1.4. SỰ HÌNH THÀNH CÁC QUẺ CỦA TIÊN THIÊN BÁT QUÁI
Như đã nói, nếu ta có cách nhận thông tin hay thông cảm với những cá thể tại nhiều nơi một lượt thì ta khỏi phải chờ học hỏi từ các diễn biến sáng trưa chiều tối qua dòng thời gian nữa.

Thời gian là Đời, không gian là Đạo. Không gian này thoạt đầu có thể hiểu là bầu trời đang đỡ nâng các hành tinh định tịnh và chứa đầy những làn sóng tư tưởng tinh thần. Nhưng đó chỉ mới là không gian của ngôi Lưỡng Nghi. Tiến xa hơn nữa, còn có không gian của Chí Linh và vạn linh xuyên thấu mọi nguyên tử. Ấy là cái không làm nền cho mọi thứ có.

Do trực cảm liên không gian mà có thể bổ khuyết nhau ngay, không chờ khi gặp kết quả xấu mới đổi dời kế sách. Được các chứng nhân cho coi lại cuộn phim tạo hình lục địa thì khỏi cần phải điều nghiên trên các lớp địa tầng để biết chút ít về lịch sử địa cầu. Tương tự, chúng ta có thể tưởng chừng như đang coi lại cuộn phim hình thành các tượng, các số và diễn biến của các Bát Quái mà phăng lần ra ít nhiều manh mối vậy.

Theo các manh mối ấy, ta được biết cõi Vô Cực thuộc quyền Phật Mẫu xưa nay thường được tượng bằng một vòng tròn hay một mặt cầu. Cõi này quản Khí Lưỡng Nghi. Lưỡng Nghi ấy là Thiên (một hào Dương , Dương Quang, làm cho Tâm minh) và Địa (một hào âm , Âm Quang, làm cho Vật linh).

Hai Nghi tiếp thành bốn Tượng, vẽ hào mới sinh chồng lên hào sẵn có. Cho nên

- Tượng Thái Dương và Thiếu Âm từ Dương Nghi thuộc cõi tinh thần.

- Tượng Thái Âm và Thiếu Dương từ Âm Nghi thuộc cõi vật hình.

Hai Tứ Tượng hiệp lại, tám quẻ bắt đầu chuyển động tương tác nhau:

- Thiên nhất sanh Thủy: Thiên tánh của Nữ bấy lâu im ẩn trong thân nay bắt đầu tiếp nhận một luồng sanh khí nhuận hạ . Nhuận hạ như vậy là âm tính của phép Tạo Hóa chuẩn bị cho sự sinh sôi nảy nở. Cho nên Thiên thủy nhuận hạ chuyển tâm thân thiếu nhi thành thiếu nữ. Tâm ấy của Nữ đã làm cho Địa tánh của Nam , Địa tánh của chính mình và Thiên tánh của chính mình đồng nhận thêm cái linh hoạt của hào Dương trên cùng của , và . Gọi đó là Địa nhị sinh Hỏa, Địa lục thành chi và Thiên thất thành chi. Nói khác đi, luồng Sanh Khí Tạo Hóa giáng tâm Thiên Nữ đã làm đẹp tâm hồn người Nam, cũng làm đẹp tâm hồn và thể chất của chính mình.

- Thiên tam sanh Mộc: Địa tánh của Nam tiếp nhận một luồng sanh khí nhuận hạ. Nhuận hạ như vậy là khởi sinh thêm âm tính. Cho nên vạch âm trên tượng Thiếu Âm Trong tình thế Dương đã xuống đến tận nơi thấp nhất của Địa, cuộc biến hóa diệu kỳ xảy ra: Nguyên Tử Khí (Địa tứ sanh Kim) phát lộ. Thiên thành (Thiên cửu thành chi) từ Nguyên Tử Khí đó và Địa thành (Địa bát thành chi) từ Nhất Dương nhuận hạ đó. Nói khác đi, tiềm năng của luồng Dương Khí giáng vào cơ quan sanh hóa của người Nam hoặc có thể giúp hình thành nên cõi tinh thần (Thiên) hoặc làm hao hụt mọi thứ sinh lực khiến cho thân thể và tâm hồn trở nên nặng trĩu vật chất tính (Địa). Thiên Địa pháp đã đành, còn tùy Nhơn tác hiệp nữa mới nên kết quả. Sức người thêm vào các vận động thiên nhiên cũng là một cách dùng tinh thần (Thiên) để điều ngự vật chất (Địa) sao cho vật chất ấy lại giúp thăng hoa tinh thần thêm nữa.

http://129.78.64.1/~cdao/booksv/Doan...1.4.CacQueTTBQ

Bảng này chỉ rõ con đường Thủy Hỏa tức là con đường tình ái Nam Nữ đã đem sức sống tinh thần cho cả Thiếu Dương, Thiếu Âm và Thái Âm. Nhưng phải là con đường Mộc Kim mới tạo được Thiên Địa . Đến được đây là đến được với nguồn Lưỡng Nghi trên lối về từ Bát Quái, Tứ Tượng, Lưỡng Nghi, Thái Cực. Thiên Địa này là hai năng lực Dương Quang và Âm Quang được khai ra bằng điển lực tại đệ bát và đệ thất khiếu.

Còn Thiên Địa trong Thiên nhất sinh…, Địa nhị sinh…là hai Nghi mà Phật Mẫu đang điều hành để dưỡng dục quần nhi. Dưỡng dục là phân bổ năng lực Tiên Thiên (vòng sinh bên trong) tạo nên các ứng cảm Hậu Thiên (vòng thành bên ngoài).

Nước trời tạo lửa đất, sấm sét từ trời tạo gió khí trên đất: 1,2,3,4 là Tiên Thiên truyền tải năng lực mà không có cảm xúc Hậu Thiên. Thân thể vô tư của tuổi vị thành niên nay biến chuyển qua thời kỳ có khả năng sanh hóa. Khả năng này thường kèm theo các cảm xúc bị điều kiện hóa nhưng cũng làm cho vật chất thân thể khởi biết đến tinh thần. Nếu học được Di Lạc Vương Pháp thì từ tâm yêu thương ấy mà tinh thần và thánh đức được xây dựng: 6,7,8,9 là Hậu Thiên đào tạo một Lưỡng Nghi Thiên Địa mới.