CÂU CHUYỆN LY MIÊU HOÁN CHÚA
Sách sử đã ghi rằng: năm Nhâm Tý 1792, vua Quang Trung mất, Ngọc Hân Công Chúa về chùa Kim Tiên ở gò Dương Xuân để tu, sớm hôm phụng viếng lăng mộ chồng ở điện Đan Dương, chính nơi đây bà đã viết bài Ai Tư Vãn khá nổi tiếng. Bà mất năm Kỷ Mùi 1799.
Nhưng nay các nhà nghiên cứu giải mã sách Kim Cổ Kỳ Quan lại thấy rằng sự thật không phải như thế, chúng ta sẽ ngạc nhiên với sự thật câu chuyện Ly Miêu Hoán Chúa.
Thơ rằng :
Đào chồng (1) đoạt vợ (2) thiêu con trẻ (3)
Tuyệt giống Quang Trung dạ mới nghe
Quỷ kế dâm tàn con thú dữ
Tôi trung đốt ngục tế con mình
(1) Đào chồng: năm 1801 vua Gia Long cho đào mộ vua Quang Trung, lấy xương nghiền bột, trộn với thuốc súng bắn ra biển, ba anh em đều như vậy, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Còn sọ 3 anh em giam vào ngục và cho quân sĩ tiểu vào.
(2) Đoạt vợ: vua Gia Long muốn giữ lại Ngọc Hân Công Chúa ở cung Dịch Đình, mặc dù bị tôi thần ngăn cản. Cuối cùng Ngọc Hân phải theo kế của La Sơn Phu Tử, nhờ em nuôi của mình là Trần Thị Ngọc Minh (rất giống Ngọc Hân) bí mật tráo hôn.
(3) Thiêu con trẻ: vua Gia Long hạ lệnh cho Ngô Văn Sở đốt ngục, giết con của vua Quang Trung với Ngọc Hân Công Chúa cùng với các trung thần nhà Tây Sơn. Gần đây các nhà sử học tìm được những lá thơ của một giáo sĩ kể lại cuộc thăm các tù nhân Tây Sơn, trong đó có các con của vua Quang Trung và Ngọc Hân Công Chúa. Một trai khoảng 12 tuổi và 1 gái khoảng 10 tuổi.
Trong Kim Cổ Kỳ Quan đã trả lời chúng ta :
Do thiên đại phú an cư
Do cần tiểu phú gia tư cơ bài
Thủy minh thổ phú trợ trần
Quân sư văn võ kim toàn
Ngô Văn Sở được vua Quang Trung phong chức Đại Tư Mã, sau đó còn được phong Thủy Sư Đô Đốc. Ông là người đã từng kết nghĩa với Nguyễn Huệ lúc hàn vi ! Năm 1792, ông được tiến chức Đại Đổng Lý, tước Quận Công, nhưng sau đó do tranh giành quyền lực nên Thái sư Bùi Đắc Tuyên triệu ông về Phú Xuân tìm cách giết và cho lệnh dìm ông dưới sông.
Trong Đại Nam Chính Biên liệt truyện, sử triều Nguyễn còn ghi Ngô Văn Sở đã trốn thoát khỏi cuộc tương tàn tranh quyền hành của triều Cảnh Thịnh suýt bị dìm xuống sông chết và vào đầu quân cho vua Gia Long, lập nhiều công to, âu cũng là số trời. Nhờ vậy mà vua Gia Long mới tin dùng giao cho việc đốt ngục, nhờ đó nên giây phút cuối cùng mới có duyên cứu được các con Ngọc Hân. Ngô Văn Sở đã hy sinh con của mình để thế mạng hai con của Quang Trung và Ngọc Hân công chúa, cho trọn tình huynh đệ cũng là trọn đạo Quân Thần.
Từ câu chuyện trên, “Kim Cổ Kỳ Quan” đã hé cho chúng ta thấy thêm “Nghĩa Quân Thần, Nghĩa Vua Tôi” là Đạo lớn nhất trong thời phong kiến. Có những trung thần có thể hy sinh mạng sống của bản thân hoặc của vợ con mình, đã dùng kế “ly miêu hoán chúa” thay con mình vào đó để cứu con của vua.
Phóng hỏa thiêu sống con mình
Quân thần đại nghĩa mặc tình ra sao
NGỌC HÂN VÀ CÁC CON VỀ ĐÂU
Năm 1801, nhà Tây Sơn bị vua Gia Long tru di cửu tộc, tuy nhiên cho mãi đến ngày nay rất nhiều nhà sử học, các nhà báo, các lời truyền khẩu ở Phù Ninh, vẫn không biết Bắc Cung Hoàng Hậu (Ngọc Hân) và hai con ra sao.
Cho đến năm 1996, mới tìm thấy lời giải trong cuốn sách Kim Cổ Kỳ Quan:
Đờn kêu lập đạo mười lăm
Đờn kêu lời thánh minh tâm dặn dò
Đờn kêu tự đinh tưởng đưa đò
Đờn qua Tây quốc vọng hò Nam bang
Đờn kêu từ giữ cội một mình
Đờn kêu trách bấy lộng tình cho ai
Đờn kêu thương ách nước không vua
Đờn kêu cay đắng chát chua cho đời
Tiền thủy liễu, hậu cây bần
+ Đạo mười lăm được hiểu là đạo Phật vì thường lấy ngày rằm là ngày cúng Phật, ý ở đây nói nên mở một mối đạo Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương.
+ Đinh Tưởng: tướng họ Đinh, rất có thể là Đinh Tích Nhưỡng, một trung thần của vua Lê Hiển Tông, cha của Ngọc Hân Công Chúa, từng chống Tây Sơn, sau về với Tây Sơn. Vậy người bảo vệ cho mẹ con bà Ngọc Hân trốn thoát có thể là viên quan họ Đinh này.
+ trách bấy lộng tình cho ai: ám chỉ vua Gia Long muốn giữ bà Ngọc Hân.
+ ách nước không vua: ý chỉ vua Quang Trung băng hà.
+ Tiền thủy liễu, hậu cây bần: ý nói hoàng hậu cải dạng thường dân bần khổ.
Nhưng làm sao bà đã thoát khỏi vòng lưới bao vây của kẻ thù? Thật sự, bà đã giả chết ở quê mẹ, rồi bí mật thay hình đổi dạng đưa con vào miền Nam. Sự giả chết đó được biểu hiện qua câu thơ sau:
Thác còn, sống mất đường đi sỏi sành
Giả thác mới có thể tồn tại, sống như mọi người trước sau cũng sẽ bị triều đình Gia Long tìm cách sát hại.
Sách Kim Cổ Kỳ Quan viết :
Phật ra xem thế tiền giang
Sông mê bể khổ chẳng an lòng nào
Ngược xuôi khôn quỷ hỗn hào
Cao bay xa chạy đầu vào trôn ra
+ vào: tức là vào phía Nam.
+ ra: tức là ra phía Bắc.
Nhắc lại, khi mẹ con Ngọc Hân được cứu thoát về quê mẹ ở làng Phù Ninh, giả chết lập mộ giả rồi cùng các con trốn vào miền Nam, theo kế của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp.
NGỌC HÂN LÊN NÚI ẨN TU
Chúng ta lần theo Kim Cổ Kỳ Quan để theo dõi bước chân của bà, tác giả viết trang 114 sách Kim Cổ Kỳ Quan:
Nam kỳ từ giã Bắc kỳ
Trai ngay thờ chúa, gái trinh thờ chồng
Thế suy cầu Phật hội đồng
Trung can nghĩa khí, giữ lòng tự nhiên
Đoạn này chứng tỏ mẹ Phật Thầy quyết thờ chồng trọn đạo. Vì thời cuộc gia tộc suy vi, nên giã từ miền Bắc để vào Nam lánh nạn. Nỗi niềm thương nhớ chồng và quê hương, cùng sự gian nan của bà được biểu lộ qua đoạn thơ sau trang 107:
Linh đinh sóng gió dập dồn
Thương non nhớ biển đứng ngồi không an
Phật mang tám nạn dương gian
Người ba tai nạn chẳng than trong lòng
Chữ non, nghĩa là núi, ý chỉ Tây Sơn.
Hoặc trang 111:
Linh đình thuyền bá giữa vời
Buồm đà gặp gió xuôi thời phải xuôi
Nước mắt còn dựa mắt đui
Buồm đà gặp gió thả xuôi một bề
Thân tôi như thể thằng hề
Gió day mấy hướng, mấy bề cũng theo
Nực cười tấm đá cheo leo
Con khỉ người nói, con heo khó bàn
Dốc lòng chí tử quy tây
Trời chiều ác lặn, vận may đỏ đèn
Liều thân chi chữ khó hèn
Vượt nguồn nước đục, lóng phèn cho trong
+ mắt: mục, ám chỉ tên Nguyễn Quang Mục của Phật Thầy.
+ quy tây: về miền Tây.
Hai đoạn trên chứng tỏ mẹ của Phật Thầy đã gian nan, vất vả, thay hình đổi dạng nghèo khổ để đi thuyền vào miền Nam cùng với con lánh nạn, trải qua bao phen sóng dập gió dồi. Điều đó càng chứng minh đoạn kinh sau :
Ơn cao nghĩa rộng tròn niềm
Có lòng Trời Phật lại tìm chúng sanh
Bất tường ẩn tích mai danh
Dù ai đặng chữ công danh thời nhờ
Nam mô thiếu trí dại khờ
Gió Nam, sóng Bắc dật dờ hồn ma.
Hiển nhiên do hoàn cảnh bất tường nên bà phải đưa con thơ dại từ miền Bắc vào Nam để ẩn tích mai danh, lẩn tránh trong bóng tối như một hồn ma bóng quế, sợ kẻ thù phát hiện. Vào được miền Nam rồi, bà lại đưa con thơ lên vùng núi non, hoang vắng để tu học, lánh xa người đời, vì lúc nào cũng có lưới giăng của kẻ thù. Tác giả Kim Cổ Kỳ Quan viết :
Non cao thú dữ muôn ngàn
Nghiêng vai gánh đạo, tầm đàng Tây phương
Sợ đàng lưới nhện vấn vương
Dốc lòng giữ đạo tầm phương non bồng
Sơn khê đá dựng chập chồng
Còn lo một nỗi khéo lòng khó đi
Chim kêu vượn hú tử quy
Thác còn sống mất, đường đi sỏi sành
Sự kiện mẹ con Phật Thầy đã lên vùng Thất Sơn ẩn tu thể hiện trang 111 Kim Cổ Kỳ Quan:
Ngó lên cấm điện Thất Sơn
Ngùi ngùi nhớ Phật, từng cơn hiểm nghèo
Gian nan xuống dốc lên đèo
Người khôn mắc chốn hiểm nghèo hết khôn
Quyết lòng ra ngoại Càn Khôn
Người hiền bao nỡ Phật chôn trí tài
Qua hai đoạn trên, cho thấy mẹ Phật Thầy Tây An đã vất vả, gánh ông đạo con về vùng Thất Sơn, điện ông Cấm (Thiên Cẩm Sơn), để lánh nạn và tu trên đó. Từ đầu đến đây tác giả quyển Kim Cổ Kỳ Quan đã cho phép chúng ta vén bức màn bí mật trang 157 Kim Cổ Kỳ Quan:
Nghiêng vai gánh Đạo dương trường
Quạnh hiu uốn khúc nẻo đường gay go
Éo le nhiều chỗ khó lo
Thủ trung thất hiếu biết lo sao toàn
Hiếu trung gánh nặng hai đàng
Lỡ bề báo hiếu lỡ tràng lập thân
Cơ hàn thất hiếu lỗi ân
Nguyện cùng tiên tổ lập thân minh tường
Tử tôn kế hậu gia thường
Nhơn từ đức hạnh lập tường quốc gia
Hữu Phật diệt tất hữu ma
Hữu tà hữu chánh thiết tha tài tình
Phật tâm, tâm Phật cho minh
Lòng ma dạ quỷ đọa hình Diêm La
Tưởng ơn trời Phật mẹ cha
Làm con hiếu đạo quốc gia yêu dùng
Thương người trung nghĩa khôn cùng
Thuyền quyên sánh với anh hùng kém chi
Đào Lư công chúa phương phi
Hồng Mao công chúa kém đi sắc tài
Nhật Bổn công chúa hớn hào
Xiêm Vương công chúa sắc tài phương phi
Bắc Kinh công chúa hậu ly
Đuổi về trấn quốc, tiền khi bất hòa
Ngũ long giao chiến nước nhà
Nhất nương bất hiệp, giao hòa tứ nương
Vạn niên khắc cốt ghi xương
Vạn niên tích đức vi lương tùng quyền
Khán tường trở hậu lập tiền
Trở tiền lập hậu, nhơn tiền an khương
Nước nhà như ngựa buông cương
Xem trong lê thứ càng thương nước nhà
Trong đoạn thơ có rất nhiều lần nhắc đến các từ chốn cung vàng điện ngọc như: công chúa, thuyền quyên, tùng quyền, trung nghĩa, nhà Lê: ám chỉ công chúa nhà Lê.
+ trung hoặc anh hùng: ám chỉ vua Quang Trung.
+ gánh đạo: ám chỉ mẹ Phật Thầy đưa con lên núi.
Nội dung của đoạn thơ trên ngầm ám chỉ Công Chúa Lê Ngọc Hân vì chữ hiếu, nghe lời cha mẹ, kết duyên cùng với Nguyễn Huệ, thành một đôi “anh hùng sánh với thuyền quyên”, trai tài, gái sắc. Với câu “Bắc Kinh công chúa hậu ly” ý nói công chúa ở miền Bắc rời bỏ cung điện.
Như vậy đến đây có lẽ tạm đủ để chúng ta có thể thấy rằng cuốn sách Kim Cổ Kỳ Quan của tác giả Nguyễn Văn Thới, tức ông Ba Thới, một đạo sĩ trung thành của Bửu Sơn Kỳ Hương, đã tài tình ẩn dấu nhiều câu chuyện lịch sử quan trọng về phàm thân của Đức Phật Thầy Tây An, chính là con của vua Quang Trung và hoàng hậu Ngọc Hân.
Công chúa Ngọc Hân là một người trung trinh tiết liệt, trọn đạo thờ chồng. Dòng lịch sử thăng trầm đã không cho Bà được trọn đời bên cạnh vua Quang Trung, nhiều thế hệ qua chúng ta rất đồng cảm với Bà qua bài thơ Ai Tư Vãn (tế vua Quang Trung). Nhưng ngày nay chúng ta được biết thêm về Bà, đã có công đức vô lượng với Đạo, là người mẹ giáng sinh của Đức Phật Thầy Tây An, người đã khai sáng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
Chúng ta sẽ tiếp tục đi tìm mộ phần của hoàng hậu Ngọc Hân ở phần sau.
Bookmarks