SỰ TU TẬP CỦA ÐẠO PHẬT HIỆN GIỜ


Kính thưa quí vị Phật tử, con đường tu theo Ðạo Phật hiện giờ có muôn vạn nẽo, chọn sai pháp môn tu hành thì uổng phí một đời không có kết quả. Theo sử 33 vị Tổ Sư Thiền Ấn Ðộ và Trung Hoa thì con đường thiền này do từ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy. Qua câu chuyện niêm hoa trên núi Linh Thứu, Ngài Ca Diếp mỉm cười thì chắc quí vị ai cũng biết rõ, tôi chẳng cần thuật lại làm gì cho mất thì giờ. Ca Diếp tổ thứ nhất bên Ấn Ðộ truyền xuống đến tổ thứ 28 là Bồ Ðề Ðạt Ma. Bồ Ðề Ðạt Ma sang Trung Hoa và làm tổ thứ nhất tại đất
nước này. Người Trung Hoa đắc thiền này đầu tiên là Thần Quang, sau này gọi là nhị tổ Huệ
Khả.

Bồ Ðề Ðạt Ma truyền đạo thiền này cho Huệ Khả qua câu chuyện an tâm. Tôi xin nhắc lại câu chuyện để quí vị thưởng thức.

Thần Quang đến tìm Bồ Ðề Ðạt Ma để mong cầu Pháp tu hành. Lúc bấy giờ Bồ Ðề Ðạt Ma đang ngồi nhìn vách đá, nên Thần Quang đứng đợi chẳng dám động. Mãi đến hôm sau tuyết phủ lấp gối Bồ Ðề Ðạt Ma mới quay ra hỏi: "Ngươi đến cầu gì mà phải khổ sở vất vả quá
vậy?

Thần Quang đáp:
- Con đến cầu pháp.

- Ta có pháp gì để ngươi cầu?

- Bạch Hòa Thượng tâm con bất an.

- Ngươi lấy tâm ra ta an cho.

Thần Quang đứng, nhìn quanh quất chẳng tìm thấy tâm đâu, liền bạch:
- Bạch Hòa Thượng, tâm ở đâu làm sao con lấy được.

- Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó.

Thần Quang bèn quì xuống đãnh lễ tổ nhận pháp an tâm. Ngay câu nói mà liền hiểu thì gọi là đốn ngộ. Như vậy Thần Quang đã ngộ pháp an tâm tức là ngộ Phật tánh còn gọi là kiến tánh.

Qua câu chuyện này quí vị có hiểu pháp an tâm không? Ðể tôi so sánh chỗ pháp an tâm và kinh Nguyên Thủy thì quí vị thấy rõ ràng.

Theo kinh Tứ Niệm Xứ, Phật đã dạy: vô thường, khổ, không, vô ngã. Chỗ pháp an tâm của Bồ Ðề Ðạt Ma tương ưng chỗ Phật dạy tâm vốn không. Khi Thần Quang nhìn lại để tìm kiếm tâm thì tâm không thấy đâu, nhưng khi khởi niệm thì liền có tâm, không niệm thì không tâm. Vậy khi không niệm tâm quí vị có an không? Vì không niệm thì còn chỗ nào gọi là phiền não, bồ đề, thì còn chỗ nào gọi là tham, sân, si, ái, dục, thì còn chỗ nào gọi là sanh tử. Cho nên Bồ Ðề Ðạt Ma gọi đó là an tâm.

Vậy pháp môn an tâm của Bồ Ðề Ðạt Ma có giống pháp môn chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác, bản lại diện mục hiện tiền của Lục tổ Huệ Năng không?

Kính thưa quí vị Phật tử, khi tâm chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, thì tâm ở trong trạng thái không niệm. Tâm ở trong trạng thái không niệm là tâm không. Tâm không là tâm không phiền não. Không phiền não là tâm an ổn. Tâm an ổn là an tâm. Như vậy bây giờ quí vị đã hiểu rõ hai pháp giống nhau không khác nhau phải không?

Tôi xin kể lại câu chuyện "Bản lai diện mục" để quí vị thưởng thức.

Khi Huệ Minh đuổi theo Huệ Năng để dành y bát lại. Lục tổ Huệ Năng biết chạy không thoát khỏi, nên bỏ y bát bên vệ đường đứng đợi. Khi Huệ Minh đuổi kịp, Huệ Năng bình tĩnh bảo:
- Người đến đây cầu pháp hay cầu y bát? Nếu cầu y bát, thì y bát ở đây ngươi cứ lấy đi đi. Huệ Minh cúi đầu đảnh lễ tác bạch:
- Con đến cầu pháp chẳng cầu y.
- Chẳng nghĩ thiện nghĩ ác cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Huệ Minh? Huệ Minh đảnh lễ Tổ nhận pháp bản lai diện mục rồi trở về.
Kính thưa quí vị Phật tử, bây giờ chúng ta đem hai pháp này so sánh với kinh Ðại Thừa, vì lúc nãy chúng ta đã đem so sánh với kinh Nguyên Thủy rồi.

Kinh Kim Cang Bát Nhã có câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" do câu kinh này mà Lục tổ Huệ năng đã kiến tánh. Nghĩa của câu kinh này dạy đừng nên trụ tâm chỗ nào cả thì tâm kia hiện tiền.

Xin thưa với quí vị Phật tử, tâm của chúng ta thường trụ ở 3 chỗ: niệm thiện, niệm ác và không niệm. Kinh này dạy chúng ta ở chỗ không, không trụ tức là không niệm, không niệm tức là tâm vốn không, tâm vốn không tức là an tâm, an tâm tức là chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, chẳng nghĩ thiện nghĩ ác tức là bản lai diện mục, bản lai diện mục tức là Phật tánh. Chỗ vô trụ này còn nhiều tên khác nhau mà chúng ta từng gặp trong các kinh sách Ðại Thừa và kinh sách Thiền Ðông Ðộ. Bây giờ quí vị đã hiểu kinh và lời của Tổ đều khế hợp nhau, nên người đời sau gọi là Thiền Giáo đồng hành.

Thiền Ðông Ðộ chia làm 3 giai đoạn, giai đoạn đầu thiền, giai đoại giữa thiền, giai đoạn cuối thiền.

1. Từ pháp môn An tâm đến pháp môn Bản lai diện mục là giai đoạn đầu của Thiền Ðông
Ðộ.

2. Từ số đệ tử của Lục tổ Huệ Năng đến Lâm Tế là giai đoạn giữa thiền.

3. Từ số đệ tử của Lâm Tế đến Hư Vân Hòa Thượng và La Hỏa Thiền sư là giai đoạn cuối thiền.

Giai đoạn đầu thiền sư khai ngộ cho đệ tử dễ hiểu, dễ ngộ, cho nên lúc bấy giờ người theo tu rất đông, nhất là thời kỳ Lục tổ Huệ Năng, người nghe qua liền ngộ, chẳng cần phải moi đầu nặn óc tìm kiếm. Chúng ta phải nói thiền Ðông Ðộ cực thịnh nhất ở giai đoạn này như hoa thiền đến thời kỳ rộ nở. Khi nhận ra pháp này Thiền Ðông Ðộ gọi là ngộ, ngộ xong rồi phải bảo nhậm còn gọi là tiệm tu, giữ tâm hay chúng sanh độ Phật. Vì vậy mà có từ ngữ đốn ngộ rồi tiệm tu. Tiệm tu có nghĩa là tu lần lần. Mục đích của thiền này là nhắm vào Phật
tánh. Vì có ngộ được Phật tánh mới thành Phật nên gọi là kiến tánh thành Phật. Ngộ Phật tánh tức là nhận ra pháp môn tu hành, nhận ra pháp môn tu hành tức là nhận ra pháp môn chẳng nghĩ thiện nghĩ ác.

Chỗ chẳng nghĩ thiện nghĩ ác là chỗ chẳng có pháp môn, nên thiền này còn gọi là chẳng có pháp môn nào, chỗ chẳng có pháp môn nào biết lấy cái gì tu hành. Do đó kinh Kim Cang dạy cách tu Bồ Tát độ chúng sanh mà không thấy mình độ, độ hết chúng sanh thì thành Phật. Bát Nhã Tâm kinh dạy: Ða thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không; Kinh Lăng Nghiêm
dạy: Phản văn, văn tự tánh. Kinh Viên Giác dạy: Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác. Các tổ sư thiền dạy: chăn trâu, gọi Ông chủ, biết vọng liền buông. Tham thọai đầu, tham công án, khởi nghi tình, v.v... Thầy chúng tôi giải thích cách tu của kinh Kim Cang dừng hết vọng tưởng là thành Phật. Thiền sư Huệ Hải cũng dạy như vậy. Thiền sư Dược Sơn dạy: ngàn Thánh cũng chẳng làm nghĩa là cái biết không cho mất, nhờ cái biết trong cái không niệm thiện niệm ác lâu ngày thuần thục nên gọi là da mỏng da dày đều rớt sạch. Giữ tâm chẳng niệm thiện niệm ác còn gọi là chăn trâu. Vọng tưởng hết gọi là hết chăn trâu. Hết chăn trâu là thành tựu cũng như kinh Kim Cang dạy độ hết chúng sanh là thành Phật.

Kính thưa quí vị việc làm này không phải dễ cho nên tổ sư Hoàng Bá đã dạy:

Thoát khỏi trần lao việc chẳng thường.

Hoặc:
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt
Hoa Mai đâu há dễ ngửi mùi.

Cho nên chăn trâu và độ chúng sanh mãi không hết. Thiền sư mới nghĩ ra cách biết vọng liền buông. Thầy chúng tôi triển khai diệu pháp này để hồi phục Thiền Ðông Ðộ và chấn hưng Thiền Tông Việt Nam. Trong thời gian tôi theo học tại Thiền viện Chơn Không, Thầy
chúng tôi dùng phép an tâm khai ngộ chúng tôi và dạy chúng tôi cách tu biết vọng liền buông.

Kính thưa quí vị, kinh Ðaị thừa và thiền Ðông độ dạy cách tu quá đơn giản. Nhưng kinh Ðaị Thừa và thiền Ðông Ðộ không ngờ khi tâm hết vọng tưởng thì tâm không bao giờ chịu đứng yên một chỗ chẳng niệm thiện niệm ác mà lại lặng xuống rơi vào trạng thái mất tiêu, nên trong Thập mục ngưu đồ, tranh thứ 8 người trâu đều mất, giống như ở trạng thái hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không đều có trạng thái người trâu đều mất tiêu.

Ở chỗ trạng thái hôn trầm, thuỳ miên thì các thiền sư điều biết mặt nó do đó các Ngài lại một phen khổ sở không biết làm cách nào phá được nó. Qua những trang tự thuật của các Ngài tu hành, tôi biết các Ngài không có cách phá. Còn ở trạng thái vô ký, ngoan không thì trong phần tự thuật các Ngài không hề nói đến. Qua kinh nghiệm bản thân của tôi thì các pháp tu từ pháp độ chúng sanh, chăn trâu, gọi ông chủ và biết vọng liền buông đều không đủ lực dừng niệm thiện niệm ác thì làm sao phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, nên các Ngài phải lấy dùi đóng vào chân, trèo lên cây ngồi thiền, lấy gốc cây tròn làm gối kê đầu. Những việc làm này chỉ là một trò đùa với hôn trầm, thùy miên; không thể hàng phục nó được.

Kính thưa quí vị, tôi xin lưu ý quí vị ở chỗ này: Khi chăn trâu, độ chúng sanh, biết vọng liền buông, các pháp này chỉ dừng được niệm thiện niệm ác thô, còn niệm thiện niệm ác vi tế thì không thể diệt được nó. Nên tôi bảo rằng các pháp môn này không đủ lực. Vì thế quí vị tu hành suốt một thời gian dài 24 năm nay mà chưa hết niệm vi tế. Khi gặp nghịch cảnh quí vị nén được tâm nhưng không nén được loạn tưởng. Do đó mà tôi bảo rằng quí vị không phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký và loạn tưởng. Ðể phá trạng thái này, các thiền sư dùng pháp tác ý thường gọi ông chủ. Gọi "Ông Chủ" là pháp môn tác ý. Pháp môn tác ý có nhiều pháp như: gọi ông chủ, sổ tức, niệm Phật, đề khởi thoại đầu, đề khởi nghi tình, v.v ...

Kính thưa quí vị Phật tử, muốn chiến thắng được loạn tưởng, hôn trầm, thùy miên thì chỉ có giới luật của Phật mới hàng phục được nó. Do vậy Phật mới dạy giới sanh định. Không thể giữ tâm, ức chế tâm mà có được định. Người ta đi tìm định ngoài giới luật thì không bao giờ có định chân chính, chỉ có những định tưởng mà thôi. Ðịnh tiếng động 500 cỗ xe bò đi qua không nghe của ngoại đạo, định của ông Nhan Hồi tọa vong cu thân, định của thiền sư Dược Sơn như trồng hoa trên đá, định của tổ Hám Sơn rung chuông gọi dậy, định của một vị thiền sư nhập 1000 năm dùng đồng loa đánh xuất định, định Không Vô Biên xứ tưởng, định Thức Vô Biên xứ tưởng, định Vô Sở Hữu xứ tưởng, định Phi Tưởng Phi Phi xứ tưởng đều không giải quyết được sanh, lão, bịnh, tử và cũng không chấm dứt tái sanh luân hồi, nên Ðức Phật đã ném bỏ như ném chiếc giày rách; chỉ có người sau không dám bỏ nên đem xếp loại trong các kinh điển của Phật.

Những lời này tôi đã nói thẳng. quí vị đừng tin tôi mà cứ về suy ngẫm kỹ. Sau này khi có thì giờ tôi sẽ đem so sánh Bốn Thiền của Phật với thiền của kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ. Nếu quí vị muốn tu theo Phật mà quí vị sợ tu Giới Luật thì quí vị tu cái gì? Tôi xin nêu lên một ví dụ để quí vị rõ. Bây giờ quí vị hãy nhìn cây bồ đề trước cửa chùa cành lá sum suê, tươi tốt vì hằng ngày Chư Tăng bón phân tưới nước rất kỹ lúc nào cũng không cho cỏ mọc ở gốc cây. Bắt đầu quí vị lặt lá bỏ, khi hái sạch lá quí vị tưởng không còn lá nữa, nào ngờ
trong một thời gian ngắn lá bắt đầu đâm ra rất mạnh. Như vậy biết bao giờ quí vị hái cho hết lá, bởi lẻ lá từ nơi cây mà ra.

Tôi tu Giới Luật đâu cần dừng vọng, giữ tâm, chỉ giữ gìn Giới Luật đừng cho sai phạm dù một lỗi nhỏ nhặt nào. Giữ gìn Giới Luật đừng cho sai phạm tức là tôi đã xa lià dục lạc thế gian, cũng giống như cây kia không bón phân tưới nước nữa thì cây phải cằn cỗi trơ cành trụi lá. Còn quí vị cố dừng tâm, giữ tâm không cho niệm thiện niệm ác khởi mà cứ luôn chạy theo
dục lạc thế gian thì cũng giống như cây kia cứ bón phân tưới nước đầy đủ thì làm sao quí vị hết vọng tưởng hết hôn trầm được. Cho nên người ta thường bảo ham ăn ham ngủ nghĩa là ăn nhiều phải ngủ nhiều. Qua kinh nghiệm bản thân của chúng tôi ăn ngày một bữa, ăn vừa đủ no không ăn ráng ăn thêm, vì không ăn ráng ăn thêm thì dù không chủ ý dừng hôn trâm thì hôn trầm tự nó cũng phải dừng. Ở đây chỉ ăn một bữa không ăn uống lặt vặt, vậy mà có người sợ mất sức khỏe nên rán ăn hơi nhiều hơn một chút liền bị hôn trầm, thùy miên tấn công huống là quí vị ăn ngày hai ba bữa còn ăn uống thêm lặt vặt thì thử hỏi làm sao quí vị phá hôn trầm, thùy miên, vô ký được! Nên Ðức Phật đã dạy: ăn ít, ăn vừa đủ, không nên ăn ráng.

Kính thưa quí vị nếu quí vị tu hành mà không dừng được vọng tưởng cũng không phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký thì lâu ngày quí vị rơi vào các định vong thân như định của Ngài Nhan Hồi, định trong Thập mục ngưu đồ tranh số 8 người trâu đều quên.

Kinh Ðại Thừa không có cách thức xuất nhập định, nên chỉ dừng hết vọng tưởng là thành Phật. Ở trạng thái này kinh Ðại Thừa gọi là thường định, đại định, định không xuất không nhập. Thiền Ðông Ðộ cũng vậy không có định xuất nhập. Còn Thập Mục Ngưu Ðồ thì có nhập vào định vong thân người trâu đều quên. Theo kinh nghiệm bản thân của tôi, nhìn cách thức buông vọng dừng vọng thì biết cách thức nhập định của họ.

Bây giờ tôi so sánh hai thứ thiền định của Phật và thiền định củaTổ để quí vị suy ngẫm. Theo thiền của Ðạo Phật, thì muốn hàng phục vọng tâm của mình nhập Sơ Thiền thì tôi cần giữ gìn Giới Luật nghiêm túc. Sống lập ba hạnh ăn, ngủ và độc cư. Do ba hạnh này tôi nghiêm trì được Giới Luật, bảo vệ được sáu căn tức là bảo vệ được tâm của tôi. Bảo vệ được tâm tức là không cho tâm tiếp duyên bên ngoài tức là không phóng dật. Tâm không phóng dật tức là tâm ly dục ly ác pháp, nhờ đó tâm tôi thanh tịnh, tâm thanh tịnh là tâm tỉnh thức, do sự tỉnh thức nên không còn bị loạn tưởng hôn trầm. Tôi rất tỉnh giác thường thấy biết cái tâm ham muốn và tham dục của mình còn nhiều hay ít. Nhờ thấy được nó tôi ly được dục và các ác pháp không làm tâm tôi dao động; nhờ ly được dục tôi thấy cuộc sống thoải mái, không bị ràng buộc bởi dục lạc thế gian. Tâm thường lặng lẽ, rỗng rang nhưng rất sáng suốt mọi vật không qua được ý tứ của tôi. Như vậy là tôi đã tỉnh giác trên mỗi niệm; tỉnh giác trên mỗi niệm là tôi đã làm chủ được tâm mình; làm chủ được tâm mình tức là tâm bất động hay nói cách khác là tôi nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh. Từ đó tôi thấy mình làm chủ được tâm trong cuộc sống hằng ngày. Tôi không làm khổ mình và cũng không làm khổ người. Ðiều này tôi hiểu rõ lời Phật dạy ly dục sanh hỷ lạc là đúng; do ly dục và ly ác pháp mà tâm mình có giải thoát, do ly dục và ly ác pháp mà tâm mình trở thành thiền định, chứ không phải ngồi ức chế tâm cho hết vọng tưởng mà có thiền định. Tôi nhập Sơ Thiền không có tốn công phu chút nào, chỉ cần sống đúng giới luật là đủ.

Kính thưa quí vị Phật tử, tôi xin lưu ý quí vị chỗ này, một người muốn nhập Sơ Thiền không phải là một việc dễ làm. Phải biết xả bỏ tâm ác, phải biết từ bỏ tánh xấu, phải không bép xép nhiều chuyện, phải biết thương yêu mọi người, phải biết tha thứ mọi lỗi lầm của người khác, phải biết nhẫn nhục, phải biết tùy thuận, phải biết bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, phải biết xa lánh sắc dục, phải biết ăn ngày một bữa, phải biết ngủ ít, phải biết sống độc cư, phải biết tu tập đức hạnh giải thoát, tức đạo đức nhân quả, tức là đạo đức làm
người. Tóm lại quí vị phải xa lìa tâm danh lợi và ly tất cả dục lạc thế gian, có được như vậy thì mới nhập được Sơ Thiền.

Kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ dạy phải dụng công tu tập hết sức mới độ hết chúng sanh, mới giữ được tâm chẳng nghĩ thiện nghĩ ác. Khi độ hết chúng sanh và chẳng nghĩ thiện nghĩ ác thì mới tương ưng bằng chúng tôi tu Giới Luật nhập Sơ Thiền nhưng thiền Ðông Ðộ và
Ðại Thừa thuộc về loại thiền ức chế tâm vì không ly dục ly ác pháp mà cứ bắt ép tâm tập trung diệt vọng tưởng, nên tâm tham, sân, si vẫn còn nguyên vẹn, vì thế nên không thể giải thoát được. Cùng một kết quả thiền định gần giống nhau mà tu hành giữ gìn Giới Luật gọi là thiền xả tâm, nên Phật thường dạy: giới sanh định. Ðem so sánh thì thấy hai loại thiền có vẻ như tương đương với nhau nhưng Kinh Nguyên Thủy gọi là ly dục sanh hỷ lạc nhập Sơ Thiền, kinh Ðại Thừa gọi là thành Phật, thiền Ðông độ gọi là bản lai diện mục.

Kinh Nguyên Thủy được giải thoát do ly dục, ly bất thiện pháp. Ly dục ly bất thiện pháp là lìa tâm ham muốn và các ác pháp, do ly dục mà giải thoát được cái ăn, cái ngủ và các lòng ham muốn, nên cuộc sống không còn bon chen khổ sở, không còn phiền não, sân hận, tham lam, si mê, ganh tị, v.v...

Còn kinh Ðại Thừa và Thiền Tông thì dừng hết vọng tưởng thì tâm được tự tại vô ngại đói ăn khát uống, mệt ngủ, thậm chí ăn ngày 4, 5 bữa cũng chẳng sao, vui chơi ca hát đàn địch thỏa thích, sát sanh hại mạng cũng không tội. Những kết quả này của hai bên xin quí vị suy xét,
tôi chẳng có ý kiến gì về nó cả.

Kính thưa quí vị, ở đây tu tập Giới Luật, chỉ mới diệt được tầm chưa diệt được tứ, (tôi nói diệt tầm tức là nói không vọng khởi chứ không phải diệt tầm tứ theo kiểu Nhị Thiền) nên tôi tiếp tục tùy tức để diệt tứ nhập Nhị Thiền. Ðến đây tôi xin lưu ý nhắc quí vị khi nào quí vị hết vọng tưởng mới tu pháp tùy tức. Tùy tức ở đây tôi nói là nương vào hơi thở dùng pháp hướng diệt tầm tứ, chứ không phải tùy tức suông như Lục Diệu Pháp Môn. Còn nếu vọng tưởng chưa hết mà vội tu pháp tùy tức thì quí vị tu hành hoài công vô ích (vọng tưởng chưa hết có nghĩa là tâm ly dục ly ác pháp chưa sạch) mà còn làm điểm tựa cho hôn trầm, thùy miên, vô ký tấn công chứ chẳng ích lợi gì cho con đường tu hành của quí vị và về sau còn tai hại rất lớn cho quí vị.

Khi tôi tu Giới Luật ly dục diệt tầm thì tương ưng với tranh thứ 7 trong Thập mục ngưu đồ của Thiền Tông: trâu quên còn người. Chỗ này tương ưng với kinh Ðại thừa: độ hết chúng sanh thành Phật.

Khi tôi diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền chỗ này tương ưng với bức tranh thứ 8 trong Thập mục ngưu đồ: người trâu đều quên. Tôi biết rất rõ ràng diệt tầm là tâm không, diệt tứ là thân không. Xin lưu ý quí vị khi tôi diệt tầm tứ thì tôi không mất. Trời sét không nghe, tôi đang ở trong một trạng thái hỷ lạc do sức định của Nhị Thiền sinh ra. Trong thập mục ngưu đồ tranh
8 người trâu đều quên không có hỷ lạc, vì bị mất tiêu, mất tiêu nhưng tiếng động lớn còn nghe đó là trạng thái vong thân còn gọi là tưởng vô sắc định, một trạng thái không tưởng giống như người trong mộng, do đó người nhập định tưởng còn mộng mị chiêm bao, đó là
môi trường của chúng (tưởng thức) như thiền sư Hoàng Bá, Hám Sơn, Trí Khải Ðại sư, Hư
Vân Hòa thượng, v.v... .Hầu hết phải nói rằng các Thiền sư Ðông Ðộ đều còn nằm chiêm bao tức là còn tưởng dục.

Xưa Ðức Thế Tôn đã nhập được các định tưởng và nhập đến định cao nhất của tưởng là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ định. Khi nhập xong Ðức Phật xem xét lại thấy không có lợi ích thiết thực giải quyết những cái khổ của loài người, nên Ðức Phật ném bỏ mặc dù vị thầy dạy Ðức Phật tu pháp môn này rất tha thiết yêu cầu Ðức Phật ở lại chia nửa tòa lãnh đạo đồ chúng, nhưng Ðức Phật từ khước, ra đi tìm chân lý. Chỗ này thiền Ðông Ðộ và Nhị Thiền
của Phật không thể tương đương nhau được, cũng như kinh Ðại Thừa không thể tương đương với Sơ Thiền được. Vì Sơ Thiền nhờ tu Giới Luật, ly dục ly ác pháp nên tâm được an ổn thanh tịnh thường trống không lặng lẽ nhưng rất tỉnh giác sáng suốt và ý tứ làm chủ cuộc
sống nên tâm không bị chướng ngại, phiền não, đau khổ, ganh tỵ hơn thua, v.v... Còn kinh
Ðại Thừa khi độ hết chúng sanh thì tâm như như bất động. Giống như một vị thiền sư nào
đó cứ ôm ấp chữ như trên đầu nên qua sông quên mặc quần áo. Cũng như trong cuốn Góp Nhặt Cát Ðá có thuật lại một vị thiền sinh khi sư phụ sai lấy cái thùng thì mang cái rổ, thiền
sư cả cười cho là đệ tử của mình đắc đạo vô phân biệt. Kính thưa quí vị chỗ vô phân biệt này
Thiền Ðông Ðộ và Ðại Thừa cho không phải là chỗ vô tâm vì cái biết vẫn còn nhưng không
có phân biệt (chỗ này nói được chứ không làm được). Ðến điểm này kinh Ðại Thừa và Thiền
Ðông độ chấp nhận là đã tu xong, còn Thập mục ngưu đồ cho tu đến chỗ này vẩn chưa xong, còn tiến tu đến tranh thứ 8, tranh thứ 9 và tranh thứ 10.

Kính thưa quí vị, đến đây quí vị tự suy ngẫm sự chứng đạt này, tôi không có ý kiến gì.

Kính thưa quí vị Phật tử, người trâu đều quên trong tranh số 8 Thập mục ngưu đồ chưa xác định được là đang tu ở mức độ nào tương ưng với kinh sách Ðại Thừa và Thiền Tông, ngược lại Thiền Tông và kinh sách đại Thừa cũng không xác định tu ở mức độ nào tương ưng với tranh số 8. Mọi trạng thái tỉnh lặng hôn trầm, thùy miên, vô ký và ngoan không đều có trạng thái người trâu đều quên. Chỗ này khi quí vị về suy ngẫm lại, khi nào bí quá quí vị hỏi các vị thiền sư Ðông độ.

Kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ cho rằng độ hết chúng sanh hoặc chẳng nghĩ thiện nghĩ ác thì thành Phật. Vậy thành Phật rồi còn phải tu nữa hay không? Khi độ hết chúng sanh rồi có làm chủ được thân tâm hay không? Và có chấm dứt tái sanh luân hồi chưa? Cách thức làm chủ bằng cách nào?

Ðây, tôi xin nhường lời lại cho tổ Bách Trượng trả lời quí vị, Tổ Bách Trượng dạy: chẳng muội nhân quả. Ở đây quí vị phải hiểu câu nói này: đau là phải chịu đau, chết là phải chịu chết, chứ không thể nào làm chủ được nó. Chỉ chẳng mê muội trước nó là đủ, mê muội trước nó có nghĩa là sợ hãi, là buồn khổ, v.v... Ý của Tổ nói đứng trước các pháp ác tâm không hề dao động là đủ (chẳng mê muội).

Tôi xin lập lại câu nói này để cho quí vị dễ hiểu hơn. Chẳng muội nhân quả nghĩa là quí vị chẳng sợ hãi trước cơn đau bịnh, trước cái chết, trước cái tai nạn khổ sở là đủ, nghĩa là đừng sợ hãi các ác pháp vì quí vị thấy nó là huyễn giả, không thật, là không. Mọi sự vật mọi hoàn cảnh xảy ra đều là huyễn giả không thật có. Do hiểu biết như vậy quí vị sẽ không sợ hãi. Vì thế Nhị Tổ Pháp Loa bịnh đau rên hừ hừ mà không làm chủ được cái đau, nên khi Tổ Huyền Quang hỏi, ông trả lời theo kiểu Tổ Bách Trượng: gió thổi qua khe trúc. Tổ Bách Trượng mượn thuyết định mệnh để chứng minh Thiền Tông không làm chủ nhân quả. Câu chuyện Bách Trượng giả hồ, chúng tôi xin lưu ý quí vị, tổ Bách Trượng mượn thuyết định mệnh chứ không phải là thuyết nhân quả. Còn Ðạo Phật thì chuyển nhân quả và làm chủ nhân quả nên nó không là số mệnh, định mệnh được.

Ví dụ: Cùng hai đứa bé nhức răng ôm khóc, một đứa con nhà giàu, một đứa con nhà nghèo. Ðứa bé con nhà giàu được cha mẹ đưa đến nha sĩ chữa trị hoặc nhổ chiếc răng hư, đứa này không còn đau nhức chạy chơi vui cười. Còn đứa bé con nhà nghèo, không có tiền đi nha sĩ nên phải chịu đau nhức rên khóc mãi suốt ngày này sang ngày khác.

Kính thưa quí vị người giàu có là do phước báo hữu lậu, biết bố thí, cúng dường đúng pháp nên chuyển nghiệp nhân quả được huống là chúng ta tu pháp môn giải thoát vô lậu thì phước báo vô lậu không thể nghĩ lường, như muốn chết hồi nào thì chết muốn sống hồi nào thì
sống, không có luật định mệnh hay luật nhân quả nào cấm cản được.

Kính thưa quí vị, xin quí vị lưu ý chỗ này: Tổ Bách Trượng dùng thuyết định mệnh còn qua câu chuyện chúng tôi vừa kể về hai đứa bé đău răng là thuyết nhân quả, mà thuyết nhân quả thì làm chủ được vì nó di chuyển và thay đổi được; còn thuyết định mệnh thì không thay đổi được vì nó cố định. Cho nên dù có làm Phật thì cũng không làm chủ được cái nhân quả.
Như vậy thì quí vị đã phân biệt được luật nhân quả và luật định mệnh phải không? Hai
thuyết này khác nhau chứ không giống nhau, nó chỉ giống nhau ở hành động nhân quả thiện ác mà thôi. Có sự cố định đó là thuyết định mệnh, còn có sự thay đổi thì đó là thuyết nhân quả. Ví dụ: Ðức Phật, ông Xá Lợi Phất, ông La Hầu La tự tại nhập niết bàn, v.v...

Bởi vậy người tu theo Ðạo Phật đến Tứ Thiền xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì không còn nghiệp đau, nghiệp chết, tác dụng được vì thọ đã bị triệt tiêu trong định Tứ Thiền. Như vậy mới gọi là làm chủ sanh tử. Làm chủ sanh tử là làm chủ nghiệp; làm chủ nghiệp là xả lạc, xả khổ xả niệm thanh tịnh. Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh là xả thọ; xả thọ tức là đoạn ái; đoạn ái tức là chấm dứt sự đau khổ. Còn chấm dứt sự tái sanh luân hồi thì phải thực hiện lậu tận trí. Như trong kinh Thập Nhị Nhân Duyên dạy: vì có thọ mới có ái, cho nên khi thọ diệt thì ái phải đoạn tận. Ờ đây quí vị đã hiểu rõ về Thập Nhị Nhân Duyên.



Kính thưa quí vị, đến đây quí vị biết tứ thiền là một pháp môn quan trọng của Ðạo Phật trong sự làm chủ sự sống chết. Phật dạy 37 phẩm trợ đạo đều giúp cho pháp môn này để cho quí vị thành tựu giải thoát cá nhân của quí vị ra khỏi cuộc đời đầy đau khổ và còn ra khỏi thân đau khổ này. Tôi xin quí vị lưu ý thêm chỗ này, thọ là then chốt của nghiệp ái. Chúng ta tự hỏi nghiệp để làm gì? Nghiệp để cho ai? Xin trả lời để cho thọ. Ái để làm gì? Ái để cho ai? Xin trả lời để cho thọ. Vậy chúng ta tu hành dùng Tứ Thiền xả thọ thì nghiệp và ái còn tác dụng vào đâu, cho nên goị là diệt nghiệp đoạn ái. Ðoạn ái là làm chủ thân tâm; diệt nghiệp là chấm dứt tái sanh luân hồi. Con đường của Ðạo Phật dạy chúng ta tu hành quá rõ ràng không giống như Thiền Ðông độ và kinh Ðại Thừa. Vả lại chúng ta biết muốn nhập Tứ Thiền thì phải tịnh chỉ hơi thở. Hơi thở là mạng sống của con người; khi nhập định Tứ Thiền tịnh chỉ được hơi thở tức là làm chủ được mạng sống của mình, một loại thiền định làm chủ sự sống chết rất rõ ràng và cụ thể mà trong thế gian này chúng ta không ngờ lại có một pháp mầu nhiệm như vậy.

Kính thưa quí vị, tôi xin chép ra đây một đoạn trong Thiền Luận của Ðại Ðức Suzuki: Thấy tâm không thật thì tâm dứt, quên trâu, tranh 7: vong ngưu tồn nhân, thấy người không thật thì người quên nốt, tranh 8: nhân ngưu câu vong. Biết cái tâm không tâm, ấy là hiểu suốt Ðạo Phật. (Thiền luận tập thượng trang 616 ). Nghe qua những lời dạy này quí vị có biết cách tu hay không? Hay chỉ cần thấy tâm không thật người không thật là vọng tưởng hết, là chẳng nghĩ thiện nghĩ ác. Nói được, không làm được. Tri hành không hợp nhất. Người và trâu đều quên thì từ lòng đất dũng mãnh vọt lên mặt trời tuệ, tượng trưng bằng cái vòng tròn viên giác, tranh 8, đó là tâm vô tâm. (Thiền luận, tập thượng, trang 616).

Kính thưa quí vị Phật tử, đến tranh 8 Thập Mục Ngưu Ðồ xác định người trâu đều quên mất mới cho đó là tâm vô tâm. Còn kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ trâu mất mà thằng chăn trâu còn gọi là vô phân biệt, qua sông quên mặc quần áo, sai lấy cái thùng mang cái rổ, chỗ nay không phải là vô tâm. Ở chỗ Thập Mục Ngưu Ðồ tranh 8 mới là chỗ tâm vô tâm. Chỗ này mới gọi là năng sở không còn. Thầy chúng tôi dạy năng sở không còn là vô tâm hay là tranh số 8. Thập Mục Ngưu Ðồ cho chỗ vô tâm là chưa viên mãn nên bảo "vô tâm còn cách một lớp rào", vì thế phải tiếp tục tu hành tiến tới tranh thứ 9, tranh thứ 10.

Kính thưa quí vị, cái vòng tròn tượng trưng cho trí tuệ từ trong lòng đất người trâu đều quên sanh ra. Thập Mục Ngưu Ðồ Thiền Tông không xác định được người trâu đều quên ở mức độ nào mà trí tuệ phát sáng. Hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không cũng có trạng thái người trâu đều quên, rồi cũng từ trong đó có trí tuệ phát sáng, cũng ngộ những công án, cũng thông suốt các lý luận của Thiền Tông và các kinh Ðại Thừa.

Nhưng trí tuệ phát sáng này tôi gọi là tưởng tuệ. Tưởng tuệ là do từ trong định tưởng phát ra, tùy theo ở mức độ nhập định tưởng lâu mau, sâu cạn và do đó có sự hiểu biết thấp cao. Tưởng tuệ là trí tưởng tượng suy nghĩ nghĩa lý trong các kinh sách Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ chứ không có kinh nghiệm tu hành giải thoát như kinh Nguyên Thủy. Câu chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác, độ hết chúng sanh thành Phật, thấy tâm không thật thì tâm dứt, thấy người không thật thì người quên. Những câu nói này là tưởng tuệ, không tu hành gì được. Bằng chứng là kinh sách thì nhiều mà người tu chẳng ra gì, nghe thì hữu lý mà thực hành thì không vô. Bởi vậy có hàng trăm hàng ngàn người theo tu với Mã Tỗ mà người ngộ đạo, ngộ được tâm ngồi đạo tràng tu hành chỉ có 84 người nhưng đến khi thành tưụ chỉ còn có 2, 3 người, tức là những người nhập được định, trong đó có thiền Sư Dược Sơn.

Phải nói Thiền Ðông Ðộ có nhiều đạo tràng chỉ có đạo tràng của Mã Tỗ là số người tu đông nhất, nhập định được thì cũng không được mấy người, nhưng lại là định tưởng, định không làm chủ được sự sống chết. Loại thiền định này nhập để mà chơi cũng như Ðức Phật nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ để mà biết Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ mà thôi thì còn có nghĩa lý gì cho cuộc đời tu hành. Kính thưa quí vị, giai đoạn đầu thiền người ngộ thì đông mà tu thành tựu thì quá ít, không giống như câu nói kiến tánh thành Phật. Biết bao nhiêu người đã thấy chỗ không nghĩ thiện không nghĩ ác mà có làm Phật được đâu? Mà có thành Phật chỗ nào? Do sự tu không được, các Thiền Sư phải thay đổi cách khai ngộ và cách tu, bắt đầu họ dùng các công án rắc
rối hơn, hoặc đánh hoặc la hoặc hét để hạn chế người ngộ. Ðó là giai đoạn giữa thiền. Bắt
đầu từ các đệ tử của Lục tổ Huệ Năng đến Lâm Tế thì cách tu tập họ cũng còn giữ cách tu cũ, nhưng có thêm nhiều thứ thiền như Lục diệu môn, sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Thiền hơi thở phong, khí, suyễn, tức và pháp môn Tịnh Ðộ. Thiền Lục Diệu Pháp Môn do Trí Khải đại sư sản sanh, thiền hơi thở phong, khí, suyễn, tức do một vị thiền sư mà tôi không nhớ tên. Pháp môn Tịnh Ðộ do thiền sư Huệ Viễn lập Liên Trì Thư Xã và sớ giải kinh Tịnh Ðộ, thiền sư Diên Thọ Vĩnh Minh tán thán pháp môn này.

Khi con đường thiền Ðông Ðộ tu không có kết quả người ta mới sinh ra nhiều pháp môn như vậy. Nhưng mỗi pháp môn được sinh ra chỉ có sống một thời với người cha đẻ của nó rồi cũng chết yểu, vì thiếu kinh nghiệm, chỉ do trí tưởng tượng tạo ra nên tu không có kết quả. Pháp môn Tịnh độ còn sống đến ngày nay là nhờ một nhóm thiền sư khéo léo lấy sự mê tín trong dân gian làm chổ nương tựa như: cầu an, cầu siêu, cúng sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu, v.v... Vì người nào khi niệm Phật có được nhất tâm thì khi chết được sanh về Cực lạc. Còn người nào sống tu tập chưa đạt được nhất tâm, sau khi chết cũng được sanh về Cực lạc rồi tu tập tiếp. Do sự tiện lợi và dễ dàng dù niệm Phật ít hay nhiều đều được sanh về nước Cực lạc. Người ta đặt ra 48 lời nguyện của Ðức Phật Di Ðà để mọi người dựa vào đó mà nuôi hy vọng như trong sám Từ Vân có câu:

Thiện nam tín nữ các người
Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra
Ta không rước ở nước Ta
Thệ không làm Phật chắc là không sai.

Nhưng đây chỉ là một thứ hy vọng ảo tưởng mà thôi.

Kính thưa quí vị Phật tử, bây giờ chúng tôi đem so sánh kinh Nguyên Thủy, kinh Ðại Thừa, thiền Ðông Ðộ với Thập Mục Ngưu Ðồ.

Tôi xin nhắc lại kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ chấp nhận khi hết vọng tưởng là thành Phật; độ hết chúng sanh là thành Phật; chẳng nghĩ thiện nghĩ ác bản lai diện mục hiện tiền hay kiến tánh là thành Phật. Chỗ này kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ chỉ tương ưng với Thập Mục Ngưu Ðồ ở tranh số 7: ngưu vong tồn nhân.

Thầy chúng tôi dạy trâu mất người chăn phải còn. Chổ này Thầy chúng tôi cũng chỉ tương ưng với Thập Mục Ngưu Ðồ tranh 7, với kinh Ðại Thừa, với Thiền Ðông Ðộ, nhưng không thể tương ưng với Thập Mục Ngưu Ðồ tranh 8 được. Kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ tu đến chổ này được xem là thành Phật. Phật là Ðại giác, giác là trí tuệ. Ngược lại Thập Mục Ngưu Ðồ cho chỗ tu này chưa xong nên phải tiếp tục tu tới tranh 8: nhơn ngưu câu vong, người
trâu đều mất, người trâu đều quên. Kinh Ðại Thừa, Thiền Ðông Ðộ thì không có nhưng kinh Nguyên Thủy thì tương ưng với Thập Mục Ngưu Ðồ ở tranh 8, nhưng lại khác, khi người trâu đều quên thì mất tiêu rồi phát ra trí tuệ, còn Kinh Nguyên Thủy thì ở trong trạng thái hỷ lạc do định Nhị Thiền sanh như tôi đã nói ở trên. Ở Thập Mục Ngưu Ðồ, khi trí tuệ hiện ra thì hành giả thấy mình và vạn hữu là một. Nên thiền sư Thiền Lão dạy:

Thúy trúc huỳnh hoa phi ngoại vật
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân

Dịch :
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh ngoại
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân

Thấy mọi vật là mình. Mình là mọi vật là tranh số 9: phản bổn hoàn nguyên trong Thập Mục
Ngưu Ðồ. Tu đến chỗ này sau một năm nhập thất Thầy chúng tôi tuyên bố trước Tăng Ni và Phật tử Thầy đã về đến nhà,Thập Mục Ngưu Ðồ tranh số 9: phản bổn hoàn nguyên. Sau khi ra thất Thầy chúng tôi cho xây cất Thiền viện Trúc Lâm, phát huy Thiền Tông Việt Nam để Tăng Ni và Phật tử có chỗ tu hành chân chính, đó là Thầy chúng tôi đang ở tranh 10 Thập Mục Ngưu Ðồ, thỏng tay vào chợ.

Kính thưa quí vị Phật tử, Thầy chúng tôi vừa dẫn dắt Tăng Ni và Phật tử và còn phải tự tu cho mình. Thế là cho đến hôm nay Thầy chúng tôi đã đi suốt quãng đường Thập Mục Ngưu Ðồ Thiền Tông.

Kính thưa quí vị, như vậy xét qua cách thức tu hành để đi đến kết quả thì kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ giống nhau. Còn Thập Mục Ngưu Ðồ thì không giống kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ. Riêng kinh Nguyên Thủy độc lập không giống kinh Ðại Thừa, Thiền Tông và Thập Mục Ngưu Ðồ. Cho nên pháp môn được xem là của Ðức Phật hiện giờ là pháp môn phát triển, pháp môn tổng hợp. Vì thế, chúng ta đừng hiểu nó là phương tiện di chuyển mà phải hiểu mỗi pháp môn là một con đường đi. Mổi con đường đi nó sẽ dẩn chúng ta đến một nơi riêng của nó.

Kính thưa quí vị Phật tử, đến đây quí vị cần suy ngẫm kỹ chứ quí vị đừng hiểu trăm sông đều về biển cả. Ðem pháp môn tu hành của Ðức Phật ví dụ như vậy là sai. Vì mọi pháp môn tu hành không phải là những môn học được xếp loại thấp cao để nối tiếp nhau theo lớp lang. Mọi pháp môn có thấp cao tự riêng nó. Cho nên chúng ta tu đúng thì đúng ngay từ lúc ban đầu mà đã tu sai thì cũng tu sai ngay từ lúc ban đầu. Nếu đường đi về thành phố Hồ chí Minh thì phải về thành phố, nếu đường đi về Tây Ninh thì phải về Tây Ninh. Không thể đi Tây Ninh mà về thành phố được, ngược lại cũng vậy.

Kính thưa quí vị Phật tử, tranh Thập Mục Ngưu Ðồ thiền tông do các thiền sư sau này tưởng giải sinh ra qua kinh nghiệm tu hành của mình nên đã đi khá xa hơn kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ. Nhưng các thiền sư vẫn chấp nhận cho đó là kết quả của Thiền tông. Vậy tôi xin các vị cứ suy ngẫm, riêng tôi chẳng có ý kiến gì hết. Nhất là hiện giờ người theo tu Thiền Ðông Ðộ và kinh sách Ðại Thừa rất đông và thời gian cũng rất dài nhưng chẳng thấy ai làm chủ sự sống, chết, già, bịnh cụ thể. Hình thức ngồi thiền 2, 3 tiếng đồng hồ thì có mà chẳng có định gì cả, giỏi nhất của Thiền Ðông Ðộ là hý luận trên công án.

Kính thưa quí vị Phật tử, bây giờ đến giai đoạn cuối thiền cách khai ngộ vẫn giữ nguyên như cũ, nhưng đánh, la và hét thì các thiền sư giảm bớt. Cách tu thì hoàn toàn thay đổi hẳn. Họ không còn tu chăn trâu, gọi ông chủ hay biết vọng liền buông nữa, mà tham thoại đầu, tham công án, khởi nghi tình. Các ngài cố ôm chặt khối nghi dùng sức mạnh của khối nghi mà tập trung tư tưởng hầu để ức chế vọng tưởng cho bằng được. Những điều ức chế tâm quá mạnh này khiến cho các thiền sư càng nén tâm nhiều. Và sự nén tâm nhiều này khiến cho các ngài nỗi lên những cơn sân quá dữ dội. Những hành động và lời nói rất thô lỗ và hung ác khi các ngài đối xử với các đệ tử cũng như đối với các Phật tử. Như thiền sư Lâm Tế, Mục Châu, Ðạo Ngô, La Quả thiền sư, v.v... Mặc dầu các thiền sư cố dùng khối nghi mong đè bẹp được vọng tưởng để đạt được định, nhưng sự thành tựu này cũng chẳng được gì vì chính họ đã đi xa lần Giới Luật và Ðức hạnh giải thoát của Ðạo Phật, nên càng ngày họ tu hành không có kết quả. Trong cuối thế kỷ thứ 20 này Thiền tông đã chết tại đất nước Trung Quốc. Thầy chúng tôi đã đi qua đó tham quan để tìm xem có vị thiền sư nào hay không. Chuyến đi đó Thầy chúng tôi không gặp.

Bởi thiền Ðông Ðộ không tu Giới Luật, nên thiền sư Bạch Vân Nhật Bổn đã hướng dẫn tu thiền và khai ngộ cho người Tây phương rất đông. Họ đã được thiền sư khai ngộ và đã tu hành chứng ngộ được đạo thiền, vậy mà họ kết hôn nhau làm thành vợ chồng (trong tập 3
Trụ Thiền của Philip Catro, do ông Ðỗ Ðình Ðồng dịch). Thiền sư Suzuki vẫn có những tác phẩm thiền danh tiếng trong thế kỷ 20 này, vậy mà Ngài có một người vợ Mỹ, thì thử hỏi tu
thiền như vậy làm sao thoát khổ chấm dứt tái sanh luân hồi được. Nhưng có người bào
chữa cho thiền sư rằng thiền sư có người vợ Mỹ để cùng nhau hợp tác mà viết ra những tác phẩm thiền bằng ngoại ngữ. Lời bào chữa này theo chúng tôi nghĩ không đúng. Vì đối với Thiền sư Suzuki vẫn có những người bạn trai rất tâm đầu ý hợp. Nếu cần qua việc kết hôn của ông là nhằm mượn phương tiện để phổ biến thiền sang Tây phương, thì hầu hết những người bạn trai nầy cũng sẵn sàng giúp ông. Như vậy đó là một lý luận che đậy những sự phạm giới của Ðạo Phật. Thiền sư mà còn dâm dục thì làm sao mà tin họ giải thoát. Bởi vậy nguyên nhân đau khổ là do ái dục, cớ sao người ta lại nuôi ái dục mà gọi là chứng ngộ thiền giải thoát. Còn ái dục thì làm sao hết khổ. Ái dục còn làm sao chấm dứt sanh, lão, bệnh, tử được.

Hiện giờ Thầy chúng tôi phục hồi giai đoạn đầu thiền Ðông Ðộ. Hòa Thượng Duy Luật phục hồi giai đoạn cuối thiền Ðông Ðộ. Hòa Thượng Duy Luật luôn luôn kích bác Thầy chúng tôi, đệ tử của họ đem cuốn thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ 20 mổ xẻ chống bác Thầy chúng tôi. Tôi nghĩ cũng buồn cười, một con rắn độc lấy cái đuôi chửi cái đầu.

Kính thưa quí vị Phật tử, những người đang tu thiền Ðông Ðộ hiện giờ trong cảnh chờ đợi chén rơi, bát đổ, mèo kêu, chó sủa, hoa rơi, lá rụng để chứng ngộ đạo thiền. Tôi không biết nghĩ như thế nào mà các thiền sinh đang ở trong cảnh phải chờ đợi như thế này. quí vị cứ suy ngẫm.

Kính thưa quí vị, như tôi đã nói ở trên Thiền sư Bách Trượng đã xác định Thiền Ðông Ðộ không làm chủ sanh tử được, chỉ dùng những danh từ hoa mỹ và những câu chuyện huyền thoại về việc làm chủ sanh tử để lừa dối, bịp người sau. Thiền sư Thường Chiếu cũng xác định rõ ràng để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa.

Một hôm thiền sư Thần Nghi hỏi thiền sư Thường Chiếu:
- Bạch Hòa Thượng, khi Hòa Thượng trăm tuổi như thế nào? Thiền sư Thường Chiếu bảo:
- Ta chết như người thường
Thiền sư Thần Nghi ngạc nhiên hỏi:
- Như vậy Bồ Ðề Ðạt Ma là sao? Thiền sư Thường Chiếu đáp:
- Ðó là bọn đại bịp, một con chó sủa một bầy chó sủa theo.

Kính thưa quí vị, Bồ Ðề Ðạt Ma là tổ thứ nhất, người đại diện cho thiền Ðông Ðộ và tượng trưng cho thiền phái này, là linh hồn của Thiền Ðông Ðộ, cho nên hai thầy trò Thần Nghi ở
đây không phải nói về cá nhân Bồ Ðề Ðạt Ma mà nói thẳng về Thiền Ðông Ðộ. Như chúng ta đã biết thiền sư Bách Trượng là một vị đại thiền sư danh tiếng nhất Trung Quốc, Ngài có bộ Thanh Qui Bách Trượng thì đủ biết ngài là một người có sự điều khiển chỉ huy một thiền đường lớn không phải nhỏ của Trung Quốc mà Ngài còn xác định con đường Thiền Tông
như vậy thì chuyện cha con ông Bàng Long Uẩn chỉ là một câu chuyện huyền thoại. Ở Việt Nam thiền sư Thường Chiếu là một danh tăng có nhiều uy tín trong đường thiền Ðông Ðộ, thế mà Ngài đã thành thật xác định với chúng ta như vậy. Thiền Trúc Lâm Yên Tử truyền đến tổ Huyền Quang là mất, mặc dù sau này có nhiều người muốn phục hồi lại nó nhưng không thành tựu chỉ vì họ chết cứng trong giáo điều thiền Trúc Lâm. Tổ Pháp Loa trước khi tịch đau rên hừ hừ , tổ Huyền Quang hỏi:

- Sao Hòa Thượng lại rên ? Pháp Loa trả lời:
- Gió thổi qua khe trúc. Và tống cho Huyền Quang một đạp.

Ở đây quí vị tự suy ngẫm, gió thồi qua khe trúc có thọ hay không? Do có thọ Pháp Loa mới rên, nếu không thọ làm gì có rên. Tổ Huyền Quang đã chứng kiến cái chết của tổ Pháp Loa, cũng như chúng ta đã chứng kiến cái chết của Hòa Thượng Thiện Hoa, Hòa Thượng Thiện Hòa, Hòa Thượng Huệ Hưng, Bửu Huệ, Thiền Tâm và còn biết bao nhiêu vị tôn túc khác nữa. Từ đó tổ Huyền Quang mới đem Mật Tông vào con đường thiền này làm thơ vịnh hoa bướm khiến cho nhà vua và ông Mạc Ðĩnh Chi phải nghi ngờ mới dùng nàng Thị Bích thử Tổ.

Kính thưa quí vị Phật tử, để so sánh hai thứ định: Ðịnh của Ðạo Phật và định tưởng của ngoại đạo.

1 .- Ðịnh trời sét không giật mình, định của Ðức Phật.

2 .- Ðịnh không nghe tiếng động của 500 cỗ xe bò đi ngang qua, định của Ngoại đạo, định tưởng. Ở đây không phải chúng ta so sánh hai tiếng động lớn nhỏ mà so sánh ở trạng thái giật mình và ở mục đích giải thoát của định trời sét không giật mình dù quí vị có đánh bể đồng loa thì cũng không xuất định. Trời sét không giật mình tức là định đã diệt sáu thức cho nên cảm thọ không còn có, vì thế gọi là xả thọ. Xả thọ tức là diệt ái như tôi đã nói ở trên, diệt ái tức là
phải có định mà định ở đây thì phải bắt từ Nhị Thiền đến Tứ Thiền, Tứ Thiền là xả lạc, xả
khổ, xả niệm thanh tịnh. Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh tức là xả thọ, hay làm chủ thọ nên không còn giật mình. Ðịnh Tứ Thiền là định xả thọ, còn định phá âm thanh là định Nhị Thiền, khi diệt tầm tứ thì sáu thức dừng nghỉ không hoạt động nên tai không còn nghe âm thanh dù âm thanh có to như tiếng sét cũng không nghe vì đã diệt Tầm Tứ.

Thiền định tưởng, dù định cao nhất của nó như định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Ðịnh cũng còn giật mình, trừ Diệt Thọ Tưởng Ðịnh thì âm thanh sắc tướng đều bị diệt cả. Cho nên các thiền sư nhập định tiếng đồng loa, tiếng chuông lắc vẫn đánh thức họ trong lúc nhập định. Thiền sư Hám Sơn lắc chuông tỉnh lại, Thiền sư nhập 1000 năm dùng đồng loa đánh xuất định đều là những định chưa diệt tầm tứ, chưa xả thọ, nên chưa làm chủ thân tâm, chưa chấm dứt tái sanh luân hồi. Phần nhiều các thiền sư nhập vào định này đều còn tưởng dục. Tôi xin lưu ý quí vị một lần nữa, còn tưởng dục tức là còn mộng mị chiêm bao. Tất cả thiền
sư Ðông độ còn chiêm bao mộng mị.

Kính thưa quí vị Phật tử, thiền định nào để lại nhục thân được? Thiền định nào cũng để lại nhục thân được trừ những người chưa nhập định. Ðể lại nhục thân không phải mục đích của Ðạo Phật, nên Ðức Phật và các đệ tử của Ngài không có để lại, vì để lại nhục thân còn có mục đích cầu danh trong đó và đó cũng là một lối lừa đảo.

Kính thưa quí vị, những điều tôi đã phân giải ra đây là những điều tôi đã trực tiếp trong cuộc
đời tu hành của tôi. Tôi đã thấu suốt rất rõ ràng từ đời sống tu sĩ, cư sĩ và đến các pháp
môn, như thế nào đúng như thế nào sai. Tôi nói ra đây để Thầy chúng tôi và cũng như quí vị Tăng, Ni, Phật tử hiểu rõ Phật Pháp để trở về đúng với con đường tu hành đúng của Ðạo Phật. Tôi không có ý xấu xa bài bác mọi con đường, mọi pháp môn tu hành của quí thầy,
của Thầy chúng tôi. Tôi nói ra những điều này là vì tôi đã hiểu rất rõ ràng mọi pháp
môn, mọi con đường tu hành từ Thiền Ðông Ðộ đến kinh Ðại Thừa mà tôi cứ ngồi nhìn quí vị tu hành ngày tháng qua mau, sanh tử gần kề, tôi không thể chịu được nữa, phải nói. Nói, dù tôi có tan xương nát thịt. Nói, dù tôi có như thế nào, tôi cũng cam chịu. Nói, để Thầy chúng tôi chấn hưng lại Thiền Tông Việt Nam, làm sáng tỏ Thiền Tông Việt Nam, mà không theo lối mòn của thiền phá giới và sống đời sống phi phạm hạnh. Nếu Thiền Tông Việt Nam sẽ phục hưng với nền đạo đức nhân bản thì ích lợi thiết thực cho loài người nói chung cho dân tộc Việt Nam nói riêng, và Thiền này sẽ sống mãi muôn đời trên thế gian này.

Kính thưa quí vị Phật tử, khi tôi nói ra điều này thì quí vị khó mà được gặp tôi nữa. Tại sao? Tôi nói ra vì Phật Pháp vì sự tồn vong của Phật Pháp chứ không phải nói ra vì danh vì lợi vì tranh hơn thua cao thấp với quí thầy, với Thầy chúng tôi. Tôi đã xả bỏ hết danh lợi của cuộc đời cho nên tôi chẳng quản quí vị biết đến tôi làm gì. Tôi sẽ ẩn bóng để Thầy chúng tôi và huynh đệ chúng tôi hướng dẫn quí vị trên đường tu hành của Ðạo Phật. Tu Viện Chơn Như chúng tôi sẽ trao lại cho Cô Út Diệu Quang, khi cô nhập xong Tứ Thiền, cô sẽ đứng ra hướng dẫn các cháu con của những người cư sĩ quyết tâm theo cô tu hành. Tu viện này sẽ trở
thành Tu Viện Nữ cư sĩ thì lúc bấy giờ tôi sẽ không còn ở lại đây nữa.

Kính thưa quí vị Phật tử, tại sao tôi phải ẩn bóng bỏ các vị mà đi? Xin thưa cùng quí vị có hai
điều kiện:

1. quí vị sẽ hiểu lầm tôi đem kinh nghiệm tu hành của mình đã đạt được ra tranh hơn thua với quí thầy, với Thầy chúng tôi.

2. Tôi không muốn manh múm Phật Pháp thành nhiều đoàn thể, nhiều tông phái khác nhau
để làm tan nát ngôi nhà Phật Giáo.

Kính thưa quí vị tôi chỉ muốn những kinh nghiệm của tôi được trao lại cho một vị Thầy có đức độ có uy tín với quí vị để vị Thầy ấy xây dựng lại ngôi nhà chánh pháp của Ðạo Phật. Những kinh nghiệm tu hành của tôi chỉ là những viên gạch để chúng ta là những người con Phật xây dựng lại ngôi nhà Phật Giáo mà từ lầu vô tình chúng ta bị ảnh hưởng mọi chiều hướng của ngoại đạo và thế tục hóa đã khiến cho tòa nhà Phật Giáo sụp đổ tan tành. Ðến đây tôi xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay, xin gửi lời thăm và chúc tất cả gia đình của quí vị thân tâm thường vui vẻ.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Thích Thông Lạc
TU VIỆN CHƠN NHƯ
(Bác sĩ Trí & Ðức Tâm ghi chép theo băng giảng)

http://www.nguyenthuychonnhu.net/ebo...AnCNCuSi-1.pdf