B. CÁCH GIẢNG DẠY PHÁP
Có bốn phần (a) nghĩ về những lợi lạc của việc giảng dạy pháp; (b) kính pháp và bậc thầy giảng pháp; (c) cần nghĩ và làm gì trong khi giảng dạy; (d) khác nhau giữa những người bạn nên dạy và những người bạn không nên dạy.
1. Nghĩ về những lợi lạc của việc giảng Pháp
Ðiều cố yếu là người giảng pháp không nên biến sự bố thí Pháp thành một cái gì do vô minh làm động lực Vasubandhu (Thế Thân) nói:
Ðừng để hành vi bố thí Pháp trở thành một hành vi ngu si.
Hãy giảng dạy kinh điển thuần tịnh một cách như pháp.
Nếu bạn dạy với hy vọng được cúng dường, cung kính, được nổi tiếng là học giả, vân vân, thì sự giảng dạy của bạn thay vì lợi lạc lại rất có hại. Bạn còn mất bớt công đức nữa. Vậy, bạn chỉ nên vì lòng bi mẫn mà giảng pháp, vì muốn lợi lạc cho đệ tử, ngay cả không kể tới hậu quả nghiệp mà bạn có thể đón nhận do sự giảng dạy của bạn. Chuzang Lama Rinpoche Yeshe Gyatso nói:
Tôi nghe lỏm ông ta giảng dạy
Và làm phép quán đảnh;
Ông ấy làm mọi sự tốt
Nhưng ông ta làm cho tôi ngao ngán
Tột đáy sâu của tim tôi
Khi ông hăng hái
Yêu cầu đóng góp tiền bạc.
Nói cách khác, điều này không được xảy ra. Sự giảng dạy là tốt nhất khi giảng sư không màng gì đến sự cúng dường vật thực.
Kinh Lời Khuyên Hành Vị Tha đề cập đến hai mươi lợi ích:
Này Di Lặc, một sự Pháp thí không nhằm được cung kính cúng dường, có hai mươi lợi ích: Một, ta sẽ có trí nhớ tốt; hai biết phân biệt; ba thông minh; bốn kiên trì, năm có trí tuệ; sáu sẽ đạt xuất trí; bảy bớt chấp thủ; tám bớt sân; chín bớt si; mười ma không thắng nổi; mười một được Phật thương tưởng; mười hai được phi nhân phù hộ; mười ba chư thiên hỗ trợ sự sáng suốt; mười bốn kẻ thù không làm hại được; mười lăm không bị xa lìa thân quyến; mười sáu lời nói có sức mạnh; mười bảy được sự vô úy; mười tám tâm hồn thoải mái; mười chín được những học giả ca ngợi; hai mươi hành vi bố thí pháp ấy sẽ trở nên đáng nhớ.
Ðầu tiên “có trí nhớ tốt” nghĩa là ta sẽ không quên Pháp. “Biết phân biệt” là niềm xác tín có được do những hình thức thiền định tối hậu. “Thông minh” ám chỉ niềm tin có được do những phép quán thông thường. “Kiên trì” có nghĩa là không thể bị lay chuyển. “Có trí tuệ” ám chỉ thế tục trí đạt được trong đạo lộ tích tập và chuẩn bị; “xuất thế trí” là trí đạt được trong những đạo lộ kiến đạo và thiền quán.
Sáu trong hai mươi lợi lạc này là kết quả tương ứng với nguyên nhân đầu tiên. Bốn lợi lạc khác là do những trạng thái tách rời states of separation. Sáu lợi lạc là y báo, và có một quả do sự thuần thục của nghiệp (xem ngày thứ mười ba, trang...)
(Pabongka Rinpoche nói nhiều về chi tiết đề tài này).
Những lợi ích khác được nói trong Kinh do Ugra Thỉnh Vấn, trong đó nói dù một vị tỷ kheo chỉ bố thí một câu Pháp cũng có nhiều công đức hơn một cư sĩ bố thí vô số của cải vật chất.
Các bạn nên ghi nhớ những lợi lạc này trong tâm, và bạn sẽ mong muốn giảng Pháp và cảm thấy rằng nói Pháp đã là một nguồn vui cho chính bạn. Ðây không chỉ là những lợi ích do sự giảng Pháp đem lại khi ngồi trên một pháp tòa thật cao; mà những vị thầy dạy cho đệ tử cũng không lợi lạc như thế. Lại nữa, khi bạn đọc một bản kinh, hãy tưởng tượng rằng mình đang đọc cho thính chúng trời, rồng, phi nhân, vân vân đang ở quanh mình. Bạn cũng sẽ được lợi lạc tương tự nếu như làm như thế. Khi bạn muốn học thuộc lòng một bản kinh bạn cũng làm như vậy. Bạn cũng được lợi lạc do nói chuyện pháp thoại với những người khác bằng cách dạy cho họ những điểm nòng cốt để thay đổi cách cư xử của mình. Nhưng có điều khác nhau cần để ý là, bạn có phải là bậc thầy của người nghe bạn hay không.
2. Kính Pháp và người giảng Pháp
Ngagwang Dragpa ở Dagpo nói: “Ðức Phật đấng Ðạo sư chúng ta đã dựng ngai Phật tòa cho chính ngài giảng dạy về Bà Mẹ của Chư Phật.” Nghĩa là khi đức Thế Tôn dạy kinh Bát nhã, Ngài đã làm ngai pháp cho Ngài bằng chính bàn tay Ngài, những bàn tay mang đủ tướng quý của một đức Phật và đẹp như nhánh cây bằng vàng ròng. Vì Pháp đã gợi sự quý trọng của ngay cả chư Phật như thế nên quả thực chúng ta phải hết sức tôn kính khi nói và nghe Pháp ấy.
Trong đại hội đầu tiên để kết tập kinh điển, A nan và nhiều vị tụng đọc khác nhau đã được ngồi trên một chồng năm trăm tấm y vàng do những vị A la hán khác cúng, để tỏ dấu tôn trọng Pháp. (Ở đây tôi phải nói thêm rằng, ba tấm y của tỷ kheo do Phật chế định, thế mà ngày nay có người sử dụng để lau chùi hoặc để làm gối dựa, đó là điều rất sai quấy.)
Pháp phải được tôn quý vì tính vĩ đại của Pháp. Ta lại phải nhớ những đức của bậc Ðạo sư và lòng từ bi của ngài, để khởi phát niềm kính trọng.
3. Phải nghĩ và làm những gì trong khi giảng dạy pháp
a. Phải nghĩ gì
Ngagwang Dragpa ở Dagpo nói:
Từ bỏ tính bủn xỉn, tự kiêu,
Hôn trầm trong lúc dạy, bàn lỗi của người,
Trì hoãn việc giảng dạy, và lòng ganh tị.
Hãy có lòng thương tín đồ và giảng dạy cho đúng pháp
Bằng cách duy trì năm thái độ
Hay nghĩ hạnh này sẽ đem lại cho bạn hỉ lạc.
Nghĩa là bạn không được giữ lại những điểm then chốt của giáo lý, vì đấy là một kiểu bủn xỉn về pháp. Trong khi giảng pháp, bạn không nên tự ca tụng mình như nói: “Trong quá khứ tôi đã làm điều này điều kia vân vân.” Bạn cũng không được lừ đừ ngũ gục trong khi nói pháp. Không nên bàn lỗi của người khác với động lực là tham hoặc sân. Không nên lười biếng trì hoãn việc giảng dạy vì không muốn giảng. Và bạn nên từ bỏ lòng ganh tị khởi lên vì nghi ngờ người khác được lên chức.
Bạn phải có lòng từ bi đối với những người nghe pháp, và giữ năm thái độ. Năm thái độ này cũng giống như sáu điều trên, trừ cái điều rằng sự chuyên cần thực hành Pháp sẽ chữa lành bạn. Nghĩa là năm thái độ như sau: họ là những con bệnh, Pháp là thuốc, bạn là y sĩ, vân vân. Rồi bạn nên nghĩ rằng công đức phát sinh do sự giảng Pháp với năm thái độ như trên sẽ đem lại hạnh phúc cho bạn.
Sở dĩ bỏ điều thứ sáu vì nó áp dụng cho người nghe pháp hơn là người giảng dạy.
b. Phải làm gì trong khi giảng dạy
Trước hết, nên tắm rửa sạch sẽ; dáng dấp của bạn phải chỉnh tề, y phục mới. Ngồi trên một pháp tòa cao. Cung cách bạn phải vui hòa. Giảng dạy bằng ví dụ, trích dẫn, và biện luận để làm rõ ý nghĩa.
Tuy vậy, tôi rất bối rối và khổ sở khi ngồi trên tòa cao này, trong khi những vị lạt ma cao cấp tái sinh đang ngồi chỗ thấp. Nhưng tôi phải ngồi đây vì lòng thượng tôn sự vĩ đại của chánh pháp. Quả thật là điều kỳ diệu khi tục lệ này không mai một ở các tỉnh miền Trung và ở vùng Tsang. Nếu tục lệ này không còn, và vị giảng sư ngồi ở chỗ thấp trong khi giảng pháp, thì người ta sẽ lấy làm lạ khi ông ta bảo, “Tôi đã hấp thụ dòng truyền thừa này từ nhiều vị lạt ma vĩ đại,” như có câu chuyện đã kể.
“Cung cách vui hòa” là bạn nên mĩm cười với thính giả khi bạn giảng. Longdoe Lama Rinpoche trái lại thường cầm la rầy đệ tử và cầm roi hăm dọa trong khi ngài giảng dạy.
Nếu bạn lẫn lộn thứ tự những tiêu đề, thì sự giảng pháp của bạn sẽ hỗn độn như một cái tổ quạ. Nếu bạn bỏ qua những điểm khó mà chỉ giảng dạy những tài liệu dễ, thì giáo lý bạn nói chỉ như hồ cháo dành cho người già ăn. Những giảng sư không am tường ý nghĩa sâu xa của giáo lý mà phải đoán mò để giảng thì chẳng khác nào người mù phải chống gậy. Ðiều này thật không tốt.
Bậc tôn sư tôi, nơi nương tựa tối thượng của tôi, đã dạy cho tôi như sau. Khi sắp giảng dạy, ta phải khởi một động cơ cho đúng pháp trong lúc bước từ phòng riêng ra giảng đường. Hãy quán tưởng tất cả những vị tổ sư trong truyền thống của bạn đang an vị trên pháp tòa dành cho bạn, hết vị này đến vị khác. Hãy đảnh lễ pháp tòa ba lạy. Quán tưởng những vị tổ tan biến vào một vị là vị thầy bổn sư của bạn; và khi bạn bước lên pháp tòa thì quán tưởng vị bổn sư của của bạn thể nhập vào trong bạn. Rồi khi bạn ngồi xuống, hãy búng tay mà niệm một bài kệ vô thường như:
Như ngọn đèn dầu leo lét
Không kéo dài bao lâu
Hạnh phúc cũng hư ảo
Mong manh như giọt nước
Như chiêm bao, như chớp nhoáng,
Hoặc như một ngày qua;
Như thế đấy là các pháp hữu vi.
Bạn nên nghĩ: “Ðây chỉ là vài phút ngắn ngũi, một cái gì thật vô thường.” Bạn phải chế ngự bất cứ cảm giác hãnh diện nào bạn có thể có, nếu không, bạn có thể phát sanh tâm kiêu mạn khi ngồi trên pháp tòa, và nghĩ rằng “Bây giờ, ta thật là một nhân vật quan trọng.”
Người ta nói với bạn nên tụng chú để đuổi quỷ, nhưng theo truyền thống, chúng tôi tụng bát nhã tâm kinh và vỗ tay ba lần. Je Drubkang Geleg Gyatso thường theo truyền thống tán tụng sáu điều để chuẩn bị. Quả thế, khi giảng dạy Lam-rim, ngài áp dụng phương pháp tụng rất chậm lễ dẫn nhập này. Nhiều người xin ngài giảm bớt nghi thức chuẩn bị, vì nó kéo dài thời gian giảng pháp, nhưng ngài trả lời: “Sự thành tựu của buổi giảng hoàn toàn tùy thuộc vào nghi thức chuẩn bị này,” và bởi thế ngài không rút ngắn.
Như tôi đã nói, bạn có thể phát sinh thực chứng Lam-rim ở mức đầu tiên trong buổi nghe giảng. Nhưng bạn phải tạo cơ hội cho sự thực chứng ấy, và điều này tùy thuộc vào sự tích tập công đức và trí tuệ sơ khởi của bạn, vào sự thanh lọc chướng ngại, vào sự cầu nguyện v.v... Ðây là tư tưởng đằng sau sự thực hành những nghi lễ chuẩn bị trong một thời gian giảng pháp. Trong lúc thực hành những nghi thức này, bạn không nên trải qua suốt buổi để tâm lang thang mắt nhìn dáo dác, miệng lẩm nhẩm thần chú một cách máy móc. Hãy thực hành nghiêm túc sự tích tập công đức này, sự thanh lọc bản thân và sự cầu nguyện này, sự thanh lọc bản thân và sự cầu nguyện này, vì nó quan trọng để phát sinh một vài tuệ quán đi sâu vào những đề tài thiền định trong phạm vi bạn tham dự buổi học pháp.
Bây giờ hãy trở lại việc làm cách nào để điều khiển một buổi giảng dạy giáo lý. Sau khi cúng dường một madala (đồ hình) của vũ trụ (xem Ngày Thứ Năm trang...), hãy đưa quyển kinh lên đầu (tỏ dấu kính trọng và ban phước) và lại khởi động lực. Hãy cầu xin rằng những gì bạn sắp làm lợi lạc cho dòng tâm thức của những người nghe bạn. Drubkang Geleg Gyatso thường làm sự cầu nguyện như thế không những lúc ông đặt quyển kinh trên đầu và cả những lúc ông đội mão.
Phần đông đều biết khi sắp giảng pháp thường có chút ít thay đổi trong bài kệ quy y. Bài này thường như sau:
Cho đến khi giác ngộ, con xin quay về
Nương tựa Phật, Pháp và Tăng
Với công đức con có được
Nhờ bố thí, vân vân.
Mong sao con đạt Phật quả vì tất cả chúng sinh.
Vị giảng sư nói: “Với công đức con có được do hành vi bố thí pháp...” trong khi những đệ tử thì nói: “Với công đức con có được khi nghe Pháp...”
Một điều khác tôi muốn nói là, có truyền thống đọc lớn bản kinh văn về Lam-rim sắp giảng ngày hôm ấy. Tốt nhất là chính giảng sư đọc mỗi ngày, hoặc vài ngày; sau đó đệ tử chính của vị ấy có thể làm thay.
Trong khi giảng pháp, bạn nên tưởng tượng trời, rồng và phi nhân vân vân đến nghe. Bạn nên làm dáng điệu như đang thuyết pháp cho họ và đọc bài:
Chư thiên a tu la
Và dược xoa, vân vân,
Ai đến nghe Phật pháp
Tất cả hãy hết lòng
Hộ trì Phật pháp ấy,
Bằng cách thường tinh tấn
Thực hành lời Phật dạy.
Ai đến đây nghe Pháp
Hoặc ở trên mặt đất
Hoặc ở trong hư không,
Với thế giới loài người,
Hãy thường khởi từ tâm,
Bản thân thì ngày đêm
Sống đúng với Phật pháp.
Nguyện cầu mọi thế giới
Luôn luôn được an ổn
Bằng cách phước và trí
Ðều đem làm lợi người,
Ðể bao nhiêu vọng nghiệp
Ðều được tiêu tan cả
Siêu thoát mọi khổ đau
Quy về đại niết bàn,
Hãy xoa khắp cơ thể
Bằng hương thơm giữ giới
Lại mặc cho cơ thể
Bằng y phục thiền định
Thì hoa đẹp bồ đề
Làm rực rỡ tất cả
Bất cứ ở nơi nào
Cũng thường được an lạc.
(Theo bản dịch HT Trí Quang)
Dĩ nhiên là chư thiên không thể ngồi trên đất, bởi thế giảng sư quán tưởng mình đang cho phép họ cứ ở giữa không trung và lắng nghe, những người lãnh trọng trách bảo trì chánh pháp hãy nhớ kỹ truyền thống này.
4. Khác nhau giữa người nào bạn nên dạy người nào không nên
Nói chung, như Luật đã dạy, “Không nên giảng dạy cái gì người ta chưa yêu cầu mình giảng.” Nói cách khác là thực không đúng pháp nếu mà bạn dạy một điều mà bạn chưa cầu xin. Hơn nữa, bạn cũng không nên nhận lời ngay khi người ta yêu cầu. Vì đức khiêm tốn bạn phải nói: “Ðề tài này tôi không am hiểu lắm, tôi không kham giảng dạy” hoặc “ Làm sao tôi có thể giảng dạy cho những người vĩ đại như quý vị?” Bạn phải thử thách lòng ngưỡng chánh pháp của người ta; và chỉ khi nào bạn chắc chắn họ là pháp khí thích hợp thì bạn mới nên giảng pháp cho họ. Kinh Tam Muội Vương nói:
Này Prakàska, trước hãy nói với chúng rằng:
“Tôi không được học.”
Rồi, nếu bạn có biết, có tài
Thì hãy nói: “Làm sao tôi có thể nói chuyện này
Trước những con người vĩ đại như chư vị?”
Tuy nhiên, vì một lý do cấp bách nào đó, đôi khi bạn buộc lòng phải dạy cho vài người một điều gì mặc dù họ không yêu cầu. Je Tsongkapa nói: “Nếu bạn biết họ là pháp khí xứng đáng để dạy, thì có thể giảng dạy cho họ dù họ không yêu cầu.”
Người ta bảo bạn còn phải tuân theo 26 điều đề ra trong luật tạng, như không được nói pháp cho người đang ngồi trong khi bạn đang đứng, hoặc cho người đang nằm, hoặc cho người đang ngồi chỗ cao hơn bạn, vân vân.
Ðến đây, chúng ta đi đến tiêu đề chính thứ ba là:
C. ÐIỀU GÌ CẢ THẦY LẪN TRÒ CÙNG NÊN LÀM CUỐI THỜI GIẢNG
Sau khi dâng một mandala tạ ơn, giảng sư và thính giả nên hồi hướng công đức, cầu cho giáo lý được lưu tuyền và cho chính mình được giác ngộ hoàn toàn, bằng cách tụng bài cầu nguyện của Lam-rim (trích trong tác phẩm của Tsongkapa, Những Giai Ðoạn Lớn Của Ðạo Lộ, xem trang....). Sau buổi giảng, không nên mạnh ai nấy ùa ra cửa, mà nên từ từ đi ra từng người, làm như thế là không muốn rời giảng sư và buổi giảng.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks