Hôm nay tôi xin tiếp tục gửi lên các chữ phù trị nóng lạnh và trị đau mắt. Phàm người tu luyện trên núi cao hoặc trong đồng vắng, họ luôn chuẩn bị tư thế đối đầu với tai nạn và tật bệnh. Những tai nạn như té núi thì chắc khó xảy ra trừ những người có số gặp kiếp nạn hoặc làm chuyện tà vạy tới lúc bị báo ứng. Cái mà người tu gặp phải nhiều nhất chính là bệnh tật. Những người mới lên núi, chưa quen phong thổ, chưa luyện thần lực, gặp khí núi ban đêm lạnh buốt xương, hít phải chướng khí mà sinh bệnh, phổ biến nhất là nóng lạnh và đau mắt. Có hai cách chữa trị, một là dùng thuốc, hai là dùng phù. Thầy tu ở núi đa phần đều rành cả hai, thuận tiện cái gì thì sử dụng cái đó. Dân ở thành phố sống trong tiện nghi vật chất, người có tiền khi bệnh một chút đã có bác sĩ đến tận nhà khám chữa, riết rồi trở thành nô lệ của những phát minh khoa học. Khi một con chó, con mèo ở quê bị bệnh, nó tự biết tìm các loại cây cỏ để nhai nuốt và nôn ra những thứ khó tiêu hóa, thậm chí khi một con chuột đồng đầu đàn đánh nhau với rắn hổ, đến lúc nọc ngấm vào thân tự nó còn biết chạy đi tìm thuốc giải... Nhưng các con chó kiểng, mèo kiểng, chó cưng mèo cưng ở thành thị lại không bao giờ có được khả năng này. Chúng được chăm sóc sướng quá nên bản năng sinh tồn bị suy thoái dần... Ngày rước, có lần tôi đưa khách vào tận các bản sâu trong rặng Trường Sơn, già làng sống thọ hơn trăm tuổi, ngồi cởi trần bên bếp lửa trong cái giá buốt của núi rừng, còn chúng tôi người nào cũng mũ trùm, áo gió... Đến khi cáo từ ra về, già làng không cho bảo rằng sắp có mưa, ai nấy đều ngơ ngác. Trời trong veo không có chút mây đen, chắc là già làng muốn cầm khách hay là lú lẫn đấy thôi- ai nấy đều thầm nghĩ thế. Đến khi về nửa chừng, mưa rừng tuôn xối xả, chiếc xe Jeep bê bết sình lầy súyt tí nữa ngập luôn trong đám bùn đỏ đặc quánh của cao nguyên. Về đến khách sạn, ai nấy đều thè lưỡi sợ hãi. Đám người trí thức trong đòan quá tin vào khoa học, lệ thuộc vào những buổi dự báo thời tiết của đài khí tượng mà quên đi những kinh nghiệm của người già... Thôi thì ai mê tín vào khoa học cứ mê tín, còn tôi- khoa học tôi rất tin nhưng tôi tin cả bùa phép, ngãi nghệ, tin cả vào nhân quả- trong kinh Thánh đã viết " Phúc cho những người nào chưa thấy đã tin" mà. Chúc huynh đệ tập luyện thành công.
CÁCH LUYỆN: NHƯ NHỮNG PHẦN TRƯỚC
CÁCH SỬ DỤNG:
- CẶP CHỮ PHÙ TRÊN DÙNG ĐỂ TRỊ CÁC BỆNH ĐAU MẮT. ĐỌC CHÚ TRIỆU THẦN, KHÓAN VÀO NƯỚC MUỐI ẤM ĐỂ RỬA MẮT. SAU ĐÓ TIẾP TỤC ĐỌC CHÚ VÀ TƯỞNG CHỮ PHÙ THỔI VÀO HAI MẮT.
- CHỮ PHÙ DƯỚI DÙNG ĐỂ KHÓAN TRỊ NÓNG LẠNH, CÁC BỆNH VỀ RÉT... ĐỌC CHÚ TRIỆU THẦN RỒI KHÓAN VÀO GIỮA LƯNG ( GIỮA 2 GÙ VAI) SAU ĐÓ TIẾP TỤC KHÓAN LẦN HAI VÀO GIỮA NGỰC.
Về Đầu Trang
tamandieungo
Đai Nâu
Ngày tham gia: 08 1 2007
Số bài: 298
Đến từ: VietNam
Gửi: Thứ Hai 29/01/2007 4:06 AM Tiêu đề:
--------------------------------------------------------------------------------
Tuy nhiên, có 2 chử bùa của huynh tamandieungo vừa Post lên mạng khác đôi chút với bài tôi được học, cụ thể:
1. Khoán dời (trị cả sưng, trặc, nhọt ...): chử bùa giống nhau. Chú: BUỐT THÔ CHOL, SĂN KHỐ CHOL.
2. Trị rắn, rết, bò cạp cắn: chử bùa khác chút (nét cuối 03 gút). Chú: NA CHIA LI TÊ.
Có đôi điều thắc mắc muốn giải bày, mong các huynh vui lòng chỉ giáo:
Tôi đã biết đến huyền thuật này các đây hơn 20 năm, bùa chú được các thầy thương nên cho khá nhiều với nhiều đạo, phái khác nhau ... Tuy vậy, đến nay tôi vẫn chưa chứng nhận được tính linh hiển của linh phù do áp dụng không đạt hiệu quả như mong muốn, ngay cả những việc đơn giản nên dần mất lòng tin vào chính mình (khoán dời, sưng trặc cho bản thân và gia đình không hết, cuối cùng phải nhờ thầy khác ...). Có phải phương pháp tu tập không đúng (các thầy của tôi đều là võ sư và thầy thuốc nam, rất thương và thường hay khen tôi) hay thiếu ân điển, thiếu duyên ... !?
Theo các huynh, để mau tinh tấn tôi phải tu tập lại từ đầu hay bắt đầu từ đâu, như thế nào cho đúng căn bản? Thú thật, sau khi nghiên cứu các bài viết của các huynh, tôi mới nhận ra kiến thức về bùa ngãi của mình hết sức mông lung, "tả pí lù" và tôi cũng chưa bao giờ được "Bề trên" báo mộng như thường nghe một số người tu luyện kể lại cho dù trong tâm nguyện hằng ước mong.
Tôi xin mang nội dung câu hỏi của huynh sang đây để trả lời có hệ thống, tránh việc tản mạn chủ đề.
Về việc giống phù khác chú là do người thầy học khác nhau nên truyền lại khác nhau. Huynh thấy trong võ thuật cổ truyền, binh khí hầu hết giống nhau như đao thương kiếm kích, mục đích sử dụng cũng giống nhau chủ yếu là cường thân, tự vệ, giúp người. Nhưng cách sử dụng bộ pháp, thân pháp đâu có giống nhau... chữ phù cũng vậy. Tuỳ theo kiến văn và sở học của thầy mà chữ chú có khác nhau. Có chú phải gọi Tổ trước rồi mới đến chú gọi thần chữa trị căn bệnh; có chú chỉ cần gọi thần, có chú chỉ khấn tổ sư rồi khoán trị... vậy như thế nào mới đúng. Làm sao phân biện được khi ta chưa ngộ hết lẽ huyền vi của tạo hoá, chỉ biết dốc lòng mà hành sự. Trước đây thầy tổ đã làm, đã thành công thì bây giờ mình cứ làm theo, thắc mắc cứ thắc mắc, chừng nào giải được thì hay, không giải thích được cũng không sao. Mục đích chính của linh phù là chữa bệnh mà!
Tuy nhiên, về trường hợp này, tôi xin được góp ý kiến riêng của mình vào để huynh rộng đường nghiên cứu. Câu chú Pali mà huynh gửi lên thuộc về trường hợp thứ nhất, phải đọc (hoặc xưng tán) danh hiệu của Tam Bảo rồi sau đó đọc đến chú triệu thần chữa bệnh. Danh hiệu này tuỳ theo từng môn phái, từng công dụng mà cách đọc khác nhau.
Ví dụ: BUỐT THÔ - BUỐT THÁ - BUỐT THĂN - BUỐT THIA DÁ...
Nhưng không hiểu vì lý do gì, câu chú huynh gửi lên chỉ có xưng tán hai danh hiệu, còn danh hiệu thứ ba là
THĂN MÔ CHOL lại không thấy, cũng không có câu kinh chú gọi thần chữa trị. Cho nên tôi không biết huynh có sót không. Riêng chữ phù của tôi học chỉ căn cứ vào bài kinh cầu sư Tổ và triệu thần cùng với phép luyện Thái Âm - Thái Dương mà vận dụng vào tất cả các chữ phù còn lại. Đó là lý do vì sao các chữ phù tôi post lên sau này không có chú.
Ở trường hợp thứ hai, xin được ví dụ cho dễ hiểu. Ở Đà Lạt có rất nhiều thông. Nhưng có loại thông 2 lá, có loại thông ba lá, phân biện khác nhau rõ ràng nhưng tựu trung cũng là cây thân thẳng, luôn xanh tốt trong mùa đông. Chữ phù cũng vậy, khác nhau về số gút nhưng công dụng vẫn là thế. Tuy nhiên, nhân việc huynh đặt vấn đề, tôi xin được nói thêm về công dụng chữ phù trị bệnh. Nếu sử dụng 3 gút, tôi chỉ mới khoá nọc độc và giải độc. Nhưng sau đó phải sử dụng chữ phù có 2 gút để trừ căn. Đó là yếu quyết.
Còn nữa, câu chú NA CHIA LI TÊ theo tôi biết thì chỉ có công dụng làm tê, xoa dịu vết đau cấp kỳ, ngăn ngừa chất độc, làm mát vết thương chứ không có công dụng trừ nọc độc. Không hiểu do khác môn phái mà điều tôi hiểu biết không giống nhau chăng?
Cuối cùng, những điều thắc mắc của huynh tôi xin trả lời gọn như sau. Huynh có thể học nhiều môn nhiều phái, nhưng huynh phải có một môn làm gốc, được điểm đạo, được truyền chú Tổ... huynh vui lòng xem lại những điều tâm sự của tôi ở những trang trên xem khả dĩ có giúp gì cho huynh được chăng?
Còn mộng ứng ư? Có cảm sẽ có ứng. Huynh luôn tinh tấn hành trì chú Tổ và giữ vững ngũ giới cấm của nhà Phật, kèm thêm ăn chay 10 ngày/ tháng và tam ngoạt trai/ năm, tôi tin là huynh sẽ được cảm ứng thôi. KÍnh chuc huynh thân tâm hằng an lạc.
===============================================
thanh-pali
Đai Cam
Ngày tham gia: 09 10 2006
Số bài: 193
Đến từ: VIETNAM
Gửi: Thứ Ba 30/01/2007 12:49 AM Tiêu đề:
--------------------------------------------------------------------------------
-Mến chào các bạn ,xin lổi vì tự ý xen vào ,nhưng mà mình thấy huynh tâm ấn diệu ngộ có nhiều phù giống với mình học tới 6,7 chục phần trăm đó !chắc là huynh học phép tắc gốc ở trên trà sư phải hôn ?còn 1 nhánh phép giống nửa là bên núi vinh ,mà bên nầy lại do 1 nử cư sỉ cao tay chủ trì ....không biết mình đoán có phải không ?và mình xin hỏi Tâm ấn diệu ngộ có phải là NỬ không ?nét bùa bạn ciết có vẻ rất mềm mại ...........................còn hàng chử đỏ của bạn nào hỏi thì mình không biết tên ,nhưng thành thực chia buồn với bạn về nổi niềm của bạn !20 năm luyện mà không thấy cảm ứng ,thiệt là tiếc quá ....mình xin phép gợi ý 1 chút xíu nghen ,nếu bạn học về hệ thống có mẹ sanh ,chư lục thì trước lúc ngủ cần ngồi niệm mấy câu sau đây,và cứ niệm cho tới lúc ngủ quên thì thôi ,lúc nằm xuống có cảm giác như mình lâng lâng hay xoay tròn thì cứ kệ nó ,không hề chi ,cần ngủ nằm ngửa và ngủ 1 mình nghen ,niệm thần chú nầy ...êhế no tho ngăn -êhế bili -ê hế nu sê -êhế nha bênh -êhê sá xây cà rơ mây măc măc -săng quét tha khắc......cứ niệm cho ngủ quên thôi ....bạn có mơ chi tỉnh dậy thì lấy giấy viết ghi lại ,nếu không sáng dậy quên hết đó ....................thôi ít lời vậy ,kính chào các quý đạo hửu .
_________________
THANH-PALI
Về Đầu Trang
tamandieungo
Đai Nâu
Ngày tham gia: 08 1 2007
Số bài: 298
Đến từ: VietNam
Gửi: Thứ Ba 30/01/2007 1:45 AM Tiêu đề:
--------------------------------------------------------------------------------
Xin cảm ơn huynh Thanh-pali đã quan tâm. Mấy hôn nay lên diễn đàn không có ai để trao đổi học thuật nên cũng hơi buồn. Nay được lời của huynh, tôi thấy vui lắm. Có một điều hơi ngạc nhiên là huynh lại nghĩ tôi là nữ. Xin thưa, tôi là dân "may ghế" thứ thiệt (tôi sử dụng luôn từ của huynh để trả lời cho tiện... hì hì...). Sở học của tôi bắt đầu từ núi Tượng, do sư công tôi tu tập và mang về chùa truyền dạy cho đệ tử. Còn huynh nói núi Vinh, không biết là ở đâu, vì ở miền Đông Nam Bộ chỉ có dãy núi Dinh trên đường ra Bà Rịa mà thôi. Không biết phải là núi này không?
Về Đầu Trang
tamandieungo
Đai Nâu
Ngày tham gia: 08 1 2007
Số bài: 298
Đến từ: VietNam
Gửi: Thứ Ba 30/01/2007 4:50 PM Tiêu đề:
--------------------------------------------------------------------------------
Tôi đả từng gặp một số vị vốn là đệ tử của thầy Thiền Tâm, Viên Đức, Thông Đức (còn có dnh hiệu khác là Đồng Hạnh). Các huynh ấy được hướng dẫn phương pháp trì luyện rất kĩ, thậm chí tôi còn được phép chép lại quyển sổ tay của một huynh đệ tử thầy Thiền Tâm. Pháp hành trì Đại Bi chú của tôi bắt đầu từ những bản chép tay ấy. Cho nên xem ra dù không được gặp thầy nhưng tôi đã có duyên với thầy rồi.
Tuy nhiên, công năng trì chú quán tưởng của các huynh ấy có khả năng giải trừ ma chướng, tức tai cho bản thân và vài người hữu duyên. Nếu dùng khả năng hành trì chú pháp ra chữa bệnh thì lại không thành công lắm. Vì sao vậy? muốn diệu dụng thì phải biết vận dụng uy lực của thần chú vào việc xoay chuyển chư thần. Các vị đại sư đạo hạnh cao dày, chư thần tự cảm động mà đến hộ pháp, tình nguyện làm theo sự sai sử của thầy. Còn chúng ta, bao nhiêu người có được đạo hạnh đó? đành phải luyện mà thôi. Hôm nay, tranh thủ lúc khách ăn sáng, tôi gửi đến huynh đệ một chữ chú Chuẩn Đề đã được vận dụng một cách diệu dụng theo huyền môn. Những lần sau, các huynh đệ sẽ thấy những chữ Phật được vận dụng vào phù lục.
BÀI KINH LUYỆN:
- NAM MÔ THẤT CÂU CHI - PHẬT TỔ TAM VỊ CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI.
- THẾ THỦ QUI Y TÔ TẤT ĐẾ, ĐẦU DIỆN ĐẢNH LỄ TÁC CÂU CHI, NGÃ KIM XƯNG TÁN ĐẠI CHUẨN ĐỀ, VI NGUYỆN TỪ BI THÙY GIA HỘ.
- NAM MÔ TÁT ĐA NẪM ĐA, TAM DIỆN TAM BỒ ĐỀ, CU CHI NẪM ĐÁT DIỆT THA. ÁN CHIẾC LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TÁ HA.
- NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT. (Lúc đầu khi nhận và đọc bài này tôi thấy khó chịu vì đọc sai tùm lum, nhưng thầy tôi nói không phải là sai, đây là có ý của thầy tổ truyền cho đọc như vậy. Nếu đọc như bình thường thì lại không có sự diệu dụng, thật không hiểu thế nào nữa)
CÁCH LUYỆN:
NGỒI XẾP BẰNG, KIẾT GIÀ HOẶC BÁN GIÀ, KẾT ĐỊNH ẤN HOẶC CHẮP TAY ĐỀU ĐƯỢC, QUÁN TƯỞNG Ở TAM TINH CHỮ PHÙ TRÊN. ĐỌC ĐẾN KHI NÀO CHỮ PHÙ SÁNG RỰC, DẪN PHÙ VÀO AN Ở TÂM NGỰC.
CÔNG NĂNG:
TRỊ BÁ BỆNH, TRỪ TÀ, TRẤN TRẠCH, HỘ THÂN, THẬM CHÍ CÓ THỂ DÙNG ĐỂ PHÁ PHÉP KHẮC ĐẠO... CHỈ CẦN TƯỞNG CHỮ THỔI, HỌA NHANG THỔI HOẶC VẼ LƯỠI THỔI ĐỀU ĐƯỢC.
CA
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks