, bảy ngày bảy đêm, đốt hương, rải hoa, biên chép cúng dường, hết lòng nghe nhận, thì những bệnh nặng, nghiệp chướng thân trước, đều được tiêu diệt.

Bấy giờ, có ngài Bồ tát y vương – vua trong ngành thuốc, tên là Kỳ Bà, đối trước Đức Phật, bạch với Ngài rằng:

- Kính bạch Thế Tôn! Con là một bậc, Thầy thuốc đại tài, chữa trị các bệnh, những đứa trẻ thơ, có chín loại bệnh, làm chúng đoản mạng. Thế nào là chín?

. Một là những kẻ, làm cha làm mẹ, chung chạ trái lúc.

. Hai là trong lúc, mới sanh đẻ con, để máu dơ đất, thần đất bỏ đi, ác quỷ tiện dịp.

. Ba là mới sanh, chẳng bỏ trùng độc, bé nhỏ trong rún.

. Bốn là chẳng lấy bông mịn chùi sạch máu dơ trong thai.

. Năm là giết hại sanh mạng, để làm yến tiệc ăn mừng.

. Sáu là mẹ của đứa bé, ăn nhiều trái cây tạp chất lạnh.

. Bảy là hài nhi có bệnh, cho ăn cá thịt tạp nhạp.

. Tám là mới sanh, mẹ con chưa an, để cho những người chẳng lành, nhìn thấy chỗ nơi sanh đẻ. Chưa phân an nguy, có thể làm cho, người mẹ bị chết.

. Phân an nguy rồi, có thể làm cho, đứa con bị chết.

Thế nào gọi là, những người chẳng lành? Nếu như có người, mắt vừa nhìn thấy, thấy chết nào đó, hoặc là thấy những tai biến quái dị, mắt họ bất tịnh, cho nên gọi là, hạng người chẳng lành. Gặp trường hợp này, nếu dùng vị thuốc Ngưu hoàng, Châu sa, nghiền thành ra bột, trộn với mật ong, đặt ngay tại tim đứa bé, có thể khỏi điềm chẳng lành.

. Chín là ban đêm ẵm trẻ tới lui, bị quỷ dữ đánh.

Những trẻ sơ sinh, nếu luôn cẩn thận, chín việc như trên, thì chúng trọn chẳng đến đổi chết mất.

Giữa lúc bấy giờ, thiên ma Ba Tuần, có Tha tâm thông, ở trong cung ma, biết Phật nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội và Đà la ni, cứu độ trẻ thơ, thì lòng tức giận, phát tiếng dữ dội, lo buồn chẳng vui. Ma vương có ba con gái tuyệt đẹp, ra thưa cha rằng:

- Chẳng hay vua cha, cớ gì buồn rầu?

Ma vương liền đáp:

- Sa môn Cù Đàm, ở thành Vương Xá, trong núi Linh Thứu, đang vì vô lượng, vô biên chúng sanh, nói Kinh Trường Thọ, lan rộng cho khắp tất cả chúng sanh, được vui sống lâu, xâm cảnh giới ta, ta khởi ác tâm, nay muốn đem các quyến thuộc binh ma, đến nơi dẹp trừ. Giả sử chẳng thể ngăn cản Cù Đàm, thì oai lực ta, có thể cản ngăn, bịt tai tất cả, chư Thiên đại chúng, chẳng để cho họ nghe Phật nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội.

Khi ấy, ba người con gái, con của Ba Tuần, dùng kệ can cha:

Ba con của thiên ma ba Tuần,

Cúi đầu trước mặt, thưa với cha,

Sa môn Cù Đàm, Thầy trời người,

Chẳng phải sức ma hay ngăn cản,

Ngày trước, dưới gốc cây Bồ đề,

Khi Ngài mới ngồi tòa kiết tường,

Ba đứa chúng con rất xinh đẹp,

Đệ nhứt trong các hàng thiên nữ,

Trăm cách cử chỉ gợi dục tình,

Bồ tát đều không ý đắm nhiễm,

Xem ba chúng con như mụ già,

Nay thành bực Thầy Vô thượng giác,

Vua cha giương cung toan hù dọa,

Gậy gộc, binh khí bủa hư không,

Bồ tát xem như trò trẻ nít,

Không một chút tâm sợ thoái lui,

Ngày thành đạo làm vua pháp,

Cúi xin vua cha dứt ác tâm.

Lúc ấy, thiên ma Ba Tuần, nghe con nói kệ, liền đem quyến thuộc, lén bàn nhau rằng: “Ta với các ngươi đồng đến chỗ Phật, dùng phương tiện khéo, giả vờ thua cuộc, chịu quy hàng Phật, để Phật tin dùng. Nếu được tin rồi sẽ làm mọi cách ma sự, chướng ngại Kinh này”.

Ngay đó thiên ma, cùng với quyến thuộc, đồng đến chỗ Phật, quanh Phật bảy vòng, rồi bạch lên rằng:

- Kính bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói pháp, không mỏi mệt chăng? Nay con lãnh đạo, các quyến thuộc ma, đến đây nghe Kinh Trường Thọ Diệt Tội, làm đệ tử Phật, cúi mong Thế Tôn, chớ trái nguyện con.

Bấy giờ, Đức Phật quở trách Ma vương:

- Ngươi ở cung ma, tâm sanh giận tức, dầu được đến đây, cũng chỉ giả vờ, rút lui quy hàng. Trong giáo pháp Ta, chẳng chấp nhận sự lừa dối của ngươi.

Thiên ma Ba Tuần, lấy làm xấu hổ, gương mặt thất sắc, rồi bạch Phật rằng:

- Kính bạch Thế Tôn! Con tính kế ngu, làm điều dối trá, xin Đức Phật Thế Tôn, với lòng đại bi, tha thứ tội lỗi. Nay con được nghe, Kinh chú Trường Thọ Bảo Vệ Trẻ Thơ, con xin phát nguyện:

Nếu đời sau này, người nào thọ trì, Kinh Trường Thọ đây, biên chép đọc tụng, bất cứ chỗ nào, con cũng ủng hộ, không để ác quỷ, rình tìm tiện lợi. Dầu ở địa ngục, nếu tội nhân nào, trong khoảng giây lát, nhớ nghĩ Kinh này, con sẽ sử dụng, thần lực vĩ đại, lấy nước biển lớn, tưới xuống tội nhân, khiến địa ngục lớn, biến thành ao sen.

Bấy giờ, lại có La sát, ăn thịt con nít v.v… làm bậc thủ lãnh, cùng các quyến thuộc, đồng loại với mình, từ trên không xuống, đi quanh bên hữu Đức Phật nhiều vòng, rồi bạch lên rằng:

- Kính bạch Thế Tôn! Con từ vô lượng kiếp trở lại đây, chịu thân La sát, quyến thuộc của con, nhiều như hàng sa, người nào cũng bị, đói khát ép ngặt, chỉ ăn thai non, trong bốn đại châu và ăn máu thịt, con nít mới sanh. Quyến thuộc chúng con, rình chờ chúng sanh, vợ chồng giao hợp, rồi ăn tinh họ, khiến không thọ thai. Hoặc trong bào thai, con cũng theo vào, làm cho sẩy thai, rồi ăn tinh huyết. Mới sanh bảy ngày, chúng con chuyên rình, tìm dịp tiện lợi, dứt mạng căn chúng, cả đến trẻ con, mười tuổi cũng vậy. Quyến thuộc chúng con, biến làm những thứ, vi trùng độc hại, vào trong thai nhi, ăn tinh huyết trong tạng phủ đứa bé, khiến cho hài nhi ọc sữa, tiêu chảy hoặc bị bụng lớn hoặc bị nóng lạnh, tròng mắt có mủ, cho đến lần lần, dứt mạng của chúng.

Nay đây chúng con, nghe Đức Thế Tôn, nói Kinh Trường Thọ, diệt các tội chướng, bảo vệ trẻ thơ. Vâng theo những lời, Đức Thế Tôn dạy, thì quyến thuộc con, bị đói bức ngặt, chẳng dám ăn nuốt.