Khi Đường Nhỏ học xong, Phật bảo ông: “Bây giờ con không phải chùi giày cho các vị tỷ kheo nữa. Hãy vừa lau quét chùa vừa đọc câu ấy.” Do thần lực của Phật nữa cái nền bên trái ông vừa lau xong, thì nửa bên phải lại dơ. Lau nữa bên phải xong thì nữa bên trái lại đầy bụi dơ như cũ. Nhưng Đường Nhỏ vẫn kiên trì, và trong lúc lau quét, tất cả nghiệp chướng ông được thanh lọc. Khi ấy ý nghĩ này khởi lên nơi ông: “Bậc đạo sư, ‘hãy từ bỏ bụi dơ, hãy gột rửa cấu uế’ là ngài muốn nói cấu uế nội tâm hay ở ngoài? Và tâm ông khởi lên bài kệ sau đây,mà ông chưa từng nghe trước đấy:
Tham ái là cấu uế, không phải bụi;
Cấu uế là chỉ cho tham ái, không phải bụi
Bậc trí tẩy trừ loại cấu uế này,
Thận trọng tuân giữ giáo huấn của đấng Thiện Thệ.
Sân hận là cấu uế, không phải bụi,
Cấu uế là chỉ cho sân, không phải bụi
Bậc trí tẩy trừ loại cấu uế này.
Thận trọng tuân giữ giáo huấn của đấng Thiện Thệ.
Si mê là cấu uế, không phải bụi…
vân vân. Ông đi sâu và những bài kệ ấy, và nhờ thiền định ông đạt quả vị A la hán.
Trong kinh, bài kệ ấy như sau, theo những bản nghi thức chuẩn bị và chỉ giáo truyền khẩu:
“Cấu uế” không phải là bụi trên đất
Mà đấy là cấu uế tham ái.
Khi thực hành thì bài kệ này dễ hiểu hơn, nhưng ta cũng nên trở lui về nguồn gốc của nó.
Khi ấy đức Phật tuyên bố cho chúng tăng biết những đức hạnh của Đường Nhỏ và bảo: “Này A Nan, hãy nói với Đường Nhỏ đi giáo giới cho tỷ kheo ni, và đến bảo ni chúng rằng, từ nay Đường Nhỏ sẽ là giáo thọ sư của họ.”
Đường Nhỏ biết Đức Phật đã công bố những đức hạnh của mình, nên ông hứa sẽ tuân lệnh đi giáo giới cho tỷ kheo ni.
Các tỷ kheo ni vô cùng kinh ngạc trước tin ấy, họ nói: “Hãy xem bọn nữ lưu chúng ta bị chọc quê như thế đấy. Ông ta học một bài kệ ba tháng không thuộc, làm sao lại đi giáo giới cho chúng ta những người tinh thông ba tạng?”
Sau đó một cô đề nghị: “Chúng ta sẽ làm cái gì để từ nay về sau khỏi phải chịu những kẻ ngu ngốc như thế.” Mười hai người họp lại làm một cái tòa giảng thật cao, nhưng không có bực cấp nào để bước lên cả. Những người khác thì đi vào đại thành Xá Vệ loan báo với dân cư rằng: “Ngày mai có bậc giáo thọ sư của chúng ta đến viếng thăm. Vị này là một trong những bậc thánh lớn nhất trong hàng Thanh văn. Chúng ta sẽ nghe Pháp do vị ấy giảng. Người nào chưa đến vị kiến đạo phải đến nghe, nếu không sẽ trôi lăn lâu dài trong sinh tử.”
Hàng trăm ngàn người đến nghe giảng. Một số đi để giải trí, một số khác đi để kiếm công đức. Hôm ấy Đường Nhỏ ra đi khất thực. Sau khi tất cả đã ăn xong ngồi thiền, ông dẫn những tỷ kheo còn lại trong chùa cùng đến chỗ an cư mùa mưa của ni chúng, nơi ông phải đến để giáo giới. Khi đến gần pháp tòa, thấy nó quá cao, ông nghĩ, “Hoặc là họ quá kính trọng ta, hoặc họ muốn thử ta. “Ông nhập định quán tưởng thì biết là họ muốn thử. Đường Nhỏ duỗi cánh tay ra như một con voi đưa ra cái vòi để hạ pháp tòa ấy xuống. Một vài người trông thấy điều này, một số không thấy. Ông ngồi trên tòa rồi lại nhập định. Đường Nhỏ thăng lên hư không và thi triển bốn thứ thần thông tại mỗi nơi trong bốn nơi chính đông, tây, nam, bắc. Những thần thông được thâu hồi lại vào người ông, và bây giờ pháp tòa được nâng đỡ bằng bốn con sư tử.
Ông bắt đầu giảng: “Thưa các chị, tôi mất ba tháng để học một bài kệ. Bây giờ tôi sẽ giảng ý nghĩa ấy trong bảy ngày bảy đêm liên tiếp. Đức Thế Tôn đã dạy: “Đừng để thân, khẩu, ý của ngươi phạm vào lỗi.” Ấy là ngài dạy cho chúng ta từ bỏ mười tà hạnh. Khi ngài nói “lìa nhiễm dục thế gian” thì thế gian ở đây ám chỉ là năm thủ uẩn. “Nhiễm” ám chỉ tham, sân, si làm nhiễm ô năm uẩn ấy.
Ông chỉ mới dạy ý nghĩa chi tiết của nữa bài kệ, mà đã có mười hai ngàn người thấy được chân lý. Một số người chứng được bốn quả thánh là Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Có người thành Thanh văn, Độc giác. Cũng có người vào Đại thừa; mỗi hạng đều mong mỏi đạt đến kết quả giác ngộ thuộc hạng của mình, như quả A la hán tiểu thừa hay A la hán đại thừa. Hầu hết đều phát sinh tịnh tín đối với Tam Bảo.
Khi Đường Nhỏ trở về Kỳ Viên, đấng Đạo sư tuyên bố: Trong số những đệ tử Thanh văn của ta thì Chu lợi bàn đà dà (Đường Nhỏ) là người đệ nhất về hạnh giáo hóa mọi người.
Bởi vậy thật sai lầm nếu nghĩ chỉ có ngồi thiền mới có giá trị, còn những việc khác như quét nhà là không có giá trị. Ngay cả gia chủ Cấp Cô Độc, người dâng cúng khu vườn cho Phật làm Kỳ Viên làm tịnh xá, cũng thường tới quét chùa hàng ngày. Một hôm ông quá bận không đến được, và trong chùa cũng không ai quét, thì chính đức Đạo sư đã thân hành cầm chỗi quét với cánh tay như vàng ròng của Ngài.
Thầy tôi thường kể rằng những thân tái sanh khác nhau của đức Dalai Lama thường hành nghi thức chuẩn bị thiền định bằng cách quét nhà tới nỗi đã mòn nhiều cây chổi chỉ còn như cái đuôi lừa. Những cây chỗi được cất giữ với những cán chổi bọc vải vàng để làm kỷ niệm về những di vật của Đức Dalai Lama. Đây là một chi tiết thực quan trọng trong tiểu sử của ngài; chứng tỏ những kẻ sơ học như chúng ta cần phải xem trọng những việc có vẻ tầm thường như thế.
Tốt nhất, là quét phòng trước khi ngồi thiền, dù phòng cần quét hay không. Ít nhất bạn cũng quét phòng ở của bạn mỗi ngày. Và trong mỗi trường hợp, và khởi những động lực tốt như tôi đã nói ở trên. Hãy tưởng như mình đang quét sạch những cấu uế chướng ngại cho dòng tâm thức của chính mình và của người khác. Tưởng tượng những nhát chổi đang làm sạch, làm cho thanh tịnh, làm cho thuần thục, khiến cho căn phòng bạn trở thành một cõi Phật. Bạn nên tụng đọc một bài gì trong lúc quét nhà, như Đường Nhỏ đã làm: “từ bỏ bụi bặm, từ bỏ cấu uế,” hoặc tốt hơn nữa là bài kệ:
Tham ái là cấu uế, không phải bụi
Cấu uế là tên chỉ tham ái, không phải bụi
Bậc trí tẩy trừ loại cấu uế này,
Tuân theo lời dạy của đấng Thiện thệ.
Lập lại bài kệ, thay chữ “tham ái” bằng “sân nhuế” rồi bằng “ngu si.” Khi bạn đang chuyên tu pháp môn thờ thầy (tận tụy với bậc hướng đạo tâm linh) thì nên đọc bài kệ thành: Cấu uế là thiếu đức tin (nơi thầy), không phải bụi…” Quả thế bạn có thể xem cấu uế là bất cứ gì, kể cả sự chấp thủ đối đãi nhị nguyên. Bạn phải biết thay đổi bài tụng cho thích hợp với pháp tu đặc biệt nào mà bạn đang thực tập trong lúc đó.
Nếu bạn quá già, bệnh, không tự quét nhà được, thì hãy sai một đệ tử quét thay, nhưng trong lúc ấy bạn phải đọc tụng và quán tưởng như trên.
Chiều sâu của động lực cũng rất quan trọng đối với lợi ích bạn có được trong từng nhát chổi mà bạn quét.
Bạn hãy đặt bốn tảng đá ngoài phòng mình và tưởng tượng đó là Tứ thiên vương. Hoặc cũng chỉ có thể đặt một tảng đá biểu tượng cho bốn vị thiên vương. Hoặc quán tưởng một tảng đá duy nhất là Vaishravana (Hộ quốc thiên vương?). Người ta nói làm những phép quán ấy rất có lợi, vì bạn sẽ không bị một chướng ngại nào cả, và giới của bạn sẽ được thanh tịnh. Nếu bạn ở trong một tu viện lớn, thì có thể bất tiện nếu để ngoài cửa phòng bốn tảng đá. Vậy bạn có thể quán bốn bức tường ngoài phòng bạn là Tứ thiên vương; truyền thống khẩu thuyết này xuất phát từ Purchog Ngagwang Jampa.
Bây giờ, chúng ta hãy quay sang sự trưng bày những biểu tượng thân ý giác ngộ. Các pháp quán Đạo sư, quán chư Thiên v.v… phải theo cùng một thứ tự như trong pháp quán Phước điền (xem ngày thứ Năm). Tuy nhiên bạn có thể thay đổi chút ít nếu những vật cúng không để lên bàn thờ được. Nhiều người cho rằng sẽ có hiệu quả hơn nếu cầu trước thần Hộ pháp, Thiên vương, và những phi nhân có thể lực, v.v…, họ cho là thờ những vị này linh ứng hơn thờ tượng Phật. Tôi đã gặp trường hợp này nhiều lần. Dấu hiệu này chứng tỏ những người ấy chưa chân chánh quy y: hành vi “quay về nương tựa Bụt” không thấm nhuần trong tâm thức họ. Nhiều người lại dành một chỗ ngồi vinh dự cho bất cứ một tượng gì làm bằng vàng, bạc, đồng, còn tượng đất sét thì đặt chỗ thấp nhất. Đấy là những dấu hiệu họ chỉ xem những hình tượng này như là những thứ tài sản vật chất. Lại cũng không nên sắp những hình tượng bằng tranh vẽ theo thứ tự thời gian. Có người con treo tranh Phật trên tấm màn để làm cửa. Thật là sai lầm biết bao. Họ là những người ngủ nằm trở chân chỉa về hướng tượng Phật, bồ tát. Điều đó chứng tỏ sự bất kính tệ nhất, một dấu hiệu rõ ràng họ chưa từng “quay về nơi nương tựa” gì cả. Có những người xem tranh tượng cũ kỹ và hư rách giống như đồ phế thải, đem để vào một bàn thờ bỏ hoang nào đó. Người ta bảo làm như vậy cũng giống như đem phước ra khỏi nhà bạn. Bạn phải xem những tượng, tranh Phật, Bồ tát giống như bản thân các vị ấy.
Có thể bạn không có nhiều biểu tượng của thân khẩu ý giác ngộ như vậy, nhưng để tượng trưng thân giác ngộ bạn nhất định phải có hình tượng của một bậc đạo sư là Đức Thích Ca Mâu Ni, để nhớ đến Ngài, và của Je Tsongkapa để nhớ đến bậc thầy của bạn. Một bản kinh ngắn hay một bản Lam-rim có thể làm biểu tượng cho ngữ giác ngộ. Một tsatsa (mảnh đất sét hình tháp) có thể làm biểu tượng cho ý giác ngộ. Nếu bạn có chùy kim cang và chuông, thì nên dùng làm biểu tượng của ý giác ngộ. Nhiều người xem chùy kim cang và chuông như những dụng cụ của chư thiên, nhưng kỳ thực nó tượng trưng cho ý giác ngộ. Thật là một sai lầm lớn nếu bạn xem nhẹ chùy kim cương và chuông.
Bạn không cần phải ngày nào cũng lập bàn thờ, nhưng phải xem những biểu tượng trên bàn thờ ấy như thật, thì mới hoàn tất tiêu đề này.
Thật sai lầm nếu vì ngày nào bạn cũng thấy những hình tượng ấy trong phòng mà bạn đâm ra lờn mặt. Mỗi khi chiêm ngưỡng hình tượng, bạn lại được thấm nhuần thêm những bản năng mãnh liệt phi thường. Có người bảo chiêm ngưỡng một tượng Phật lợi lạc gấp mười sáu lần nhìn Phật thật, Kinh Sen Trắng có nói:
Người nhìn hình ảnh đấng thiện thệ trên tường
Dù trong lúc tâm đang giận dữ
Cuối cùng cũng sẽ được gặp mười triệu Đức Phật.
Thật sự Kinh nói: “Cúng dường tượng Phật ..” còn cái câu tôi trích dẫn là theo khẩu truyền. Nếu nhìn Đức Phật trong lúc giận dữ mà còn lợi lạc như thế, thì đủ biết chiêm ngưỡng tượng Phật với đức tin còn lợi lạc biết bao. Bậc thánh tăng Xá Lợi Phất là một trong hai đệ tử của Phật luôn luôn ở cạnh Phật. Tương truyền đấy là quả báo của một hành vi ngài đã làm trong một đời trước, lúc ngài chiêm ngưỡng một bức h ọa hình Phật với tâm tràn đầy hỉ lạc lạ lùng.
Trong đời ấy, ngài Xá Lợi Phất làm một sứ giả. Một hôm ngài vào ở lại đêm trong một ngôi chùa. Trong khi ngồi khâu lại đôi giày dưới ánh đèn thật sáng, ngài trông thấy một tranh họa hình Phật trên bức tường đối diện. Ngài thầm nghỉ, “Ôi một con người tuyệt diệu làm sao! Ta muốn gặp đích thân người ấy.” Ngài cầu nguyện trong tâm, và kết quả là về sau ngài trở thành vị đại đệ tử của Phật.
Bây giờ chúng ta thấy những tượng Phật làm bằng đất sét, đồng, vân vân, nhưng khi đạt đến sự nhất tâm trong định gọi là “Pháp Lưu” (Dòng Pháp) chúng ta sẽ trông thấy những hóa thân của Phật (nirmanakàya) tuyệt diệu. Và khi ta đạt đến địa vị thứ nhất trong mười địa vị Bồ tát thfi chúng ta sẽ gặp được những Báo thân (sambhogakàya) của Phật. Bởi thế một điều vô cùng quan trọng là phải xem tượng Phật như là Phật thật.
1.1.2. Kiếm đồ cúng dường hợp pháp và bày biện đẹp mắt.
“Hợp pháp” đây có nghĩa là không có hai việc: sự lường gạt liên hệ đến vật phẩm dâng cúng, và những động lực xảo trá để có được phẩm vật ấy.
“Sự lường gạt liên hệ đến phẩm vật dâng cúng” có nghĩa là bạn đã vi phạm một việc quấy trong khi kiếm phẩm vật dể dâng cúng; như một người xuất gia thụ giới có được phẩm vật nhờ năm thứ tà mạng, hay một cư sĩ được phẩm vật nhờ sát sinh, đong thiếu, hoặc bằng một phương tiện xấu xa nào khác.
Tốt hơn là đừng dâng cúng bằng những phẩm vật như thế. Phạn ngữ gọi đồ cúng là “puja” có nghĩa “làm hài lòng.” Vậy phẩm vật bạn cúng phải do Đấng Chiến thắng và các pháp tử của ngài vui lòng mối được. Làm sao các ngài vui lòng nếu bạn đem dâng cúng những loại phẩm vật như thế? Tuy nhiên, nếu bạn lỡ được những phẩm vật cúng thuộc loại ấy, thì cũng nên đem cúng Phật để tịnh hóa tội lỗi do sự tìm cầu chúng (một cách trái phép.)
Năm tà mạng là: nịnh hót, ám chỉ, cho để nhận (thả tép câu cá), làm áp lực trên người khác, và giả trang thiền tướng.
“Nịnh hót” là như sau. Bạn khen ngợi thí chủ với hi vọng họ sẽ cho bạn một thứ gì. Nếu họ cho bạn thứ ấy thật, thì hành vi nịnh hót ấy trở thành tà mạng. Nhưng nếu bạn khen chân thành, không một động lực như trên, thì không phải là tà mạng, dù họ có cho bạn phẩm vật.
“Ám chỉ” là như nói với thí chủ: “Bây giờ tôi có trà và bơ, nhưng không có nhiều ngũ cốc,” với hy vọng được cúng. Hoặc nói: “Bột lúa mạch mà thí chủ cho tôi năm ngoái đã giúp tôi rất nhiều.” Nói cách khác, bạn ám chỉ rằng bạn đang càn ngũ côc hay bột lúa mạch. Nhưng nếu bạn nói những lời trên một cách vô tư không có hậu ý, thì không phải là “ám chỉ.”
“Cho để nhận” là cho một vật vặt vãnh để nhận được thứ tốt hơn. Ví dụ bạn đem cho một khăn quàng lễ hay một bình trà, để họ đền đáp lại bạn hoặc thay bạn cúng dường tu viện. Ngày nay ta gọi là “mắc mồi vào lưỡi câu.” Người ngày nay rất dễ vi phạm vào những tà mạng này. Nhưng nếu bạn làm quà cho thí chủ một cách chân thật không có động lực như trên, “thì không gọi là tà mạng, dù họ có cho bạn lại một cái gì.
“Làm áp lực” là quấy rầy người nào để buộc họ cho bạn một cái gì họ không muốn cho, hoặc khiến họ cho bạn một vật mà họ sắp đem cho người khác. Hoặc nói những lời như: “Thí chủ X đã cho tôi trà và bơ thực ngon.” Nhưng nếu muốn nói chân thành không có động cơ muốn nhận tặng phẩm sau đó, thì không phải là tà mạng kiểu “làm áp lực.”
“Giả trang thiền tướng” thì trong khi ở phòng riêng thì buông lung phóng túng, mà trước mắt cư sĩ thì làm như một tỷ kheo rất tuân giữ giới luật, với hy vọng họ cúng dường bạn vì đức hạnh ấy. Nhưng nếu bạn không có động lực như trên, mà cư xử đàng hoàng ngược lại với lúc ở một mình chỉ vì nghĩ “không nên làm cho cư sĩ này mất tín tâm” thì không phải là “giả trang thiền tướng.”
Một điểm nữa là: Nếu những người đã xuất gia thụ giới như chúng ta mà vi phạm những điều cấm liên hệ đến ba lời nguyện ta đã làm, và được vật nhờ buôn bán, thì chúng ta sẽ bị quả báo nặng nề khi đem vật ấy mà dâng cúng.