NGÀY THỨ TƯ
Pabongka Dorie Chang khởi sự ngày giảng dạy với lời giáo đầu như sau:
Chandrakìrti nói:
Bây giờ, khi bạn có tự do,
Gặp hoàn cảnh thuận tiện
Nhưng nếu bạn không lợi dụng
Lại để cho mất tự do
Bằng cách rơi vào các đọa xứ
Thì khi ấy ai sẽ kéo bạn lên?
Nói cách khác, bây giờ ta đã thoát khỏi những cảnh tái sanh bất hạnh, có được thân người thuận lợi, nên chúng ta có được tự do để học Pháp. Nhưng nếu chúng ta không lợi dụng hoàn cảnh này để đạt niềm hy vọng vĩnh cửu của ra, thì ta sẽ trở lại vào các đọa xứ nơi đó ngay một tiếng “Pháp” ta cũng không có may mắn để nghe. Nếu ta rơi vào một đọa xứ như vậy, thì ai có thể kéo chúng ta ra khỏi? Bởi thế, ngay khi còn tự do, ta phải cố thành đạt niềm hy vọng vĩnh cửu của mình, dù gì xảy ra cũng mặc.
Chỉ sau khi khởi động cơ như thế rồi bạn mới nên nghe pháp. Và cái Pháp mà bạn sắp nghe là pháp gì? Đó là pháp Tối thượng thừa, nền giáo lý đưa những người may mắn đến Phật quả.
Sau khi nhập đề như thế Pabongka Rinpoche nhắc lại cho chúng tôi những tiêu đề mà chúng ta đã bàn cho đến điểm này trong bài giảng. Ngài cũng ôn lại sơ lược những gì đã nói hôm qua. Rồi ngài bắt đầu bài giảng chính thức của ngày hôm ấy.
VI. THỨ TỰ NHỮNG CHỈ GIÁO THỰC THỤ
Có những tiêu đề phụ như sau: (1) Căn bản của đạo lộ: tận tụy với một vị hướng đạo tâm linh; (2) sự huấn luyện tuần tự thích đáng mà bạn phải theo sau khi bắt đầu nương tựa một bậc thầy.
Những tiêu đề này rút từ tác phẩm của Tsongkapa, giảng dạy một trong những điểm cốt yếu của sự tu hành. Danh từ “căn bản của đạo lộ” có ý nghĩa như sau. Tất cả lá quả của cây đều do gốc cây mà có. Tất cả tuệ quán và thực chứng - từ sự đạt được cái khó được là thân người thuận lợi cho đến sự nhất tâm của bậc Vô học đều xuất phát từ một điều duy nhất là sự tận tụy với một bậc thầy hướng đạo tâm linh. Giới từ “sau khi” trong câu trên chỉ rõ hành vi nào nên làm trước tiên: chúng ta sẽ nhận được tất cả những quả chứng cho đến định nhất tâm của bậc Vô học A la hán nếu ngay từ đầu, ta có sự tận tụy đúng pháp đối với một bậc thầy.
Ba tiêu đề chính đầu tiên mà chúng ta đã bàn cũng được tìm thấy trong Những Giai Đoạn Lớn Của Đạo Lộ. Những tiêu đề sau đây có khác, chúng được rút ra từ những bài giảng ngắn gọn.
A. CĂN BẢN CỦA ĐẠO LỘ: TẬN TỤY VỚI THẦY
Có hai thứ đoạn chính: (1) phải làm gì trong những thời thiền quán của chúng ta; và (2) phải làm gì giữa thời thiền quán.
Một điểm hết sức quan trọng được nêu lên khi đưa ra hai tiêu đề này, một tiêu đề cho những thời thiền định và một tiêu đề cho thời gian khoảng giữa các thời thiền. Toàn thể hoạt động hàng ngày của một người có thể chia thành những gì xảy ra trong thời thiền định, và những gì xảy ra ngoài thời thiền. Như vậy, bất cứ thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp nào của bạn cũng xảy ra trong hoặc ngoài thời thiền định. Nếu bạn làm cho cả hai giai đoạn ấy đều có lợi ích, thì trọn ngày đều lợi ích. Hãy nói rộng điều này ra thành những thời kỳ hàng tháng, hàng năm, vân vân, thì trọn cuộc đời bạn trở nên có ý nghĩa. Đây là điểm cốt yếu.
1. Phải làm gì trong các thời thiền định
Tiêu đề này có ba bước: (1) nghi lễ chuẩn bị; (2) làm thế nào để theo phần chính của thời thiền; (3) những gì phải làm trong phần cuối của thời thiền.
Thật là điều sai lầm nếu không chú ý đến nghi lễ chuẩn bị. Nếu bạn muốn chế một tách trà ngon chẳng hạn, thì bạn phải xem chuyện mua trà là quan trọng. Cũng thế, nếu bạn muốn có những kinh nghiệm tâm linh trong giai đoạn chính của thời thiền định, thì trước hết bạn phải thực hành những nghi lễ chuẩn bị cho đúng pháp.
1.1. Nghi lễ chuẩn bị
Có sáu việc: (1) lau nhà sạch sẽ và bày biện những biểu tượng thân giác ngộ, khẩu giác ngộ, ý giác ngộ; (2) kiếm đồ cúng một cách lương thiện và bày biện cho đẹp mắt; (3) ngồi theo thế ngồi (gồm bảy sắc thái của Tỳ lô giá na trên một tọa cụ; sau đó bạn đọc lời quy y, phát tâm bồ đề, vân vân, trong một tâm trạng đặc biệt thành khẩn; (4) cầu ruộng phước; (5) dâng lời cầu nguyện bảy phần và một madala thế giới - những hành trì này chứa tất cả những then chốt của sự tích tập công đức và thanh lọc bản thân; (6) nhưng cầu xin tiếp theo phần giáo huấn truyền khẩu được làm để bảo đảm rằng dòng tâm thức của bạn đã thấm nhuần thiền định.
1.1.1. Lau sạch nhà và bày những biểu tượng thân khẩu ý giác ngộ.
Đạo sự Suvarnadvìpi theo tiểu sử về đời ngài, thường tự lau chùi nhà cửa. Nguồn gốc tập tục này là do một kinh dạy: “Vị bồ tát ngồi kiết già trong một khung cảnh sạch sẽ.”
Lý do bạn phải lau nhà là như sau: Khi bậc thầy của bạn, hay một viên quan nào tới thăm bạn, phải chăng bạn sẽ quét nhà sạch để cung đón? Cũng vậy, khi bạn thỉnh đấng Đạo sư và những pháp tử của ngài vào nhà (trong thời thiền quán của bạn) thì bạn phải lau nhà sạch sẽ để tỏ lòng kính ngưỡng.
Không có lợi ích gì n ếu bạn làm việc ấy với những động cơ giống như bạn vệ sinh của các tự viện lớn như cung Potala, Sera, Drepung; những người làm vì mưu cầu hạnh phúc cho chính mình hoặc để làm cho người khác tán thán. Thay vì thế, bạn nên nghĩ rằng bạn làm vì tôn trọng phước điền, những bậc thánh mà bạn sẽ thỉnh vào phòng trước khi bạn theo một đề tài thiền quán Lam-rim; bạn sẽ thực hành pháp quán ấy để thành Phật vì lợi ích của tất cả hữu tình. Sẽ rất lợi lạc nếu bạn nghỉ tưởng như thế.
Có kinh nói tới năm lợi ích: Tâm bạn sẽ sáng suốt; tâm người sẽ sáng suốt; làm chư thiên hoan hỉ; có được cái nghiệp đẹp đẽ; kiếp sau tái sanh lên thượng giới. Thầy tôi dạy rằng, các vị trời thường viếng cõi người và hộ trì cho những người thực hành đúng pháp. Nhưng nếu bạn không lau nhà, chư thiên không hoan hỉ và không hộ trì cho bạn, vì họ tránh những chỗ không sạch. Việc làm sạch nhà cửa còn làm vui các bậc thầy của bạn, chư Phật, v.v… chứ không chỉ làm cho chư thiên hoan hỉ mà thôi.
Bạn sẽ “có được cái nghiệp đẹp đẽ,” điều này không những ám chỉ cái đẹp vật lý mà còn ám chỉ đạo đức trong sạch. Đạo đức trong sach không làm cho thân thể đẹp, nhưng đối với chư Phật và Bồ tát thì đấy là cái gì đẹp nhất. Đức Tsongkapa vĩ đại có nói
Những người biết phân biệt pháp mặc áo khiêm cung
Đây là đạo đức, không phải hàng đẹp
Biện tài, trang hoàng cổ họ, không phải chuỗi anh lạc
Bậc thầy là ngọc quý, không phải ngọc nào khác.
“Được sanh lên thượng giới” phải hiểu là các cõi Phật.
Bậc thánh Chùdapantaka (Chu lợi bàn đà dà) chứng quả A la hán nhờ lau nhà. Tôi sẽ kể cho các bạn câu chuyện về ngài.
Trong thành Xá vệ ngày xưa có một người bà la môn sanh đứa con nào cũng chết khi vừa mới chào đời. Có một bà già lân cận bảo: “Lúc nào có đứa nữa, thì hãy gọi tôi.” Sau đó người bà la môn sinh một bé trai, ông liền gọi bà già. Bà bảo ông ta tắm rửa cho đứa bé, quàng cho nó một tấm vải trắng và nhét bơ đầy miệng rồi giao nó cho một cô gái săn sóc. Bà lại bảo người bà la môn nhờ cô gái ẳm thằng bé đến nơi ngã tư đại lộ và phải kính lễ khi gặp một vị sa môn bà la môn nào đó đi qua mà nói: “Hài nhi này xin đảnh lễ dưới chân thánh giả.” Nếu đứa trẻ sống được thì hãy chờ mặt trời lặn hãy đem nó về; nếu nó chết thì hãy quăng bỏ nó.
Cô gái là kẻ có lương tâm, cô ngồi suốt ngày giữa ngã tư đại lộ. Đầu tiên có vài du sĩ ngoại đạo đi qua, cô gái làm theo mệnh lệnh bà già. Những du sĩ nói: “Mong cho hài nhi này sống, trường thọ, và ước nguyện của cha mẹ nó được thành.”
Sau đó vài vị tỷ kheo đi qua, họ cũng chú tụng tương tự như trên. Cô gái bèn đem đứa bé đến Kỳ Viên tịnh xá. Nàng gặp Đức Phật đang đi khất thực, và Phật cũng làm như mấy người kia, nhưng nói thêm rằng: “Mong cho cha mẹ của nó thành tựu những ước nguyện đúng pháp.”
Khi mặt trời lặn, cô gái thấy đứa bé còn sống nên đem về nhà. Nó được đặt tên là Mahapanthaka (Đại Lộ) vì đã được đưa ra giữa đường cái. Đại lộ lớn lên thành một học giả tinh thông kinh điển Vệ Đà và dạy cho một trăm đứa trẻ bà la môn.
Người cha có thêm một đứa con trai khác, ông cũng gọi bà già và cũng được khuyên như lần trước. Nhưng lần này họ lại giao đứa bé cho một cô gái làm biếng; cô chỉ bế nó ra đứng tại một đường hẽm. Không có một vị sa môn bà la môn nào đi qua. Đức Phật biết rằng biết rằng sẽ không bậc thánh nào sử dụng con đường ấy, nên Ngài đích thân đi đến, vì Ngài vốn luôn luôn đêm ngày săn sóc cho các hữu tình. Cô gái đảnh lễ, và Ngài nói lời ban phước như lần trước. Nàng mang hài nhi về nhà khi thấy nó còn sống. Nó được đặt tên là Chùdapanthaka (Đường Nhỏ). Khi lớn lên nó cố học đạo. Nó tập đọc những tiếng như siddham, nhưng nó chỉ đọc đường âm sid thì nó quên âm dham, mà khi nó nhớ âm dham thì nó quên sid. Thầy của Đường Nhỏ bảo người cha rằng: “Tôi còn phải dạy nhiều trẻ khác. Tôi không thể dạy cho nó.”
Đường nhỏ được gửi đến học tụng kinh Vệ Đà với một người chuyên về kinh điển ấy. Trước tiên thầy dạy nó hai âm om bhu. Nó đọc được âm om thì quên âm bhu và ngược lại. Thầy nó phải tuyệt vọng về nó. Ông bảo người cha: “Thằng Đại Lộ con lớn của ông chỉ cần dạy một chút xíu là biết liền, còn thằng Đường Nhỏ này thì tôi chịu. Tôi không thể dạy nó; tôi còn nhiều trẻ con phải dạy.”
Bởi vậy mà cái tên Đường Nhỏ đã hóa thành nghĩa bóng là u mê đần độn, ngu nhất trong những người ngu, nhỏ nhất trong những cái nhỏ.
Về sau khi cha mẹ chết, Đại Lộ quy y theo Phật và đi tu thành tỷ kheo, thành một bậc hiền trí, chứng quả A lan hán. Đường Nhỏ tiêu hết gia tài xong cũng đi theo anh. Đại Lộ quán sát xem em mình có chút duyên gì với Phật pháp không, và thấy rằng chính mình có thể giúp em khai phát tiềm năng Phật tính, bởi thế ông cho Đường Nhỏ xuất gia thụ giới làm chú tiểu.
Trong ba tháng kế tiếp. Đường Nhỏ bỏ hết thì giờ chỉ để học một bài kệ.
Thanh tịnh thân, khẩu, ý.
Lìa dục nhiễm thế gian.
Thường nhớ nghĩ chuyên cần.
Tránh ác pháp đau khổ.
Bọn giữ bò trong khu vực nghe lỏm bài kệ ấy cũng đã thuộc lòng, thế mà đường nhỏ không thể nào thuộc nổi.
Bậc thánh Đại Lộ suy nghĩ: “Làm sao điều phục Đường Nhỏ? Nên ca tụng nó hay làm nhục?” Ngài thấy rằng nhục mạ Đường Nhỏ là cách điều phục hiệu nghiệm nhất, bởi thế ngài nhiếc mắng Đường Nhỏ, túm lấy cổ áo của y mà lôi ra khỏi cổng tinh xá Kỳ Viên.
Đại Lộ nói: “Người là kẻ ngu đần nhất trong những kẻ ngu đần. Cho ngươi xuất gia làm gì? Đứng đó.”
Đường Nhỏ nghĩ: “Bây giờ mình hết làm tu sĩ rồi, mình cũng không còn là một người bà la môn nữa rồi.” Và ông khóc lóc thảm thiết.
Động lòng từ mẫn, Đấng Đạo sư chúng ta đi đến bên Đường Nhỏ và hỏi:
“Này Đường Nhỏ tại sao con khóc?”
“Thầy con đã mắng nhiếc chê bai con đủ điều.”
Đức Phật bảo:
Cái gì kẻ ngu ca tụng
Thì bị hiền trí chê bai.
Thà bị hiền trí chê bai
Hơn được kẻ ngu khen ngợi.
Này con, thầy con đã không chịu gian khổ suốt ba a tăng kỳ kiếp để thực hành sáu hạnh ba la mật. Ông ta không làm ra những bài kệ cho con học, mà chính ta đã làm. Vậy Như Lai không dạy cho con đọc được hay sao?”
Đường Nhỏ nói: “Thầy ôi, con là kẻ ngu nhất trong đám ngu, nhỏ nhất trong bọn nhỏ. Làm sao con có thể học đạo được?”
Đức đạo sư trả lời:
Kẻ ngu biết mình ngu
Đích thật là hiền trí
Ngu tự cho mình trí
Mới thật là chí ngu.
Phật cho Đường Nhỏ mấy lời này để nó học thuộc: “Từ bỏ bụi dơ, từ bỏ cấu uế.” Nhưng ôi thôi, chừng ấy cũng quá nhiều đối với Đường Nhỏ. Đức Phật nghĩ, “Ta sẽ thanh lọc nghiệp của y.” Và Ngài nói: “Này Đường Nhỏ, ngươi có thể chùi giày cho các tỷ kheo không?” Đường Nhỏ nói: “Ồ thầy, chuyện ấy con làm được.” Đức Phật bảo. “Vậy con hãy chùi sạch giày dép cho các tỷ kheo. Và này các tỷ kheo, các ông hãy để cho Đường Nhỏ làm công việc ấy, để y có thể sạch nghiệp chướng. Các ông hãy tụng những lời ấy để cho y học.”
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks