Trang 4 trong 8 Đầu tiênĐầu tiên 12345678 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 61 tới 80 trên 155

Ðề tài: Về sư Thông Lạc: GHPGVN im lặng mới là "hiện tượng"

  1. #61

    Mặc định

    những pháp đoạn diệt phiền não đưa ta đến hạnh phúc không bị trói buộc đó là chánh pháp. Tín tâm là lòng tin chân thật vào chân lý giác ngộ. Phước báu là kết quả thành tựu của việc làm đem lại lợi ích cho mọi người. Quả vị vô thượng bồ đề mọc trong tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả. Kiến thức tôi chỉ có thế, nếu bạn luc vân chưa thấy thỏa mãn có thể hỏi các vị cao nhân khác

  2. #62
    Nhị Đẳng Avatar của vietnamese
    Gia nhập
    Nov 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    2,258

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Lục Vân Xem Bài Gởi
    Cho hỏi chánh pháp là những pháp nào?
    Tín tâm là tâm làm sao?
    Phước báu gồm những phước gì?
    Quả vị cô thượng chánh giác mọc ở đâu?

    Vào google.com.vn nhé bạn ! Đừng hỏi theo kiểu thách đố như vậy mất hay !
    Diễn đàn là nơi trao đổi kinh nghiệm tu hành chứ không phải nơi hơn thua nhau.
    A Di Đà Phật !
    Mắt trông thấy sắc rồi thôi
    Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
    Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
    Ung dung ta bước ra vòng trần ai.

  3. #63

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi DaiBatNha Xem Bài Gởi
    những pháp đoạn diệt phiền não đưa ta đến hạnh phúc không bị trói buộc đó là chánh pháp. Tín tâm là lòng tin chân thật vào chân lý giác ngộ. Phước báu là kết quả thành tựu của việc làm đem lại lợi ích cho mọi người. Quả vị vô thượng bồ đề mọc trong tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả. Kiến thức tôi chỉ có thế, nếu bạn luc vân chưa thấy thỏa mãn có thể hỏi các vị cao nhân khác
    ---------------------------------
    tuyệt vời ,:rose::rose::rose:@8@.$$$191

  4. #64

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi DaiBatNha Xem Bài Gởi
    Trước nhất tôi xin tái khẳng định một lần nữa cho các đạo hữu biết "niềm tin là mẹ đẻ của tất cả các công đức". Mọi tôn giáo đều đặt niềm tin vào một chân lý nào đó. và đạo phật đặt niềm tin kiên cố vào lý nhân quả. đó là điều chắc chắn. Thế nhưng hiểu như người này về nhân quả rồi quay lại phỉ báng chư phật và bồ tát quán thế âm thì thật là tội lỗi. Đúng là gieo cái nhân nào thì gặt cái quả đó, nhưng cái gì cũng là tương đối. Nghiệp của người ta cũng là tương đối, có thể cải thiện được. ví dụ như đất cằn cỗi thì bón phân, ruộng hạn thì tưới nước. Do vậy ác nghiệp có thể cải thiện bằng thiện nghiệp qua quá trình tích lũy. Dù là ruộng cày lên sỏi đá mà cố công cải tạo, bòn phân thì đất cằn cỗi cũng sinh được lúa thơm. chỉ sợ người thấy ruộng khô cằn mà bỏ hoang phế thì đói khổ nghèo cùng phước đức. Hạng này mới lãnh thọ quả báo. Có câu đánh kẻ chay đi không ai đánh người chạy lại. Kẻ muốn được cứu độ trước tiên tự mình phải giác ngộ để dừng lại ác nghiệp
    Ðức Phật cảm hóa được kẻ cướp sát nhân Angulimàla
    (Theo Chú giải Kinh Angulimàlasuttavannanà - Bộ chú giải Majjhimapannàsa, kinh Angulimàlasuttavannanà).


    Ðại đức Angulimàla vốn tên thật là Ahimsaka xuất thân từ dòng dõi Bà la môn, trong một gia đình quý tộc nhiều đời. Thân mẫu Ngài tên Mantanì; thân phụ Ngài tên Gagga, là quân sư tài đức khả kính của Ðức vua Pasenadi trị vì xứ Kosala.
    Trong đêm Ngài sinh ra đời, một hiện tượng lạ thường chưa từng có đã xảy ra: tất cả vũ khí ở trong thành đều phát ra ánh sáng chói lòa; ngay cả thanh gươm báu của Ðức vua Pasenadi nằm ở trong bao, đặt trong căn phòng ngủ, cũng phát ra ánh sáng thép lạnh buốt, làm cho Ðức vua kinh hoàng.
    Ông Bà la môn, thân phụ của Ngài Angulimàla, nhìn thấy hiện tượng như vậy, liền bước ra hiên nhìn lên trời xem thiên văn, giữa hư không vời vợi một ngôi sao "kẻ cướp sát nhân" vừa xuất hiện. Ông nhẩm tính một hồi, rồi cảm thấy rùng mình sợ hãi. Ngôi sao ấy chính là biểu hiệu số mạng con trai vừa mới chào đời của ông. Sau nầy nó sẽ trở thành tên cướp giết người khét tiếng!
    Là quân sư của Ðức vua, người nắm cán cân công lý và sự an nguy cho xã tắc, ông Bà la môn không cho phép mình vì tình riêng mà dấu kín mầm móng tai họa, nên trời vừa sáng, ông đã vào chầu Ðức vua Pasenadi tâu rằng:
    - Ðêm qua bệ hạ ngủ có được an giấc hay không?
    Ðức vua đáp:
    - Thưa quân sư khả kính, Trẫm có ngủ yên được đâu! Không biết điềm xấu gì xảy ra mà thanh gươm báu của Trẫm đặt ở trong bao lại phát ra ánh sáng chói lòa rất là khủng khiếp. Trẫm lo sợ có điều tai họa gì đó liên quan đến tánh mạng của Trẫm, hoặc có chuyện bất trắc gì xảy ra cho ngai vàng của Trẫm chăng?
    - Tâu bệ hạ - vị quân sư mau mắn đáp - đêm qua hạ thần có xem thiên văn, quả thật có một hung tinh vừa xuất hiện. Nhưng điềm xấu ấy không liên hệ gì đến tánh mạng cũng như ngai vàng của bệ hạ.
    Tâu bệ hạ, không những chỉ riêng thanh gươm báu của bệ hạ, mà còn tất cả các loại vũ khí ở trong thành đều phát ra ánh sáng; đó là do năng lực ác nghiệp của con trai hạ thần vừa mới ra đời đêm qua.
    Ðức vua ngạc nhiên:
    - Có chuyện như vậy sao! Quân sư hãy nói rõ cho Trẫm nghe!
    - Tâu bệ hạ, con trai hạ thần vừa mới hạ sanh đêm qua ứng vào vị hung tinh ấy. Sau nầy, nó sẽ trở thành tên cướp sát nhân rất nguy hiểm.
    - Thật vậy sao? Ðức vua hỏi. Nó sẽ trở thành tên cướp sát nhân? - chỉ là một tên cướp sát nhân thôi, hay là thủ lãnh một nhóm trộm cướp chuyên giết người, cướp của, dã man, tàn bạo, phá xóm, phá làng... và đe dọa cả ngai vàng của Trẫm?
    - Không phải vậy, tâu bệ hạ! Nó chỉ là một tên cướp. Một mình nó thôi. Tuy chẳng tổn thương gì đến bệ hạ và ngai vàng, nhưng để tránh những tai họa về sau, thần xin phép bệ hạ cho thần được giết chết nó khi đang còn nhỏ.
    Ðức vua Pasenadi vốn là một vị vua hiền đức, nghe vậy liền có lời can ngăn:
    - Ðừng nên làm như thế, thưa quân sư khả kính! Nếu chỉ là một mình nó thì không thể gây ra tai họa lớn lao được. Trẫm biết rõ quân sư một đời nghiêm minh, thận trọng, chí công vô tư, không vì tình riêng mà che mờ phép nước. Nhưng đứa trẻ kia vừa mở mắt chào đời, chưa làm gì nên tội, xin quân sư hãy tha mạng sống cho nó.
    Nếu bảo là do năng lực của ác nghiệp, thì quân sư nên tìm cách ngăn chặn, bằng cách nuôi dưỡng nó trong môi trường đạo đức, như vậy thì quả của ác nghiệp khó có cơ hội phát sanh.
    Quân sư hãy chăm sóc, nuôi nấng, dạy bảo nó trở nên con người hiền lương. Ví như thanh gươm nằm trong vỏ, mũi tên nằm trong bao tên, thì nó làm sao có thể hại đến ai được!
    Vậy quân sư nên đặt tên cho đứa trẻ là Ahimsaka (người không làm hại, làm khổ đến ai).
    Bà la môn Gagga nghe vậy, cúi đầu tuân phục, ông cảm kích và tri ân Ðức vua hiền minh không kể xiết.
    Cậu bé Ahimsaka lớn lên, rất thông minh dĩnh ngộ, lại có sức mạnh phi thường, sống trong gia đình dòng dõi Bà la môn có truyền thống đạo đức lâu đời, cho nên cậu bé được nuôi dưỡng và giáo dục tốt trong một môi trường sống hiền hòa, tạo nhân tạo duyên cho thiện pháp phát sanh, những phẩm chất hiền lương của con người càng thêm tăng trưởng.
    Khi đứa bé lớn, đến tuổi đi học, ông Bà la môn Gagga gởi con du học xứ Takkasilà, tại ngôi trường đào tạo các vị Hoàng tử, con cháu Bà la môn từ các quốc độ... có vị đã trở thành đấng minh quân, những nhà lãnh đạo tài ba, những bậc hiền triết uyên thâm....
    Là đứa trẻ vốn có thiên tài xuất chúng, nên bất cứ môn học nào Ahimsaka cũng đều xuất sắc hơn các người học trò khác. Ngoài ra, cậu là người học trò luôn luôn làm tròn tất cả mọi phận sự đối với thầy, mọi lễ nghi phép tắc... không ai có thể chê cậu ở một điểm nhỏ nào. Tài năng và đức hạnh của Ahimsaka đều vẹn toàn, cho nên, người thầy Bà la môn và phu nhân của thầy rất hài lòng, thương yêu Ahimsaka và xem như đứa con ruột của mình.
    Mọi sự việc ấy làm cho bạn bè đồng học ganh tỵ, họ bàn luận với nhau rằng: "Kể từ khi có mặt Ahimsaka nơi nầy, trong chúng ta không có một ai hơn nó, dầu chỉ một bộ môn nào. Nó là người có tài trí hơn hẳn chúng ta về mọi phương diện kể cả đạo đức. Ahimsaka là người học trò tài đức vẹn toàn, luôn luôn được thầy khen, ngược lại tất cả chúng ta là Hoàng tử, công tử... mà thầy quở trách chúng ta. Ðó cũng chỉ vì Ahimsaka quá tài giỏi hơn chúng ta gấp bội, còn chúng ta so với nó thì quá kém cỏi mà thôi".
    - Vậy chúng ta có mưu kế nào để đuổi Ahimsaka ra khỏi trường nầy không?
    - Chúng ta chẳng có cách gì nói xấu Ahimsaka được.
    - Nếu nói Ahimsaka thuộc dòng dõi thấp hèn ư? Chẳng thể nào, vì Ahimsaka thuộc dòng dõi Bà la môn cao quý, là con của ông Gagga, vị quân sư của Ðức vua Pasenadi trị vì xứ Kosala.
    - Nếu nói Ahimsaka là đứa học trò không làm tròn bổn phận, vô lễ với thầy ư? Chẳng thể nào vì Ahimsaka là người học trò làm tròn bổn phận, có lễ phép, tôn kính thầy hơn tất cả chúng ta....
    Cuối cùng có một người trong nhóm đưa ý kiến:
    "Tất cả chúng ta chia ra làm ba nhóm, và nhóm nào cũng đều thưa với thầy một điều giống nhau. Ban đầu có lẽ thầy không tin, thầy quở trách, chúng ta phải nên kiên nhẫn chịu đựng, nhưng dần dần thầy sẽ hoang mang ngờ vực và cuối cùng thầy sẽ tin".
    Tất cả xem đó là một mưu kế hay.
    Thế là theo kế hoạch, phải thực hiện tuần tự theo thời gian.
    Ngày hôm sau, vào một dịp thuận lợi nhất, nhóm thứ nhất vào quỳ và thưa thầy rằng:
    - Ai cũng biết bạn Ahimsaka là người học rất giỏi, có tài trí, lễ phép, từ lâu rất được thầy yêu bạn mến, nhưng chúng con nghi y có âm mưu hại thầy, chúng con kính yêu thầy, xin thưa cho thầy biết để đề phòng trước thì hơn.
    Nghe nói vậy, vị thầy rất bực tức quở trách họ, vì cho rằng họ có ác tâm muốn làm tổn thương tình cảm giữa ông và Ahimsaka, người học trò ông rất mực thương yêu như con, bèn xua đuổi nhóm đó đi ra ngoài ngay.
    Một thời gian sau, y theo kế hoạch, nhóm thứ nhì với số người đông hơn, cũng vào quỳ hầu thầy và thưa chuyện với nội dung y như lần trước. Họ cũng bị thầy quở trách rồi đuổi đi ra. Một thời gian lâu sau, nhóm thứ ba cũng thưa như hai nhóm trước, vị thầy cũng đối xử như hai nhóm trước. Mặc dầu vậy, nhóm thứ ba nầy tỏ vẽ khẩn khoản van xin thầy: nếu thầy không tin chúng con, xin thầy xem xét Ahimsaka có tài trí khác thường, nếu y mưu tính việc lớn thì khó ai biết được.
    Sau nhiều lần, vị thầy bắt đầu suy nghĩ: "Sao cả ba nhóm học trò nầy đều thưa một việc giống nhau? và chúng đều có ý lo lắng cho sự an toàn của ta".
    Vị thầy bắt đầu hoang mang ngờ vực, khi đã ngờ vực rồi thì mọi hành vi cử chỉ, lời nói của Ahimsaka cũng đáng nghi cả. Sự nghi ngờ ấy tuy chưa tìm ra chứng cớ rõ ràng, nhưng vị thầy cảm thấy lo sợ, bất an, vị thầy nghĩ: "Cách tốt nhất để giữ gìn bảo vệ sanh mạng của ta là phải tìm kế hạ thủ trước. Nếu tự tay ta đầu độc hoặc giết chết y, bọn học trò sẽ biết, và như vậy thì vua chúa, Bà la môn, quý tộc... cũng sẽ biết, tiếng xấu sẽ lan truyền ra mọi quốc độ rằng: "thầy mà giết chết học trò", thì còn gì là uy tín và đạo đức của ta nữa. Khi thiên hạ mất đức tin ở nơi ta thì họ sẽ không còn gởi con cháu đến đây học nữa. Khi ấy, danh vọng ta sẽ mất mà lợi lộc cũng không còn! Vậy tốt hơn hết ta hãy bày ra một kế để cho người ta giết Ahimsaka".
    Vì nghĩ như thế, nên một hôm ông gọi Ahimsaka lại bảo:
    - Nầy Ahimsaka con yêu quý, con là một người học trò có tài trí phi thường, con rất xứng đáng, nên thầy muốn truyền dạy môn học tột bậc cho con, với điều kiện con phải giết đủ một ngàn người đem trình cho thầy, để ứng dụng vào môn học ấy, cũng đồng thời là sự tạ ơn thầy một cách xứng đáng với công lao nuôi dạy của thầy.
    - Kính thưa thầy, con sanh ra ở dòng dõi Bà la môn cao quý, con không thể nào giết hại người được, bạch thầy - Ahimsaka thưa.
    Vị thầy dạy rằng:
    - Nếu như vậy, con không thể nào thành đạt đến tột cùng môn học, thật là uổng công lao nuôi dạy của thầy! Con không đền đáp được công ơn thầy.
    Ahimsaka nghe thầy nói vậy, bất đắc dĩ phải làm theo lời thầy, xem là việc đền đáp công ơn nuôi dạy của thầy, nhưng thật tâm hoàn toàn không thích làm việc bất lương như vậy.
    Sau khi lạy từ giã thầy, Ahimsaka mang năm loại vũ khí theo mình đi vào rừng, chờ có ai đi vào rừng hay đi ngang qua rừng sẽ giết. Vì tâm không ham thích giết người, đây chẳng qua là một việc làm bất đắc dĩ nên chàng không nhớ rõ đã giết bao nhiêu người rồi. Sau đó, hễ giết được một người, chàng cắt lấy một đầu ngón tay cho dễ đếm, những ngón tay để rãi rác bị thất lạc, hoặc các loài thú ăn mất. Cuối cùng, Ahimsaka nghĩ ra một cách là xâu những đầu ngón tay nầy thành vòng đeo ở cổ. Từ đó chàng có biệt danh là Angulimàla: có nghĩa là kẻ cướp sát nhân, cắt ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ.
    Dân chúng trong thành nghe đến tên cướp sát nhân Angulimàla thảy đều kinh sợ, không ai dám đi một mình qua khu rừng, nhưng dầu đi từng toán từ 10 người - 20 người hay 30 người cũng không một ai thoát khỏi lưỡi đao của Angulimàla.
    Tiếng đồn vang xa từ làng nầy qua làng khác quanh vùng, không ai dám đi ngang qua khu rừng ấy. Thế là bắt buộc Angulimàla phải vào xóm làng tìm người để giết cho đủ số 1000. Dân chúng kinh sợ bỏ xóm làng, đi lánh nạn sang nơi khác cách xa khu rừng ba do tuần.
    Chuyện Angulimàla giết hại mọi người náo động đến kinh thành Sàvatthi. Một nhóm các bô lão đại diện dân chúng xin vào cầu cứu Ðức vua Pasenadi rằng:
    - Tâu bệ hạ, xin bệ hạ cứu dân vô tội, tên Anguli-màla kẻ cướp giết hại nhiều người, cắt đầu ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ, dân chúng kinh sợ đã bỏ xóm làng đi lánh nạn sang nơi khác, chịu cảnh cực khổ thiếu thốn.
    Kính xin bệ hạ bắt y trị tội để chúng con được trở về quê hương yên ổn làm ăn.
    Nghe dân chúng kêu van thảm thiết như vậy, Ðức vua liền hội triều hỏi ý kiến các quan. Ðức vua quyết định thân chinh cầm đầu dẫn quân truy bắt Angulimàla, tên cướp giết người để trị tội.
    Trong buổi hội triều, vị Bà la môn Gagga, quân sư của Ðức vua Pasenadi có linh tính báo cho biết Angulimàla tên cướp sát nhân ấy không ai khác mà chính là Ahimsaka, con trai yêu quý của ông.
    Bãi triều, về nhà, ông âu sầu kể lại cho bà Mantanì, vợ ông, biết rằng: Nầy phu nhân "tên cướp sát nhân" ấy không phải ai khác mà chính là Ahim-saka, đứa con trai yêu quý của chúng ta.
    Nghe vậy, bà Mantanì khóc lóc cầu xin chồng đi tìm con trở về nộp cho Ðức vua, xin Ðức vua từ bi ân xá tội chết, trước khi Ðức vua truy bắt.
    Ông Bà la môn cũng thương yêu con, nhưng bây giờ nó đã trở thành kẻ cướp sát nhân rồi, ông Bà la môn là bậc trí thức biết suy xét về lời dạy của bậc hiền triết ngàn xưa có dạy rằng: "Có bốn hạng người không nên đặt niềm tin vào họ" :
    - Là tên cướp sát nhân, dầu trước đây hắn là bạn cũ.
    - Là bạn cũ, dầu đã từng sống chung với nhau lâu năm.
    - Là Ðức vua, dầu được Ðức vua tin cẩn.
    - Là đàn bà, dầu trước đây đã từng đối xử rất tốt với bà ta.
    Suy ngẫm bốn hạng người nầy, con trai của ông là một trong những hạng người ấy, không nên đặt niềm tin vào nó. Cho nên, ông Bà la môn từ chối lời yêu cầu của vợ.
    Biết vậy, bà Mantanì rất nóng lòng vì thương yêu đứa con của bà, với tình thương yêu của một người mẹ, bà nghĩ: "nó là gì đi nữa, thì nó cũng chỉ là đứa bé nhỏ dại, đáng thương, đáng yêu của mình, đáng được tha thứ!".
    Thế là chẳng quản gian lao vất vả, nguy hiểm, bà Mantanì quyết đi tìm Ahimsaka, đứa con yêu quý của bà.

    ĐỨC PHẬT CẢM HÓA ANGULIMÀLA

    Cuối canh chót đêm ấy, Ðức Thế Tôn nhập đại bi định, sau khi xả định, quán xét chúng sanh có duyên lành nên tế độ, Ðức Thế Tôn nhìn thấy Angulimàla hiện trong mạng lưới đại bi của Ngài. Ngài biết rằng: duyên lành của Angulimàla đã đến, Như Lai sẽ tế độ Angulimàla, chỉ cần nghe lời giải đáp xong Angulimàla sẽ phát sanh đức tin trong sạch, từ bỏ mọi vũ khí, xin xuất gia trở thành Tỳ khưu, về sau Angulimàla sẽ chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Thánh Quả cùng với Tam minh.
    Ðức Thế Tôn còn thấy rõ rằng: nếu Ngài đến chậm trễ, Angulimàla sẽ giết mẹ, phạm trọng tội trong ngũ vô gián nghiệp thì vô phương cứu thoát.
    Thế rồi, sáng hôm ấy, Ðức Thế Tôn đi vào thành Sàvatthi để khất thực như lệ thường, sau khi độ ngọ xong, dọn dẹp chỗ ở, rồi Ðức Thế Tôn chỉ một mình mặc y, mang bát đi theo con đường mòn nhỏ nhắm hướng đi thẳng đến khu rừng nơi ở của Angulimàla.
    Dân chúng bên đường nhìn thấy Ðức Thế Tôn (không nhận biết được Ðức Phật) đi theo con đường vào khu rừng nơi trú ngụ của Angulimàla, lo sợ Ngài bị giết bèn ra ngăn cản:
    - Kính bạch Sa môn, kính xin Ngài đừng đi theo con đường nầy, ở trong khu rừng kia có tên Angulimàla là kẻ cướp giết người, bất luận là ai y cũng không thương xót. Kẻ cướp sát nhân nầy đã tàn sát dân làng già trẻ, dân chúng còn sống sót kinh sợ đều bỏ làng đi lánh nạn nơi khác. Một vùng đất rộng bên trong kia chỉ còn cảnh tiêu điều vắng vẽ, không một bóng người qua lại.
    - Kính bạch Sa môn, trước đây có những toán người đông 20 người, 30 người, 40 người... đi qua con đường nầy cũng đều bị Angulimàla sát hại, không còn một ai sống sót cả. Kính xin Sa môn đừng vào nơi nguy hiểm ấy.
    Ðức Thế Tôn nghe dân chúng bạch đến ba lần, rồi dạy:
    - Các con hãy an tâm! Không có điều gì xảy đến với Như Lai đâu! Rồi Ngài vẫn tiếp tục đi.
    Hôm ấy, Angulimàla nghĩ rằng: "Ta sống ở đây đã lâu rồi, ta đã giết rất nhiều người, những người chết mà ta đã cắt đầu ngón tay xâu thành vòng đếm được 999 ngón, chỉ cần giết thêm một người nữa, cắt một đầu ngón tay là tròn đủ 1000 ngón, là đủ 1000 người; ta cần phải ra ven rừng, hễ nhìn thấy người nào trước tiên là giết người ấy cho đủ số, đem về trình cho thầy, để đền đáp công ơn nuôi dạy của thầy và thầy sẽ truyền đạt bộ môn tột bậc cuối cùng cho ta. Lúc đó ta sẽ cạo râu, cắt tóc thay đổi y phục, xin bái tạ thầy trở về hầu thăm cha mẹ".
    Nghĩ xong, Angulimàla mang vũ khí đi ra ven rừng. Người trước tiên mà y nhìn thấy từ xa đang đi đến là bà Mantanì, mẹ của y. Bà Mantanì nhận ra người cầm gươm kia là con của mình, bà vui mừng gọi tên con Ahimsaka! Ahimsaka! Con yêu quý! Nghe gọi vậy, Angulimàla nhận biết người đàn bà kia là mẹ của mình, nhưng do tà kiến chấp thủ, với ý nghĩ "người nào trước tiên" là giết liền cho đủ số 1000 người, nên y đành lòng phải giết mẹ thôi!
    Angulimàla chạy ra đón đường thì bỗng nhiên nhìn thấy Ðức Phật, xuất hiện ở khoảng giữa y và mẹ của y, Angulimàla liền thay đổi ý định thay vì giết mẹ, thì giết vị Sa môn đi một mình này. Angulimàla cầm gươm đuổi theo Ðức Phật, Ðức Phật dùng thần thông bước đi chậm rãi khoan thai như bình thường, nhưng đằng sau, Angulimàla đã cố chạy đuổi theo hết sức lực mà vẫn không bắt kịp Ngài.
    Angulimàla thoáng nghĩ: "Thật lạ thường thay! Chưa từng có bao giờ! Trước đây dầu voi, ngựa, nai, xe ngựa chạy ta cũng chạy đuổi theo bắt được dễ dàng. Nhưng bây giờ dầu ta đã chạy hết sức mà vẫn không đuổi kịp vị Sa môn đang bước đi khoan thai chậm rãi kia".
    Angulimàla cầm gươm chạy đuổi theo Ðức Phật suốt ba do tuần, đã đuối sức, dừng chân lại, cất tiếng gọi lớn.
    - Này ông Sa môn kia, Hãy dừng lại! Hãy dừng lại!
    Ðức Phật biết được nhân duyên đã đến, Ngài vừa chậm rãi bước đi, vừa cất giọng phạm âm dạy vọng lại:
    - Này Angulimàla, Như Lai đã dừng lại lâu rồi! Còn chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại!
    Nghe vậy, Angulimàla rất ngạc nhiên suy nghĩ: những Sa môn dòng Sakya này là bậc thường hay nói sự thật, nói như thế nào, làm như thế ấy; làm như thế nào, nói như thế ấy. Nhưng tại sao, ở đây, rõ là ông Sa môn này đang bước đi mà nói là: "Như Lai đã dừng lại lâu rồi!". Còn ta là người dừng chân lại rồi, ông Sa môn lại nói: "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại!", thế là nghĩa làm sao?
    Angulimàla bèn hỏi Ðức Thế Tôn rằng:
    - Này ông Sa môn, rõ ràng ông đang đi mà lại nói: "Như Lai đã dừng lại lâu rồi!". Còn tôi thì đã dừng chân lại rồi nhưng ông lại nói "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại", nghĩa là sao?
    Ðức Phật thuyết giảng dạy Angulimàla rằng:
    - Này Angulimàla, thật vậy, Như Lai đã dừng lại lâu rồi. Nghĩa là Như Lai đã từ bỏ sự sát hại tất cả chúng sinh từ lâu rồi; còn con chưa từ bỏ sự sát hại tất cả chúng sinh. Vì vậy, Như Lai mới gọi "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại".
    Angulimàla vừa nghe xong, tỉnh thức ngay, liền ném các loại vũ khí xuống hố sâu bên sườn núi, vì biết rõ vị Sa môn này chính là Ðức Thế Tôn, bèn bạch rằng:
    - Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ngài là bậc xứng đáng lễ bái cúng dường của chư thiên, Phạm thiên và nhân loại, với tấm lòng đại bi, Ngài ngự đến khu rừng này, để tế độ cho con thoát khỏi si mê lầm lạc, giúp cho con có được trí tuệ sáng suốt, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho con. Kể từ nay về sau, con xin nguyện từ bỏ mọi tội lỗi do thân, khẩu và ý. Mong Ngài minh chứng cho con, thành tâm sám hối tội lỗi này.
    Angulimàla bạch Ðức Thế Tôn xong, rồi đến quỳ đảnh lễ dưới chân Ðức Phật, cầu xin Ngài cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu.
    Với tâm từ bi quảng đại, với Phật nhãn thấy rõ phước duyên của Angulimàla đầy đủ tam y quả bát, các vật dụng của Sa môn, cho nên Ðức Phật đưa bàn tay phải chỉ ngón trỏ vào Angulimàla mà dạy rằng:
    "Ehi bhikkhu......".
    "Con trở thành Tỳ khưu như con đã xin phép. Pháp mà Như Lai đã thuyết dạy hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối, con nên thực hành phạm hạnh cao thượng để giải thoát khổ hoàn toàn".
    Ðức Thế Tôn dạy xong, Angulimàla liền trở thành vị Tỳ khưu với tướng mạo và đầy đủ tám món vật dụng của Sa môn, phát sanh do phước duyên từ kiếp trước. Từ đây, Tỳ khưu Angulimàla thu thúc lục căn thanh tịnh như một vị Ðại đức cao hạ. Tế độ Angulimàla xong, Ðức Thế Tôn dẫn vị tân Tỳ khưu theo sau ngự đi về chùa Jetavana.

    đọc xong câu chuyện này ta thấy nghe kẻ tàn ác nhất vẫn có thể độ. chỉ cần biết quay đầu "khấu hạ đồ đao, lập địa thành phật" dĩ nhiên là ác nghiệp gây tạo vẫn phải gánh nhưng bậc giác ngộ an nhiên chấp nhận quả báo mà không sợ hãi (như ngài Mục Kiền Liên). Do vậy phải hiểu rằng chả phải chư phật gia hộ cho kẻ ác, mà chỉ gia hộ cho kẻ ác biết cải tà quy chánh. Đó vừa là trí tuệ và thể hiện sự từ bi vĩ đại và nhân văn của phật giáo vậy
    Trong cuộc sống hàng ngày ta gặp rất nhiều người sống trong cảnh khổ như ngèo đói, bệnh tật, tai nạn, những sinh vật sắp bị giết bị tai nạn có thể bị chết. Nếu nói theo nhân quả như đã nói theo bài viết trước thì có thể trong số những con người này, chúng sinh này đang trả nghiệp.
    Nếu theo cách hiểu sai lầm là những Bồ Tát này cứu khổ cứu nạn những chúng sinh này là trái với luật nhân quả thì không hiểu hết được lòng từ bi bao la vô lượng chư Phật mà hạnh Bồ Tát chính là thực hành tinh thần đó. Các ngài cứu khổ hôm nay không có nghĩa là ta được miễn trả nghiệp. Cũng giống như nợ vậy ta không trả hôm nay nhưng trong tương lai ta phải trả. Nếu muốn tiêu hết nghiệp ác thì ta phải làm nhiều việc lành để hóa giải nghiệp ác. Để dể hiểu ta đặt giá trị âm (-) cho việc ác và giá trị dương (+) cho việc thiện. Nếu ta làm ác âm 100 (-100) thì ta phải làm viện thiện như bố thí cúng dường phóng sanh… có giá trị dương 100 (+100). Nếu ta không khắc phục được không tiêu hết nghiệp thì cố gắng tu hành khi giác ngộ rồi thì trả nghiệp sẽ không thấy khổ nửa như ngài Mục Kiền Liên.v.v…
    Nhưng ai là người được chư Phật chư Bồ Tát cứu khổ?. Đó là những người biết ăn năn sám hối biết chấm dứt đường ác mở cửa đường lành (cải tà qui chánh)
    Xin khẳng định lại luật nhân quả là luật của tự nhiên của chân lý vũ trụ không phải Phật chế ra. Ngay cả Phật và Bồ Tát cũng phải trả nghiệp. Nhưng các ngài đã giác ngộ rồi nên không thấy khổ khi trả nghiệp
    Kết luận: Bồ Tát cứu khổ người đang trả nghiệp không hề trái luật nhân quả vì không trả ở hiện tại thì phải trả ở tương lai nếu không tu tập và bố thí phóng sanh làm việc thiện để hóa giải

    Nhờ có tinh thần Bồ Tát này mà con người giúp đở nhau khi hoạn nạn, khi nghèo đói thiên tai bệnh tật…Chính những điều này đã làm cho loài người có nhân bản hơn.
    Thử hỏi thấy người ta nghèo đói,thiên tai bệnh tật mà không cứu trợ giúp đở chỉ vì lí do đưa ra là họ đang trả nghiệp thì không hiểu được tinh thần từ bi của Phật rồi
    Chư Phật thấy rất rõ rằng vì vô minh nên chúng sanh không thấy được Phật tánh mà làm nhiều điều tạo nghiệp ác nên phải chịu quả báo nên ngài thương chúng sanh còn hơn cha thương con thì làm gì có chuyện thấy khổ mà không cứu.
    Trên dây là những hiểu biết và suy nghỉ của đệ xin các đạo hửu góp ý bổ xung

  5. #65

    Mặc định

    “Sư Thông Lạc”. Chúng tôi gọi như thế vì muốn tránh đại từ nhân xưng “Hòa Thượng” và “Trưởng Lão”. Lý do vì Sư chưa từng nhận mình là “Hoà Thượng”, mặc dù trên sách của Sư thỉnh thoảng vẫn xuất hiện chức danh này, nhưng theo sự tìm hiểu của chúng tôi, đó là việc làm của người biên tập trước khi sách xuất bản.

    Về danh xưng “Trưởng Lão”, chính Sư đã tự nhận, nhưng vì Phật tử Việt Nam (trừ số đệ tử của Tu viện Chân Như) không thừa nhận danh xưng này. Chính vì thế, chúng tôi không muốn gọi là “Hòa Thượng” hay “Trưởng Lão” mà đơn giản chỉ gọi là “Sư Thông Lạc”
    Nếu mình nói rằng Thầy Thông Lạc đã được cấp giấy chứng nhận là Hòa Thượng các bạn có tin không.

    Tại sao trong sách của Thầy Thông Lạc ghi là Trưởng Lão Thích Thông Lạc. Theo mình biết thì có bài kệ như sau:

    “Nếu rõ pháp như thật
    Vô hại đối quần sanh
    Bỏ các hạnh uế ác
    Đây gọi là Trưởng Lão.”
    ��
    “Ta gọi người Trưởng Lão
    Chưa hẳn đã xuất gia
    Tu gốc nghiệp lành này
    Phân biệt ở chánh hạnh.”
    ��
    “Nếu có người tuổi nhỏ
    Các căn không thiếu sót
    Phân biệt chánh pháp lành
    Đây gọi là Trưởng Lão.”

    Qua bài kệ này chúng ta thấy dưới cái nhìn của đức Phật chỉ có 2 hạng người. Người còn lậu hoặc và người vô lậu. Người vô lậu thì gọi là Trưởng Lão. Dù là cư sĩ hay tu sĩ, Đại Đức, Thương Tọa hay Hòa Thượng sống vẫn còn lậu hoặc thì vẫn chưa được gọi là Trưởng Lão, chỉ có bậc vô lậu thì đước Phật gọi là Trưởng Lão dù đó là em bé, trẻ em, nam hay nữ, cư sĩ hay tu sĩ.

    Thầy Thông Lạc là người Việt Nam cho nên Thầy không bao giờ dùng danh từ Trung Quốc là 'Sư'. Thầy chỉ coi mình là một vị thầy giáo dạy giáo pháp của đức Phật cho nên tất cả tu sinh gọi thầy là Thầy Thông Lạc.
    Last edited by phimanh; 13-01-2011 at 11:40 PM.

  6. #66

    Mặc định

    Trích phi Mạnh :
    "Thầy Thông Lạc là người Việt Nam cho nên Thầy không bao giờ dùng danh từ Trung Quốc là 'Sư'. Thầy chỉ coi mình là một vị thầy giáo dạy giáo pháp của đức Phật cho nên tất cả tu sinh gọi thầy là Thầy Thông Lạc."

    - Thầy cho mình là người Vn kô bao giờ dùng tiếng Trung Quốc vậy xin hỏi Phi Mạnh thầy có tâm phân biệt như vậy sao thầy lại giãng đạo và tu tập pháp môn của Đức Phật là người Ấn Độ ?

  7. #67
    Tứ Đẳng Avatar của gioidinhtue
    Gia nhập
    Jan 2010
    Nơi cư ngụ
    Quảng Đà
    Bài gởi
    4,281

    Mặc định

    "CÃI LÀM CHI CHO PHÍ HƠI TỔN SỨC,
    DÀNH THỜI GIAN LÀM VIỆC HỮU ÍCH HƠN" !!! :coffee::coffee::coffee:
    "Niệm lên danh hiệu Phật,
    Muôn đức đủ đầy trong.
    Chuyên trì danh hiệu ấy,
    Muôn hạnh đủ không sai.
    "

    :praying:2Nam mô A Di Đà Phật.:praying:2
    ---o0o---

    Thường Như - Thiện Tường - Mãn Ngọc - Trực Minh.


  8. #68

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi DaiBatNha Xem Bài Gởi
    những pháp đoạn diệt phiền não đưa ta đến hạnh phúc không bị trói buộc đó là chánh pháp. Tín tâm là lòng tin chân thật vào chân lý giác ngộ. Phước báu là kết quả thành tựu của việc làm đem lại lợi ích cho mọi người. Quả vị vô thượng bồ đề mọc trong tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả. Kiến thức tôi chỉ có thế, nếu bạn luc vân chưa thấy thỏa mãn có thể hỏi các vị cao nhân khác
    Đa tạ huynh DaiBatNha, huynh diễn nghĩa đã quá rõ ràng rồi. Chắc huyhn cũng đã biết đoạn kinh này.

    trích HỎI MỘT TRĂM LẺ TÁM CÂU.
    Khi ấy, đại Bồ-tát Đại Huệ nhân lời Phật đã nói, đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính dùng kệ hỏi rằng:
    Thế nào tịnh niệm kia? Thế nào niệm tăng trưởng? Thế nào thấy si hoặc, Thế nào hoặc tăng trưởng? Thế nào hóa tướng cõi và các chúng ngoại đạo? Cớ sao không thọ thứ, Vì sao gọi vô thọ?

    "Niệm là vọng giác. Si hoặc là bất giác. Chân như không tánh bất giác vọng động, kiến hoặc vừa sanh liền có vọng giác. Muốn sạch vọng giác thì phải tìm tột chỗ khởi vọng giác. Muốn ngộ bất giác thì cần xét cùng chỗ sanh bất giác. Chừng ấy mới biết Chân như không tánh là mật chỉ của chư Phật, nên phải hỏi trước. Cõi tức là cõi nước. Hóa tướng là tất cả tướng biến hóa trong lục đạo. Trước nói ngoại đạo, sau đề ra Vô thọ, đó là muốn biện sự sai biệt của tà chánh. Vô thọ là Mâu-ni tịch tĩnh, chẳng thọ một pháp, lìa các tướng trạng. Thứ là thứ lớp các địa. Kinh Kim Cang nói “do pháp vô vi mà có sai biệt”."

    Cớ sao gọi Phật tử? Giải thoát đến chỗ nào, Ai phược ai giải thoát?
    Những gì cảnh giới thiền? Tại sao có ba thừa? Cúi mong vì giải nói.
    Duyên khởi chỗ nào sanh? Thế nào tác, sở tác? Thế nào đồng dị thuyết? Thế nào là tăng trưởng? Thế nào vô sắc định và cùng diệt chánh thọ. Thế nào là tưởng diệt? Vì sao từ định giác,Thế nào tạo tác sanh, Tiến đi và giữ thân? Thế nào hiện phân biệt? Thế nào sanh các địa?

    Câu “giải thoát đến chỗ nào” là muốn hiển bày Mâu-ni tịch tĩnh, không có phược và thoát; nên nói tiếp “ai phược ai giải”. Nói không có giải có phược là, bởi mê ngộ vọng thấy mà thôi. Cảnh giới thiền là chỉ các Thiền định của phàm Thánh. Duyên khởi là pháp do nhân duyên sanh ra. Tác, sở tác là nghiệp quả năng tác và sở tác. Đồng dị thuyết là chỉ ngoại đạo tà thuyết. Tăng trưởng là nhân gì tăng trưởng nhân quả trong tam giới? Vô sắc định là Tứ không. Diệt chánh thọ là Diệt tận định. Tưởng diệt là Vô tưởng định. Từ định giác là hỏi Như Lai vì sao từ định mà giác (ra) khởi các tác dụng, thị hiện thân có đi có đứng. Hiện phân biệt là, hiện nói các thứ pháp sai biệt. Sanh các địa là, kiến lập hành tướng các địa.

    Thế nào là đoạn kiến. Và thường kiến chẳng sanh? Tại sao Phật, ngoại đạo. Tướng đó chẳng trái nhau? Thế nào đời sau này. Có các thứ bộ khác? Thế nào không, tại sao? Thế nào hoại sát-na?

    Đoạn và thường đều là tà kiến của ngoại đạo. Kiến chẳng sanh là chẳng sanh hai kiến chấp này, tức là chánh pháp Như Lai. Phật cùng ngoại đạo tướng chẳng trái nhau là, gồm vào một tâm bình đẳng mà nói vậy. Bộ khác là, sau khi Phật diệt độ đệ tử kiết tập kinh bộ mỗi phần có khác. Nói một tâm bình đẳng, Phật cùng ngoại đạo không khác, mà đệ tử trong pháp của Phật trở lại thấy có khác, là sao? Không là các pháp tánh không. Hiện thấy các pháp mà nói không đó là sao? Sát-na là niệm rất vi tế. Niệm niệm chẳng dừng, sát-na chẳng trụ, không phải chỗ biết của người vô trí.

    Chúc gia đình an lạc, tinh tiến.
    Nhất kích xuyên tâm, đích thị là Phật.

  9. #69

    Mặc định

    từ xưa tới nay danh xưng trưởng lão chỉ dành cho các vị thánh đệ tử của đức phật như trưởng lão ca diếp, trưởng lão xá lợi phất, trưởng lão mục kiền liên... đó là các vị đã chứng quản vị a la hán là những vị đã giác ngộ và hóa độ được rất nhiều người và những người được các ngài giác ngộ đều chứng thánh quả a la hán. Ngày nay ngay cả các vị trượng thượng trong phật giáo như hòa thượng Thanh Từ, Hòa Thượng Trí Quảng, ngay cả đức pháp chủ giáo hội phật giáo việt nam hòa thượng Thích Phổ Tuệ còn chưa tự xưng mình là trường lão. các vị đạo hành uyên thâm đã từng dịch rất nhiều bộ kinh từ đại tạng pali sang tiếng việt, đã từng là giáo sư tại học viện phật giáo việt nam, đã có rất nhiều đóng góp to lớn cho nền văn hóa phật giáo nước nhà còn chưa tự xưng là đã chứng quả A la hán, hay là trưởng lão. Thử hỏi một vị tự xưng là trưởng lão, là a la hán có Ngã mạn chăng. Vị này thuyết pháp báng bổ đại thừa, cho rẳng pháp môn tịnh độ là hư dối, rằng không có phật di đà, không có bồ tát quán thế âm. Thật sự kinh hoàng. Bao nhiêu lợi lạc hoằng pháp của chư vị tổ sư từ mấy ngàn năm qua liệu có bị hủy hoại không khi những người này đã bị ác ma lôi kéo đưa chúng sanh vào cảnh "vạn kiếp bất phục" này.

  10. #70

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phimanh Xem Bài Gởi
    Nếu mình nói rằng Thầy Thông Lạc đã được cấp giấy chứng nhận là Hòa Thượng các bạn có tin không.

    Tại sao trong sách của Thầy Thông Lạc ghi là Trưởng Lão Thích Thông Lạc. Theo mình biết thì có bài kệ như sau:

    “Nếu rõ pháp như thật
    Vô hại đối quần sanh
    Bỏ các hạnh uế ác
    Đây gọi là Trưởng Lão.”
    ��
    “Ta gọi người Trưởng Lão
    Chưa hẳn đã xuất gia
    Tu gốc nghiệp lành này
    Phân biệt ở chánh hạnh.”
    ��
    “Nếu có người tuổi nhỏ
    Các căn không thiếu sót
    Phân biệt chánh pháp lành
    Đây gọi là Trưởng Lão.”

    Qua bài kệ này chúng ta thấy dưới cái nhìn của đức Phật chỉ có 2 hạng người. Người còn lậu hoặc và người vô lậu. Người vô lậu thì gọi là Trưởng Lão. Dù là cư sĩ hay tu sĩ, Đại Đức, Thương Tọa hay Hòa Thượng sống vẫn còn lậu hoặc thì vẫn chưa được gọi là Trưởng Lão, chỉ có bậc vô lậu thì đước Phật gọi là Trưởng Lão dù đó là em bé, trẻ em, nam hay nữ, cư sĩ hay tu sĩ.

    Thầy Thông Lạc là người Việt Nam cho nên Thầy không bao giờ dùng danh từ Trung Quốc là 'Sư'. Thầy chỉ coi mình là một vị thầy giáo dạy giáo pháp của đức Phật cho nên tất cả tu sinh gọi thầy là Thầy Thông Lạc.
    Thiết nghĩ chúng ta không nên chấp danh từ, hình tướng nữa chúng ta cũng chỉ là phàm phu thôi. Việc Thầy Thích Thông Lạc có chứng đắc hay không chỉ có Ngài mới biết rõ điều đó. Bổn phận của người học Phật theo lời dạy của Phật Thích Ca đừng vội tin điều gì mà hãy dùng trí tuệ soi xét rồi mới tin.

  11. #71

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi tam_ha Xem Bài Gởi
    Trong toán học và nói tổng quát là trong khoa học ta muốn chứng minh một công thức hoặc định lí, một lý thuyết là sai. Ta chỉ cần chứng minh là có một trường hợp không đúng hoặc những điều hoặc những hệ quả mà công thức đó hoặc lý thuyết đó mâu thuẫn hoặc không hợp logic với những điều đã được công nhận thì ta có quyền khai tử lý thuyết đó, định lý đó. Trong Phật học cũng như vậy những điều gì các tổ các thầy thuyết giảng mà không phù hợp với lý nhân quả, tứ diệu đế bát chánh đạo thì coi như những điều đó vô giá trị ngược lại nếu phù hợp và hợp lí thì chúng ta nên phổ biến để mọi người biết mà tu tập mặc dù không phải Phật thuyết cũng như những chiếc lá trong rừng mà Phật chưa nói ra vậy.
    Trong bài viết trước đệ tử chứng minh về sự hiện hửu của Bồ Tát. Bây giờ xin bổ xung thêm: Phật đã chỉ dạy cho chúng sinh có nhiều trình độ và căn cơ khác nhau nên đã có nhiều pháp môn ra đời. Cũng vậy muốn chửa bệnh thì tùy theo bệnh mà uống thuốc. nên ai có điều kiện thì xuất gia, có người tu theo Phật Giáo nguyên Thủy, có người theo Đại Thừa, có người tại gia thì thực hành Bồ Tát đạo. Nhờ có Bồ tát cứu khổ nên trên đời này bớt khổ hơn, người nghèo được giúp đở kẻ bệnh tật được chữa bệnh. Đức Phật đã từng dạy khi nghèo khổ , lo kiếm ăn không đủ thì không có thì giờ để tìm hiểu Phật Pháp thì rất khó tu, hoặc bệnh tật thì tinh thần đâu mà tu học nên Bồ Tát là thể hiện tinh thần từ bi giúp họ từ đó họ có điều kiện tu tập để thành Phật
    Ngày nay trên thế giới tinh thần Bồ Tát đã trở thành đạo đức của nhân loại
    Nhân loại sẽ ra sao khi người ta bị tai nạn mà không được cứu giúp bị chết đói bị bảo lụt mà không được cứu trợ?
    Last edited by tam_ha; 14-01-2011 at 10:52 AM. Lý do: Thêm nội dung

  12. #72

    Mặc định

    Trích phimanh:..."Thầy Thông Lạc là người Việt Nam cho nên Thầy không bao giờ dùng danh từ Trung Quốc là 'Sư'. Thầy chỉ coi mình là một vị thầy giáo dạy giáo pháp của đức Phật cho nên tất cả tu sinh gọi thầy là Thầy Thông Lạc."...

    Buồn cười nhỉ ! Vậy chữ " Trưởng Lão " là từ thuần Việt Nam à ? Phát biểu như vậy dốt hay không dốt thì tự mà tìm hiểu.

  13. #73

    Mặc định

    Các vị chư huynh đệ cho đệ tử hỏi có phải đạo càng tăng thì chướng càng trưởng tương đương không ạ?
    Dùng diệu trí quán các tịnh pháp, biết các tịnh pháp bản lai chẳng khi nào tương ưng với nhiễm pháp và luôn luôn xa lìa cả hai chướng do ngã và ngã sở gây nên. Quán ấy gọi là thanh tịnh quán.

  14. #74

    Mặc định

    Huynh hỏi đạo nào, chướng nào?

    Con cá nó xem nước sâu là đạo, bờ cạn là chướng.
    Con gà thì ngược lại bờ cạn là đạo, nước sâu là chướng

    Cho nên đạo và chướng cũng còn tùy quan điểm hi hi

  15. #75

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi compassion Xem Bài Gởi
    Huynh hỏi đạo nào, chướng nào?

    Con cá nó xem nước sâu là đạo, bờ cạn là chướng.
    Con gà thì ngược lại bờ cạn là đạo, nước sâu là chướng

    Cho nên đạo và chướng cũng còn tùy quan điểm hi hi
    Chí lý, tiểu đệ hỏi về người tư theo đạo Phật.
    Dùng diệu trí quán các tịnh pháp, biết các tịnh pháp bản lai chẳng khi nào tương ưng với nhiễm pháp và luôn luôn xa lìa cả hai chướng do ngã và ngã sở gây nên. Quán ấy gọi là thanh tịnh quán.

  16. #76
    Nhị Đẳng Avatar của vietnamese
    Gia nhập
    Nov 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    2,258

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi compassion Xem Bài Gởi
    Huynh hỏi đạo nào, chướng nào?

    Con cá nó xem nước sâu là đạo, bờ cạn là chướng.
    Con gà thì ngược lại bờ cạn là đạo, nước sâu là chướng

    Cho nên đạo và chướng cũng còn tùy quan điểm hi hi
    Con cá sấu thì bờ và nước chẳng có cái nào là chướng!
    Last edited by vietnamese; 15-01-2011 at 08:49 PM.
    Mắt trông thấy sắc rồi thôi
    Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
    Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
    Ung dung ta bước ra vòng trần ai.

  17. #77
    Tứ Đẳng Avatar của gioidinhtue
    Gia nhập
    Jan 2010
    Nơi cư ngụ
    Quảng Đà
    Bài gởi
    4,281

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi vietnamese Xem Bài Gởi
    Con cá xấu thì bờ và nước chẳng có cái nào là chướng!
    "Con cá xấu" "con cá không đẹp". Sai chính tả bác ơi. "Cá Sấu" mới đúng. Viết sai người ta hiểu nhầm à.
    "Niệm lên danh hiệu Phật,
    Muôn đức đủ đầy trong.
    Chuyên trì danh hiệu ấy,
    Muôn hạnh đủ không sai.
    "

    :praying:2Nam mô A Di Đà Phật.:praying:2
    ---o0o---

    Thường Như - Thiện Tường - Mãn Ngọc - Trực Minh.


  18. #78
    Nhị Đẳng Avatar của vietnamese
    Gia nhập
    Nov 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    2,258

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi gioidinhtue Xem Bài Gởi
    "Con cá xấu" "con cá không đẹp". Sai chính tả bác ơi. "Cá Sấu" mới đúng. Viết sai người ta hiểu nhầm à.
    Người ta hiểu nhầm vì người ta là con cá, con gà như trên. chứ như con cá sấu thì đâu có tâm phân biệt, nước thì ta bơi lội, bờ thì ta nghỉ ngơi.
    Cũng thế, tất cả là giáo pháp của chư Như Lai, ta sanh phân biệt nên mới có Tiểu Thừa và Đại Thừa đó thôi.
    Cái này gọi là quân mình đánh thắng quân ta. Buồn!
    Mắt trông thấy sắc rồi thôi
    Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
    Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
    Ung dung ta bước ra vòng trần ai.

  19. #79
    Tứ Đẳng Avatar của gioidinhtue
    Gia nhập
    Jan 2010
    Nơi cư ngụ
    Quảng Đà
    Bài gởi
    4,281

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi vietnamese Xem Bài Gởi
    Con cá sấu thì bờ và nước chẳng có cái nào là chướng!
    Trích dẫn Nguyên văn bởi vietnamese Xem Bài Gởi

    Cũng thế, tất cả là giáo pháp của chư Như Lai, ta sanh phân biệt nên mới có Tiểu Thừa và Đại Thừa đó thôi.
    Cái này gọi là quân mình đánh thắng quân ta. Buồn!
    Hihi. Cảm ơn bác đã "sửa sai". Vẫn biết đó cũng chỉ là phương tiện, là "ngón tay chỉ Mặt trăng", nhưng phải "phương tiện" cho đúng, cho phù hợp, tùy vào những hoàn cảnh khác nhau bác à !!! "Buồn" ???!!! " Gặp chuyện buồn cứ cười hehe là xong chuyện". Câu này phải của bác không nhẩy ???
    "Niệm lên danh hiệu Phật,
    Muôn đức đủ đầy trong.
    Chuyên trì danh hiệu ấy,
    Muôn hạnh đủ không sai.
    "

    :praying:2Nam mô A Di Đà Phật.:praying:2
    ---o0o---

    Thường Như - Thiện Tường - Mãn Ngọc - Trực Minh.


  20. #80

    Mặc định

    Vạn pháp đều từ Phật Tổ mà ra, vạn kinh cũng từ lời Phật mà thành. Tại sao cứ phải chấp vào những điều chưa rõ. Theo mình điều gì chưa thông thì cứ Phật tổ mà hỏi, ngồi bàn tán cãi nhau làm gì.
    Dùng diệu trí quán các tịnh pháp, biết các tịnh pháp bản lai chẳng khi nào tương ưng với nhiễm pháp và luôn luôn xa lìa cả hai chướng do ngã và ngã sở gây nên. Quán ấy gọi là thanh tịnh quán.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Những mẫu truyện linh ứng về Đức Phật Dược Sư
    By Chieuthanhnghia in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 15
    Bài mới gởi: 04-06-2019, 10:35 PM
  2. Xin các bác tu Mật chỉ giáo?
    By bienvasong in forum Mật Tông
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 23-12-2010, 11:06 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •