CHƯƠNG III: Các vị đại đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An

5- Ông Đạo Ngoạn (1820 1890)

A. Thân Thế

Ông Đạo Ngoạn nguyên danh là Đặng Văn Ngoạn, sanh năm Canh Thìn (1802) nhằm Minh Mạng nguyên niên. Theo quyển « Đạo Ông giảng tập » bằng văn nôm, chép theo thể thượng lục hạ bát, lời lẽ thận trọng đáng tin cậy nhưng không rõ tác giả là ai, thì ông Ngoạn là một trong « thập nhị hiền thủ » của Đức Phật Thầy Tây An ngày xưa. Chính thế mà thời nhân quen gọi ông là ông Đạo Ngoạn.

Sinh quán ông tại làng Nhị Mỹ, tổng Phong Thạnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Đồng Tháp). Trong lòng sông Cần Lố, thuộc xẻo rạch Trà Bông (Đồng Tháp Mười).

Ông có ba đời vợ. Vợ đầu tiên tên Thị Nhị, vợ giữa là Thị Thu, vợ sau tên Nguyễn Thị Huê (?). Vợ đầu bà vợ giữa không con. Vợ sau tức là Thị Huê, ở với ông chỉ sanh được một trai là Đặng Công Hứa. Hiện nay Công Hứa còn sống, tuổi thọ được 76, nối chí cha và đang trụ trì tại chùa Trà Bông (1).

Năm ngoài 20 tuổi, ông Ngoạn còn một mẹ già, một người anh và một em gái. Sau khi đã cần mẫn làm ăn lập được một khoảnh ruộng vườn khả dĩ nuôi sống đủ gia đình, ông xin phép mẹ cho thong thả tìm nơi dưỡng tính tu tâm, vì ông cảm thấy « lòng bồ đề của mình đã bắt đầu nảy nở ». Mẹ ông thuận cho. Ông liền vào rạch ông Bường, lựa một nơi thanh vắng để tịnh niệm.

Trong thân tộc của ông có người ghét bỏ đến cáo với làng rằng ông ngầm mưu làm chuyện bất lương chứ không phải thực tâm tu tỉnh. Làng bắt ông ra nhà việc Cây Me (bây giờ là Doi Me) để tra hỏi. Anh ông là Bổn Chính hay tin phẩn nộ không cùng, Chính đến nhà làng Phản đối rồi cũng bị bắt luôn.

Bấy giờ có người bà con với ông có thế lực, đang làm chức Quản Khám tại Mỹ Trà (Cao Lãnh) đến can thiệp nên hai anh em ông được tha. Từ đó ông Ngoạn buồn lòng, lập chí về non tu tỉnh để tránh cuộc đời dua mị đê hèn của thế nhân chen lấn.

B.Đến núi Sam

Tháng chạp năm canh Tuất (1850) khi biết tin Đức Phật Thầy Tây An được phép nhà cầm quyền tỉnh An Giang cho vào núi Sam truyền đạo, ông Ngoạn liền từ giã mẹ, tìm đến tận nơi để xin quy y. Với bẩm chất hiền lương điềm đạm, mới đầu ông được Đức Phật Thầy ủy cho vào núi Voi hiệp cùng ông Bùi Văn Thân, tức Tăng Chủ Bùi Thiền Sư mở ruộng lập nhà, chùa rồi 14 tháng sau, ông được Đức Phật Thầy đổi về núi Sam hiệp cùng ông Đạo Thạch để giúp Ngài trong việc phát phù trị bịnh và xem sóc trong chùa Tây An.

Trong thời gian ở đây, ông được Đức Phật Thầy tin yêu lắm. Đến những chuyện truyền đạo và thù tiếp với những bậc nho giả bốn phương, Đức Phật Thầy nhiều khi giao phó cho ông được trọn quyền định liệu.

C. Trở về Trà Bông


Suốt bốn năm theo hầu hạ bên Thầy để học điều đạo nghĩa, ông Ngoạn tự thấy tâm hồn nhẹ nhỏm vui tươi. Bỗng một hôm, Đức Phật Thầy kêu ông lại gần mà bảo phải trở về Trà Bông để « bảo dưỡng mẹ già » và phải « tìm nơi kết tóc » để sanh con nối hậu, vì nợ trần của ông còn nặng. Tuân lịnh Thầy, nhưng ông Ngoạn còn bịn rịn, xin nán lại ít ngày để thu xếp công việc trong chùa rồi sẽ trở về quê quán.

Chuyện bay ra ngoài, Thị Nhị là một tín đồ của Đức Phật Thầy, bấy lâu lo việc nấu nướng ở liêu sau, nghe tin bèn đến tận mặt ông Ngoạn nguyền xin trọn đời theo ông để « nâng khăn sửa trấp ». Ông Ngoạn bằng lòng. Hai người dẫn nhau đến trước Đức Phật Thầy trình bày ý định và xin Ngài cho phép đi về Trà Bông.

Đức Phật Thầy nói: « Việc ấy tùy ý các con. Nhưng sau nầy, riêng Đạo Ngoạn phải chịu nhồi quá: nghèo nàn đến nổi vận khố, đi giữa chợ đông, khốn cùng, đến đỗi trèo non lội suối để trốn tránh, cho đến năm 60 tuổi mới được thảnh thơi nhàn hạ ».

Ngày rằm tháng 7 năm Giáp Dần (1854) ông Ngoạn cùng vợ rời núi Sam, về Trà Bông viếng mẹ rồi lập một ngôi chùa tại vàm. Từ ấy chuyên lo chữa bịnh và phổ thông mối đạo.

D. Mối oan khiên


Với phương tiện tại gia cư sĩ và học Phật tu nhân, ông Ngoạn nhất đán đã thu phục được hàng ngàn tín đồ. Vì thế Thị Nhị sanh lòng lợi dụng, thâu nạp của tiền, vật thực, chứa đựng đầy rương đầy lẫm. Mặc dù ông Ngoạn đã hết lời giảng dứt cấm ngăn, Thị Nhị vẫn làm liều không kiêng nễ chi hết.

Một ngày kia chùa bỗng dưng phát hỏa, cháy sạch của tiền mà Thị Nhị bấy lâu dành trữ. Kế tiếp, nạn binh lửa do Pháp vào chiếm đóng Nam Kỳ tràn lan khắp nơi, ông Ngoạn cũng như muôn ngàn người khác, phải đem gia đình truân chuyên lánh nạn.

Năm 1867, quân Pháp cưỡng chiếm 3 tỉnh miền Tây và lập trật tự ở Nam Kỳ, ông Ngoạn trở về dựng lại chùa xưa, bổn đạo quy tụ rất đông, sự chữa trị của ông càng linh mầu hơn trước nữa.

Phen nầy Thị Nhị thâu thập của tiền đem về gởi cho quyến thuộc, lại còn sanh tâm chống báng với ông Ngoạn mọi điều… Tín đồ của ông Ngoạn thấy vậy không dằn được lòng căm tức, yêu cầu ông cản ngăn. Thị Nhị thấy thế lại càng kiếm chuyện hành hung, buộc ông Ngoạn phải giao hết chùa chiền, giao hết quần áo đang mặc trong mình chớ không được chừa lại một món chi cả. Nhị viện lý là nhờ công của mình chắc mót.

Ông Ngoạn chỉ còn tay không với một cái quần đùi, để mặc ý cho Thị Nhị dở chùa chở đi nơi khác, ông chẳng hề hở môi phàn nàn than trách.

Tín đồ của ông rất đổi thương tâm, xúm nhau kẻ giúp lá người cho cây và ra công cất lại cho ông ngôi chùa khác.

Nhưng oan quả vẫn chưa thôi, Thị Nhị sai khi dở chùa về cất tại giòng Thá La gần đó lại đến bắt ông về ở. Túng quá, ông Ngoạn chẳng biết làm sao với người ngoan phụ, chẳng lẽ mình tu hành mà mãi rầy rà, ông liền ẩn lánh lên miền Thất Sơn, với ý định là mong Thị Nhị quên ông, hay có chồng khác đi cho ông khỏi bận.

Nhưng sau đó ít hôm, Thị Nhị dò biết được tin, bèn gom góp của tiền, lên núi Két là chỗ địa cầu của Thất Sơn, cất am ở đó để chận đón ông Ngoạn.

E. Sang Tà Lơn

Biết là chuyện không hiền, ông Ngoạn sau khi chu du cùng khắp Thất Sơn, ông kết bạn với ông Tường (không rõ người gốc tích ở đâu) rồi rủ ông nầy sang Tà Lơn tìm nơi tỉnh dưỡng.

Trong khoảng ở Tà Lơn, ông luyện được rất nhiều phép thuật. Có bận ông bảo ông Tường đem rỗ của ông đã đươn được trên non xuống Sốc Thổ để đổi gạo về ăn. Ông Tường sợ lạc đường, lại sợ thú dữ nên từ chối không đi. Ông bảo ông Tường cứ đi, ông sẽ cho hùm thiêng dẫn lối. Ông Tường đánh bạo ra đi. Thế là quả thật, có cọp đi trước kêu chừng và giữ gìn cho ông Tường một cách cẩn thận.

Ở Tà Lơn một độ. Ngày kia thình lình ông Ngoạn rơi lụy mà boả ông Tường rằng: « Chư thần cho tôi hay: hiện nay mẹ tôi ở nhà đau nặng, đang nguyện vái và mong mỏi tôi về. Vậy chú liệu xem có thể một mình ở lại hay cùng về với tôi ?».

Ông Tường nghe sao hay vậy chớ trong lòng bán tin bán nghi. Nhưng khi hai người về đến Trà Bông thì quả thật, thân mẫu của ông Ngoạn còn đang trầm kha trên giường bịnh.

F. Lên núi Két


Lo thuốc thang cho mẹ vừa mạnh, ông Ngoạn lại phải nghĩ đến việc mưu sinh, vì lúc nầy, đúng y như lời Phật Thầy mách trước ngày xưa, ông Ngoạn thật nghèo nàn vất vả, chỉ có một cái khố rách che thân mà thôi. Ông phải lên núi Két hái thuốc, nấu thuốc cao, thuốc dán để đổi kiếm chút tiền nuôi mẹ và độ hồ khẩu cho mình. Hồi nầy Thị Nhị đã trở về giòng Tha La, ông không còn lo vì sự trở ngại lôi thôi ở núi Két nữa.

Theo tài liệu trong « Đạo Ông giảng tập » thì khoảng nầy ông Ngoạn hiệp cùng ông Bùi Văn Thân ông Cả Lăng, ông Chủ Dương, chấn chỉnh tại chùa chiền trong làng Hưng Thới. Và cũng chính lúc nầy ông bí truyền tâm pháp cho ông Từ Đọt (hay từ Lão) một đệ tử của Đức Phật Thầy – và dặn dò công việc truyền đạo cho ông nầy trước khi ông Ngoạn rời khỏi Thới Sơn.

G. Dựng lại chùa Trà Bông

Rời Thới Sơn, ông Ngoạn trở về Trà Bông viếng mẹ. Một hôm, mẹ bảo rằng: Mẹ nghĩ con thì tuổi một ngày một lớn; mà mẹ thì mỗi lúc một già, nay mai mẹ nhắm mắt rồi, mẹ sẽ không vui lòng mà để con ở lại với cảnh lao đao khổ cực như vầy mãi mãi. Nên mẹ đã lựa cho con một chỗ tại làng Mỹ Long, con hãy sớm mà lo lập lại cho rồi gia thất.

Vâng lời mẹ, ông Ngoạn xuống Mỹ Long cưới vợ. Bà ấy tên là Thị Thu: tánh nết thuần hòa, dung tư đứng đắn. Không bao lâu bà đã lo làm lụng có một số vốn và mua muối đổi được một số lúa khá nhiều. Bà định giúp ông Ngoạn để dựng lại chùa chiền, chấn bưng đạo đức.

Nhưng Thị Nhị với tấm lòng sâu độc, đem ghe từ giồng Tha La xuống Cái Sao Hạ (Mỹ Long) a vào nhà chở hết lúa và muối mà bà Thu đã dày công dành dụm. Thấy việc quá ngang trái, Hương Chủ Sắc là người có thế lực nhứt trong vùng, đến cản ngăn và thóa mạ Thị Nhị, nhứt quyết không cho chở lúa. Ông Ngoạn thấy vậy can ông Chủ Sắc và tự nhận là nghiệp quả của ông, vì theo lời tiên tri của Đức Phật Thầy, đến năm 60 tuổi sắp lên ông mới được thong dong rổi rảnh. Ông Chủ Sắc không biết tính sao, vì không có nguyên cáo, ông đành để cho Thị Nhị tự ý tung hoành.

Nhưng trời vẫn còn tựa người lành, bà Thu lại ra sức làm lụng nuôi mẹ giúp chồng, ít lâu tiền bạc có dư, bà theo ông Ngoạn về Trà Bông cất lại ngôi chùa ngay nền ngày trước, mà ông Ngoạn vì lánh Thị Nhị đã bỏ hư, và nổ lực vung trồng ruộng phước.

Bổn đạo nghe tiếng trở về thăm viếng và nghe thuyết Pháp rất đông. Nhưng công cuộc phổ truyền đạo đức đang tiến hành hiệu quả thì bỗng bà Thu mang bịnh ngặt mà qua đời. Ông Ngoạn lại phải một phen bận lòng lo lắng. Ông giao hết của cải của bà Thu cho hai người cháu là Hai Nhẫn và Bảy Truyền rồi đóng cửa mà chuyên lo kinh kệ. Năm ấy ông ngoài 50 tuổi.

H. Chữa bệnh thời khí

Năm Giáp Tuất (1874), bệnh thời khí hoành nhiều nơi làm cho nhân dân nhộn nhàng kinh sợ không làm ăn được. Hương chức làng Nhị Mỹ thấy thế hội nhau bàn tính, rồi kéo đến chùa Trà Bông thỉnh cầu ông Ngoạn chữa trị.

Vốn sẳn lòng đạo đức, lại giỏi về khoa cứu chữa bịnh nầy từ khi còn gần gủi bên Đức Phật Thầy, ông Ngoạn liền đem hết năng tài thi thố. Công hiệu của sự trị binh và quần chúng kéo tới đông đảo thế nào, thiết tưởng đoạn văn dưới đây trong tập « Đạo Ông giảng tập » đủ miêu tả rõ.

Đạo ông pháp thuật gắn keo,
Ra oai Phật lực cứu điều muôn dân.
Chuyển xoay kinh chú như thần,
Ôn hoàng dịch khí một lần phải kiêng.
Phù linh hay tợ thuốc tiên,
Phun đâu giải đó mạnh liền như xưa.
Tổng nào tỉnh ấy đều ưa,
Biết bao nhiêu kể người ta đông vầy.
Kẻ lui người tới dẫy đầy,
Dòng sông chật nức ghe cây chen luồn.

Sự đông đúc hiện giờ đến đổi làm cho quân Pháp ở Định Tường kinh sợ. Họ xuống lệnh cho nhà chức trách ở Sa Đéc quan sát coi nếu thật là gian đạo sĩ « hội dân làm loạn thì cấp tốc bắt ngay ». Nhưng lúc này giới hữu quyền ở đây phần nhiều đều cảm phục uy đức của ông Ngoạn, họ mật bàn với nhau, thỉnh sắc thần đem về để sau hậu tổ chùa Trà Bông rồi báo về tỉnh đường rằng sự tụ hội đông đảo là để cầu an bá tánh và cúng thần chớ không chi lạ. Nhờ vậy mà từ ấy sự lui tới của dân chúng mới yên. Ngày nay tại chùa Trà Bông vẫn còn để thờ Long Đinh, ấy là nếp cũ ngày xưa vẫn còn roi dấu.

I. Sanh còn và tịch diệt

Từ khi bà Thu là vợ giữa của ông Ngoạn mất đi, ông không hề nghĩ đến việc tục huyền nữa. Nhưng mẹ ông không nghe, thường dạy ông lấy vợ để sanh con nối hậu.

Nhớ lời Thầy xưa và tuân theo lệnh mẹ, ông Ngoạn cưới bà Nguyễn thị Huê ở rạch Cái Vừng (thuộc làng Nhị Mỹ) về coi sóc trong ngoài và sớm hôm nuôi dưỡng từ mẫu. Bà nầy đức độ thanh cao, làm ăn giỏi giắn. Trong việc giúp đỡ bịnh nhân và tiếp đãi tín đồ của ông Ngoạn lúc sau nầy, một phần lớn nhờ ở bàn tay của bà giúp sức.

Căn cứ theo bài du ký Đế Thiên (có lẽ là của ông Đặng Công Hứa) thì năm ông Ngoạn đúng 60 tuổi, tức là năm Canh Thìn (1880), ông nằm mộng thấy có Khổng tước bay đỗ vào lòng, rồi trong năm ấy bà Huê thọ thai và sanh hạ một trai. Nhân thấy điềm ứng chim công, ông Ngoạn theo đó mà đặt tên con là Đặng Công Hứa. Cuộc đời sóng gió của ông Ngoạn trước kia từ nay không còn có nữa. Ông sớm chiều thong thả giảng đạo xem kinh, tịnh niệm và tu bồi công đức.

Tết Canh Dần (1890), giữa lúc có tín đồ tựu về lễ Phật đông đủ, ông Ngoạn vui vẻ nói: « Trong năm nay, chúng đệ tử sẽ không còn gặp mặt ta nữa. Vậy mỗi người cứ trì tâm đạo tác phước điền, chớ khá vì chẳng ai nhắc nhở mà lảng xao bổn phận ». Tín đồ nghe nói biết là lời trối nên đau đớn bịn rịn chẳng chịu ra về, ông phải đem thuyết « hữu hình tắc hoại » ra giảng giải, ai nấy mới chịu an lòng nghe theo.

Ngày 19 tháng 2 năm ấy, ông tắm gội sạch sẽ rồi ngồi niệm Phật mà tịch diệt, thọ được 70 tuổi. Tín đồ xúm nhau chôn cất và thương xót vô cùng, có người ở lại Trà Bông đến ba năm để săn sóc và bồi đắp chung quanh nắm xương tàn của người liễu ngộ cho thỏa lòng luyến tiếc.

Qua mười năm khói lửa, ngôi chùa Trà Bông đến giờ hãy còn giữ được nguyên vẹn phong độ uy nghiêm, mặc dù cây cối quanh chùa đã phải nhiều phen đương đầu với sự tàn phá của miểng bom oanh tạc.