PHẦN MỘ CỦA NGỌC HÂN CÔNG CHÚA
Trong phần trước, tác giả Trần Hữu Thành đã đưa ra các lời giải mã về việc Ngọc Hân Công Chúa vào trú ẩn ở vùng cù lao sông Cửu Long và mất nơi đây. Bà đã dắt con vào mai danh ẩn tích, làm ruộng rẫy ở vùng cù lao giữa sông Tiền và sông Hậu. Bà đã từng lên điện Ông Cấm núi Thiên Cẩm Sơn lánh nạn và tu hành rất lâu. Ta hãy nghe tâm sự của bà qua đoạn thơ sau trong Kim Cổ Kỳ Quan:
Dụng chi bạc lớn với chì
Vàng trao dạ ngọc, tu trì mới yên
Cửa thiền khó mở hai bên
Việc nào lập ý mới bền mới chân
Việc nào lập ý mới nhuần
Lòng không cần mẫn chẳng thuần phải hư
+ Thuần và Ý là hai từ trong tước hiệu Như Ý Trang Thuần Trinh Nhất Võ Hoàng Hậu của Ngọc Hân Công Chúa.
Nói ra trong dạ sụt sùi
Thân này chi khỏi trái mùi trên cây
May mà trôi nổi đến đây
Việc xưa chi khác việc nay chút nào
Quán trung ít kẻ ra vào
Tai nghe phường phố như tàu hưng binh.
(trang 172 Kim Cổ Kỳ Quan)
+ tàu hưng: chợ Cái Tàu, xã An Hưng
+ Quán trung: vua Quang Trung.
Bà Ngọc Hân đã âm thầm đau khổ nuôi con nên người, về sau người con của bà là Phật Thầy Tây An đã trở thành một vị Phật Bửu Sơn Kỳ Hương, có ảnh hưởng rộng khắp miền Nam. Cuối cuộc đời bà đã yên nghỉ tại rạch Cái Nai, qua bắc An Hòa, đi về chợ Cái Tàu Thượng thuộc xã Hội An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, bà đã di chúc nơi này là đất chôn bà.
E là quan cựu dân tân
Dân tân quan cựu, không phân chánh tà
Vô phần sanh sự bất hòa
Lao ngao chen cửa an tòa lại tây
Dại chi chẳng biết dại ngay
Vô tòa quan chúng hành thây vui mừng
Đặng kiện về nói tưng bừng
Đêm nằm chiêm nghiệm nhớ chừng mưu gian
Trong lòng trăn trở chẳng an
Âm mưu nhiều việc tính toan hoành hành.
+ hòa, an: bến phà An Hòa, ở Long Xuyên, tỉnh An Giang.
+ thây: ám chỉ hài cốt của bà Ngọc Hân.
Vào một ngày đẹp trời cuối năm 2005, một nhóm nghiên cứu gồm ông Trần Hữu Thành, GS Hồ Yêm, nhà nghiên cứu Kim Sơn lên đường đi tìm lại dấu vết người xưa.
Hiện nay toàn khu lăng mộ Bà, được cư dân địa phương gọi là chùa, là một quần thể hoàn chỉnh với hàng rào và hai cổng bên ngoài. Một cổng ghi chữ Việt “Mộ Bà” và cổng kia ghi chữ Hán “Mộ Bà Cổ Tự”. Vào trong sân lát gạch tàu là Mộ Bà không đắp nấm với tấm bia sơn đỏ không đề tên, có lẽ xưa là để nghi trang tránh tai mắt nhà Nguyễn rồi sau đó trở thành tập tục cho đến ngày nay.
Theo lời kể, ngày xưa mộ Bà ở Cái Nai không đắp nấm, tương tự như mộ Phật Thầy Tây An ở núi Sam, bốn góc chỉ trồng bốn cây bông trang trắng để làm dấu. Về sau, khi hoàn cảnh thuận lợi, mộ mới được làm bia và xây rào ngăn. Hằng năm, đến ngày giỗ 29/10 âm lịch đều có một nhóm khoảng bốn, năm người âm thầm đến viếng rồi lặng lẽ ra đi. Những người này là ai không rõ, và rất có thể là những quần thần xưa cùa con cháu nhà Tây Sơn. Chi tiết mộ Bà và mô Phật Thầy Tây An đều không đắp nấm mộ, khỏa bằng giống nhau, nếu không phải mẹ con làm sao chỉ có hai mộ khỏa bằng ở miền Tây này? Cách san bằng mộ rất đặc biệt này cũng cho chúng ta suy đoán là cách cẩn thận để nghi trang, hòng tránh sự trả thù của nhà Nguyễn.
TẤM BÀI VỊ HOÀNG LÊ
Vào trong chánh điện là bàn thờ có ghi chữ Phật Mẫu, Phật Thầy nhưng trong các khung kính vẫn không có hình ảnh mà chỉ là tấm vải điều. Không để hình ảnh là cùng lý do nghi trang như trên, nhưng tại sao lại là tấm vải điều ? Phải chăng đây là ngụ ý nhà Tây Sơn xuất thân từ “áo vải, cờ đào” của Ngọc Hân?
Nhưng điều thú vị muốn nhắc đến ở đây lại nằm ở phần sau chánh điện, nơi thông thường các chùa vẫn thờ tổ và chư tiên linh. Chính giữa phần thờ tổ ở đây là bàn thờ cũng có bài vị nền đỏ nhưng có ghi dòng chữ cho biết để thờ các vị trụ trì đã quá vãng. Nhưng ở bàn thờ kế bên, chúng tôi đã tìm được tấm bài vị "Hoàng Lê đường". Tấm bài vị bằng giấy hồng điều đã cũ lộng trong chiếc khung đơn sơ và cũng cũ không kém, có nội dung chữ lớn ở giữa:
Hoàng Lê Đường
Cung thỉnh
Hoàng Phủ chi
Lê Phủ vị
(Dịch nghĩa: Nhà thờ họ Hoàng Lê. Cung kính thỉnh linh vị Hoàng Phủ, Lê Phủ)
Ở hai bên phải, trái là hai hàng chữ nhỏ :
Hoàng đường phước huệ do tiên trạch
Lê phủ chi phái khải hậu nhân
(Dịch nghĩa:
Phước huệ họ Hoàng do nơi ân đức cũ.
Chi phái phủ Lê mở lối cho người sau)
Theo lời kể của cô Sáu, một người phụ nữ có nét đẹp đôn hậu hiện coi sóc chùa, tấm bài vị này có nguồn gốc từ lâu lắm, tại địa phương có ông bà phủ tên Bỉnh hay Vĩnh gì đó, rất giàu có nhưng lại không con, nên đã đem đất ruộng hiến cho chùa để chùa có lương thảo chi dùng. Sau khi ông bà mất, một thân nhân là ông Ba Chỉ, viết bài vị đem qua xin để nhờ tại chùa cho có nơi hương khói.
Theo thông lệ, người muốn được thờ tự ở chùa thường ghi rõ danh tính, tuổi tác, quê quán... thậm chí cả công đức với chùa, nếu có. Nhưng ở đây chỉ có mấy chữ lớn Hoàng Lê đường cùng Hoàng phủ chi, Lê phủ vị, đặt giả thiết rằng ông bà phủ nói trên có họ Hoàng và Lê, nhưng tại sao bài vị của một gia đình chức sắc danh giá như vậy lại chẳng ghi chút tên tuổi gì, trái hẳn với tập tục của thời phong kiến cũ?
Trong khi đó, hai chữ "Hoàng Lê" lại cho ta gợi nhớ đến tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí" nói về thời vua Lê chúa Trịnh xưa. Phải chăng đây cũng là một ẩn ý nữa xuất phát từ di ngôn của Ngọc Hân Công Chúa ?
NGÔI MỘ THÁP CÔ ĐƠN
Hiện nay bên hông trai đường của chùa có một ngôi mộ tháp cũ, lẻ loi trong khu vườn chuối nhỏ. Trên một mặt tháp là những dòng chữ chỗ mờ chỗ tỏ lại viết theo ẩn ý gì đó khó hiểu, nửa giống kiểu chữ điện tín, nửa không. Phía trên, thấy rõ mấy chữ “1997 NGS THI CAML” còn phía dưới không đọc rõ được. Còn bên trong trai đường, cũng có một nấm mộ vô danh nghe nói là người theo Bà.
Theo lời cụ Đặng Chín là cụ từ tiền nhiệm, năm nay đã 82 tuổi, già yếu răng không còn nên nói phều phào không nghe rõ phải nhờ cô con gái “thông ngôn”, thì đây là mộ tháp của bà từ coi sóc chùa từ những đời trước, có tên là Nguyễn Thị Cầm, tục gọi là bà Tám.
Đây cũng lại là một chi tiết lý thú vì tương truyền sau khi Phật Mẫu mất không lâu, có một cô gái trẻ đến xin làm từ, cứ ở vậy tu học và chăm sóc mộ suốt đời. Đến khi cô già yếu thì lại có cô gái khác đến xin thay và cứ thế mà truyền đến mấy đời sau, toàn là nữ. Mãi đến cụ Đặng Chín mới là nam nhưng đến nay đã già yếu, trao truyền nhiệm vụ lại cho con gái tức cô Sáu nói trên. Như vậy, phải chăng chúng ta lại có thêm một giả thiết nữa: cô gái đầu tiên đến xin giữ mộ chính là công chúa Nguyễn Thị Ngọc Bảo (con của Ngọc Hân) và những người kế tục chính là con cháu của các trung thần nghĩa sĩ Tây Sơn, vâng theo di ngôn của ông cha mà tiếp tục gìn giữ mộ phần thánh chúa ?
Phần sau chúng ta sẽ đi tìm tư liệu lịch sử viết về Ngọc Hân Công Chúa.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)







Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks