LUẬN VỀ PHÁP BẢO (tiếp theo)
Thiền Tông ra đời ở Trung Quốc do ngài Bồ Đề Đạt Ma khởi xướng không chỉ là một cuộc cải cách, mà còn là một cuộc cách mạng. Nói là cách mạng vì nó phủ định toàn bộ hệ thống giáo lý kinh sách Phật giáo đang tồn tại ở Trung Quốc. Có thể nói đây là sự từ chối mạnh mẽ Phật Giáo để đạt tới Phật đạo.
Đầu tiên là hình ảnh của Bồ Đề Đạt Ma. Ngài mang lại cho các đại đức, thượng tọa ở Trung Hoa một cú sốc. Không cạo đầu, để râu, không áo cà sa, đi 1 giày 1 chân, 1 giày đề đầu gậy , vác gậy trên vai. Sự phủ định triệt để về hình thức tu hành bên ngoài, hình ảnh này đã là một thông điệp mạnh mẽ. Khi các sư tăng đề nghị ngài Đạt Ma thuyết pháp, giảng kinh.
Đạt Ma hỏi: Các ông thuyết pháp giảng kinh để làm gì ?
Vị tăng đáp: Để liễu thoát sinh tử
Đạt Ma: Các ông đã liễu thoát sinh tử chưa ?
Vị tăng đáp: Chưa ạ
Đạt Ma: Người mù có thể dắt người mù qua đường được không ?
Vị tăng đáp: Dạ, không thể
Đạt Ma: Kẻ chưa liễu thoát sinh tử mà giảng pháp liễu thoát sinh tử có khác nào người mù dắt người mù qua đường.
Lấy pháp Sinh-Diệt để đạt tới cái Không Sinh Diệt là không thể, huống gì người chưa chấm dứt được Sinh Tử lại đi hướng dẫn giảng dạy cho người đến chỗ Không Sinh Tử. Đoạn đối đáp cho thấy Đạt Ma phá tan sự chấp thủ vào chiếc áo tu hành, sự tu hành của cá nhân, tức là đoạt Nhân, phủ định công phu tu hành, chỉ thẳng vào đích đến. Không đến đích thì sự tu hành chỉ là đồ bỏ.
Đạt Ma: Ở Trung Quốc, các ông giảng kinh bằng gì ?
Vị tăng đáp: Dạ, bằng sách, lấy sách kinh ra giảng
Đạt Ma: Giấy thì trắng, chữ thì đen, lấy kinh sách ra giảng thì lấy cái trắng giảng hay cái đen giảng ?
Bản chất văn tự luôn có tính hai mặt, có và không, sau này các Tổ Thiền Tông tổng hợp gọi là Tứ Cú. Cú là câu. Tứ là bốn: Có, Không, Chẳng Có Chẳng Không, Cũng Có Cũng Không. Lìa tứ cú, tuyệt bách phi xuất phát từ đây. Ngài Đạt Ma đã từ bi đoạt lấy kinh sách (đoạt Cảnh), đoạt lấy cái cảnh Nhị Nguyên, Sinh Diệt mà các sư tăng đang bám vào. Tiếp theo ngài tuyên bố:
Bất lập văn tự (đoạt Cảnh)
Giáo ngoại biệt truyền (đoạt Người)
Trực chỉ chân tâm (đoạt cả Cảnh và Người)
Kiến tánh thành Phật. (không đoạt Cảnh, không đoạt Người, thực tại hiện tiền)
Bất lập văn tự (đoạt Cảnh). Đây là nguyên lý tu Thiền Tông. Bất lập văn tự không phải là ngồi im, không phải là trụ tâm quán tịnh, không phải là không được viết luận giải bằng ngôn ngữ, văn tự mà là KHÔNG ĐỂ VĂN TỰ LỪA. Vì văn tự có tính Nhị Nguyên, người nói hay người nghe thường chỉ chạy theo ý có hoặc ý không, ý phủ định hoặc khẳng định, lọt vào bẫy Tứ Cú của văn tự gọi là BIÊN KIẾN (lệch một bên). Vì thế trong Thiền Tông, hàng ngàn công án hay tham thoại đầu cũng chỉ loay hoay đánh phá, cởi trói cho con người khỏi sự biên kiến này bằng cách nói ngược, hỏi ngược, đạp đổ, la hét, chửi mắng mà không bao giờ giải đáp hay trả lời vào câu hỏi. Các Tổ Thiền tông lo người tu đạo không hiểu, thối chí nên cũng từ bi mở đường bằng cách nói lấp lửng: ''Đại Nghi Đại Ngộ, Tiểu Nghi Tiểu Ngộ, Không Nghi Không Ngộ''. Ý rằng đừng có tin ngay vào nhưng gì các ngài trả lời (vì nói ngược đấy, hoặc là nói lung tung), hãy nghi đi, nghi thật nhiều vào thì đến lúc sẽ ngộ ra.
Thiền sư Lặc Đàm Pháp Hội hỏi
- Ý tổ sư sang đông là gì ?
Sư (Mã Tổ) bảo :
- Nói khe khẽ, lại gần đây.
Pháp Hội bèn đến gần . Sư tát cho một cái mà nói
- Sáu tai không cùng mưu. Hôm khác hãy đến đây.
Hôm khác Pháp Hội đến lại còn vào pháp đường hỏi
- Xin hòa thượng cho nghe.
Sư nói
- Lát nữa chờ lão già này thượng đường hãy ra, lão chứng minh cho.
Pháp Hội liền ngộ nói
- Cảm tạ đại chúng chứng minh.
Bèn nhiễu quanh pháp đường một vòng rồi đi.
Giáo ngoại biệt truyền (đoạt Người). Đã là truyền ngoài giáo lý thì có cái gì để mà truyền được nữa. Vì nói ra cái ''ngoài giáo lý'' thì cũng đã thiết lập giáo lý mất rồi. Đã không có cái để truyền thì liệu có người truyền nữa không.
Trực chỉ chân tâm (đoạt cả Cảnh và Người). Khi Cảnh và Người đều không có, chân Tâm hiện tiền. Trong Chân Tâm (Pháp Không Sinh Diệt) không có cái ta, cái của ta chứng. Trong cả 4 câu tuyên ngôn này là sự vắng lặng của cảnh và người, chỉ có Phật tánh (Pháp Không Sinh Diệt) hiện tiền khi dứt bỏ các Pháp Sinh Diệt. Không có người chứng Pháp. Chứng cái không sinh diệt tức là Kiến Tánh Thành Phật.
Kiến tánh thành Phật. (không đoạt Cảnh, không đoạt Người, thực tại hiện tiền). Người đã kiến tánh rồi thì không cần phải đoạt cái gì nữa, vì người ấy đã thấy TÁNH KHÔNG SINH DIỆT. Vì chứng được pháp không sinh diệt nên gọi là Kiến Tánh, phá được Thân Kiến, tương đương với quả Dự lưu ( Tu Đà Hoàn). Người ấy chắc chắn đắc A La hán (dứt sinh tử) trong 7 kiếp tới. Trong Thiền Tông, người Kiến Tánh lập tức phải Bảo Nhậm, tức là phải giữ gìn không để các lậu hoặc tăng trưởng. Bảo Nhậm là nhập thất sống cách ly và không tiếp xúc với người chưa kiến tánh. Thiền Tông gọi là ''Kiến Tánh Khởi Tu''. Tức là Ngộ rồi thì mới Tu. Nghe có vẻ ngược đời nhưng là sự thật. Bởi Ngộ trong Thiền tông là Đốn Ngộ, ví như người bất chợt đào được mỏ vàng trong đêm tối, phải đánh dấu nó lại, để đến sáng đào tiếp.
(còn phần tiếp theo)
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks