kết quả từ 1 tới 20 trên 35

Ðề tài: LUẬN VỀ PHẬT ĐẠO, PHẬT GIÁO, TAM BẢO

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #2

    Mặc định

    LUẬN VỀ PHÁP BẢO

    Trong Tam Bảo thì Pháp Bảo là sản phẩm của Phật Bảo và Tăng Bảo. Nếu không có Phật Bảo và Tăng Bảo thì không có Pháp Bảo. Vậy Pháp Bảo khác với Pháp ở chỗ nào ? Pháp Bảo là Pháp đưa đến giác thoát, giác ngộ từ bậc đã được giải thoát giác ngộ nói ra. Còn nếu không từ bậc đã Giác Ngộ, Giải Thoát nói ra thì Pháp chỉ là Pháp chứ không phải là Pháp Bảo. Lúc này Pháp trở thành triết học, lý luận, kinh kệ phục vụ cho mục đích tôn giáo đơn thuần, không phải là Pháp cho sự giải thoát, giác ngộ.

    Phật Bảo đã nói ra những Pháp Bảo gì ? Đó là Tứ Diệu Đế, Ba Bảy Phẩm Trợ Đạo, Duyên Khởi, Vô Ngã, Giới, Định, Tuệ…, là toàn bộ 5 bộ kinh tạng Nikaya (bằng tiếng Pali viết trên lá bối và 4 bộ kinh A Hàm viết bằng tiếng Sankrit). Để phân biệt những Pháp Bảo do các Thánh Tăng (Tăng Bảo) nói ra sau này gọi là Luận, còn Phật Bảo thuyết thì gọi là Kinh và Luật (Giới Luật). Sự phá cách duy nhất chỉ có ở Thiền Tông khi tập hợp các bài nói pháp của vị Tổ cuối cùng (Tổ Huệ Năng) là Kinh Pháp Bảo Đàn.

    Con đường tu tập giác ngộ của Đức Phật và các Thánh tăng trên nền tảng của Pháp Hành là tu tập về Giới, Định, Tuệ. Cho nên cốt lõi của Pháp Bảo chính là Pháp Hành, chính là Giới, Định, Tuệ. Còn Pháp Học chỉ là cái vỏ bên ngoài của Pháp Hành. Đây là sự khó khăn lớn nhất của Đức Phật và các Thánh Tăng khi đã giác ngộ muốn diễn tả lại trạng thái giác ngộ và hướng dẫn con đương đi đến giác ngộ. Trong lịch sử, Thế Tôn đã phải ở lại 21 ngày dưới cội Bồ Đề sau khi đã giác ngộ. Sự khó khăn lớn nhất là để làm sao độ sinh cho thế gian đầy những tham dục chi phối, gần như không có khả năng từ bỏ tham, sân, si để hưởng được hương vị của giải thoát, giác ngộ, mà những hương vị này thì lại không thể diễn tả được bằng lời và phải trải quá một quá trình tu tập nhiệt tâm, tinh cần.

    Sau khi Thế Tôn nhập diệt, lịch sử Phật giáo cho chúng ta thấy sự chia chẻ sâu sắc giữa Pháp Học và Pháp Hành. Pháp Hành đồi hỏi phải có người thực chứng, chứng Thánh Quả, còn Pháp Học thì thiên về lý luận, biện giải. Như các cành cây ngày càng xa dần gốc cây, các bộ phái ra đời trên cở sở lý luận, tranh luận chứ không còn là sự thực chứng Niết Bàn. Sự thực chứng Niết bàn trở nên xa xỉ trong Phật đạo. Để thay thế sự ''xa xỉ'' này, các quả vị và khái niệm và phương cách tu tập mới được ra đời bởi các nhà cải cách Phật giáo. Con đường giải thoát bị che khuất, giáo đường được mở ra thay cho con đường. Mục tiêu tối thượng của Phật đạo là thoát ra khỏi vòng luân hồi (kết quả, đích đến) và thoát qua lưới lý luận của 62 tà kiến (phương pháp lý luận, tu tập) gần như không thấy nữa qua nhưng cải cách Phật giáo này.

    Đối với Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) còn gọi là Trưởng Lão Bộ hay Thượng Tọa Bộ cho ra đời Bộ Vi Diệu Pháp, tiếng Hán còn gọi là A-Tỳ- Đàm (Abhidhammattha) được cho là của ngài Xá Lợi Phất thuyết lại sau khi được Đức Phật truyền dạy. Cở sở của Vi Diệu Pháp là biện luận sự sinh diệt của 121 Tâm và 52 Tâm Sở Hữu sinh diệt trong từng sat-na (1 sát-na khoảng chỉ diễn ra khoảng 1/90 của 1 giây). Trên cơ sở 121 Tâm lại chia chẻ ra 81Tâm Hiệp Thế và 40 Tâm Siêu Thế, rồi từ 40 Tâm Siêu Thế chia ra 20 Tâm Đạo cho quả vị Thánh Dự Lưu và Nhất Lai và 20 Tâm Đạo cho Thánh Bất Lai và A La Hán. Sự thái quá trong việc tô vẽ pháp Hành thành biểu đồ và lý luận đã làm cho Vi Diệu Pháp chẻ sợi tóc ra làm tư. Không một ai có thể ngồi để Minh Sát Tuệ tâm sinh diệt 121 tâm trong 1 sát- na rồi lại có 121 tâm sinh diệt khác khởi lên và diệt liên tục như vậy. Chúng rồi tiếp nhau, trộn lẫn vào nhau, và với 1 phút (60 giây khoảng 5400 sát-na) có tới 653.400 tâm sinh diệt (không kể chúng còn đè lên nhau chứ không đơn thuần là sinh diệt liên tiếp thay thế nhau). Sự ưu việt của Vi Diệu Pháp là cho chúng ta thấy đầy đủ của các hành trình Tâm Sinh Diệt, nhưng đưa nó vào tu tập làm Pháp Hành thì đây là một sự bế tắc.

    Chính vì thế ngài Long Thọ Bồ tát đã làm một cuộc các mạng phủ định triệt để Vi Diệu Pháp ở phương diện Pháp Học lẫn Pháp Hành bằng việc ra đời Trung Quán Luận. Ở Phầm Quán Nhân Duyên ngay đầu Trung Quán Luận, Ngài tuyên bố 8 câu luận bất hủ để phủ định triệt để Vi Diệu Pháp

    “Chẳng sanh cũng chẳng diệt,
    Chẳng thường cũng chẳng đoạn,
    Chẳng một cũng chẳng khác,
    Chẳng đến cũng chẳng đi.
    Con cúi đầu lễ Phật,
    Tối thắng trong thế gian ?
    Khéo nói pháp nhân duyên,
    Hay diệt các hý luận.
    ''

    Vi Diệu Pháp cho rằng tâm sinh diệt trong từng sát-na, và các pháp cũng đang sinh diệt nhanh như tâm sinh diệt (ví như các hạt bụi liên tục sinh diệt trong không gian rộng lớn). Thì Trung Quán Luận cho rằng không có Pháp nào là sinh diệt cả.

    Đến đây bạn đọc lưu ý là cả hai Vi Diệu Pháp và Trung Quán Luận hết sức vĩ đại, siêu việt về việc lý giải các pháp Vi Mô và Vĩ Mô, và là sự lý luận siêu việt mà không tôn giáo nào có được về lý giải sự Sinh-Diệt của các pháp ở cả Vi Mỗ lẫn Vi Mô nhưng, vâng lại nhưng, cả hai không đem lại lợi ích cho pháp Hành, con đường giải thoát, giác ngộ.

    (còn tiếp phần sau)
    Last edited by delightdhamma; 21-12-2010 at 02:16 AM.
    "Đừng tìm lỗi người. Nếu khi bạn chỉ cho họ thấy sai lầm của họ mà họ vẫn không sửa đổi, hãy để yên như thế. Ajahn Chah"

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Thích Thông Lạc giảng Pháp mà phỉ bán Phật ?
    By lamquochung in forum Đạo Phật
    Trả lời: 70
    Bài mới gởi: 22-07-2011, 08:03 AM
  2. Phép sám hối 12 đức phật
    By Cầu Trí Bát Nhã in forum Đạo Phật
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 16-06-2011, 10:43 PM
  3. SUY TƯ VỀ PHẬT GIÁO VÀ PHẬT ĐẠO
    By delightdhamma in forum Đạo Phật
    Trả lời: 61
    Bài mới gởi: 17-12-2010, 06:06 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •