Trang 300 trong 300 Đầu tiênĐầu tiên ... 200250290294295296297298299300
kết quả từ 5,981 tới 5,994 trên 5994

Ðề tài: GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ

  1. #5981
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Át già (閼伽) là phiên âm của chữ Phạn Argha, nhiều khi còn phiên âm là a già, át ca, át ra già, dịch nghĩa là Công Đức Thủy, hoặc Hương Hoa Thủy. Từ ngữ này dùng để chỉ các thứ nước thơm đựng trong vò hoặc bình đặc biệt dùng trong Mật Tông. Theo các nhà nghiên cứu, trong các yến hội cổ Ấn Độ, người ta thường đặt một bình nước thơm để khách quý rửa tay trước khi ăn. Dần dần, khi cúng dường thần linh, người ta cũng dâng cúng nước thơm cho thần thánh để các Ngài rửa tay khi giáng hạ đàn tràng. Do vậy, trong một đàn tràng cúng dường của Mật giáo, sáu vật phẩm bắt buộc phải có là át già, hương bôi, tràng hoa, hương đốt, thức ăn (nhiều khi chỉ tượng trưng bằng một chén nước trong, một chén gạo, hay một nắm đá nhiều màu, hoặc một vật điêu khắc mô phỏng bột lúa mạnh nặn thành khối, thường gọi là Torma trong truyền thống Tây Tạng) và đèn đuốc. Thông thường, trong truyền thống Đông Mật, trước khi chính thức tụng niệm, hành giả đặt bình Át Già bên phải lư hương. Khi tụng trì xong, sẽ đặt bình Át Già sang bên trái trước khi cử hành nghi lễ tống thánh (tiễn đưa các vị thánh).


    https://niemphat.net/Kinh/didathanhdien/didatthanh4.htm






  2. #5982
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Đây là một cách tạo phước đức trong Mật Tông, hành nhân thường dùng những cái khuôn nhỏ (người Tây Tạng thường gọi là tsa-tsa) để nén cát, đất sét, chất bột thơm, hay bất cứ vật liệu kết dính nào đó, để đúc những tượng Phật nhỏ, tượng Bồ Tát nhỏ, hoặc hình tháp (người Tây Tạng thường gọi chung những bức tượng hay tháp nhỏ ấy là tsa-tsa) để gắn lên tường, hay để bỏ vào trong lòng các bức tượng lớn, hoặc để thờ. Khi “in” như vậy, thường tụng chú một lần đối với mỗi tượng.



    https://niemphat.net/Kinh/didathanhdien/didatthanh4.htm







  3. #5983
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Hiền bình (賢缾, Pūrna-ghata), còn gọi là Thiện Bình, Đức Bình, Mãn Bình, Hiền Đức Bình, Công Đức Bình, Như Ý Bình, hay Cát Tường Bình, có ý nghĩa là cái bình có thể sanh ra phước thiện, thỏa mãn nguyện cầu. Bình thường làm bụng phình, cổ ngắn, miệng loe, có nắp, trên thân bình có hình bát cát tường, hoặc các vị tôn thánh. Bình thường được buộc lụa hay vải nhiều màu quanh cổ. Bên trong chứa nước thơm, bột thơm, các loại thuốc v.v… hoặc chứa những vật phẩm cúng dường đã gia trì khác. Ngoài ra, hiền bình còn được đặt trên bàn thờ với ước nguyện đem lại sự thịnh vượng, diên thọ, phước lộc cho người ở nơi đó. Loại này thường gọi là Treasure vase (Terbum) hay Wealth Vase (Yangbum) trong Phật giáo Tây Tạng.



    https://niemphat.net/Kinh/didathanhdien/didatthanh4.htm








  4. #5984
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Trong giáo nghĩa Mật Tông, các pháp môn của Mật Tông được chia thành hai hệ thống chính là Thai Tạng Giới và Kim Cang Giới. Trong mỗi giới, tùy theo đặc tánh của từng pháp môn hành trì, lại chia thành các tiểu hệ thống (thường gọi là Bộ). Kim Cang Giới chia thành năm bộ (Phật Bộ, Kim Cang Bộ, Bảo Bộ, Liên Hoa Bộ và Yết Ma Bộ), còn Thai Tạng Giới chia thành ba bộ (Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, và Kim Cang Bộ). Liên Hoa Bộ là một trong các bộ ấy. Liên Hoa Bộ còn gọi là Pháp Bộ, Quán Âm Bộ hay chỉ gọi gọn là Liên Bộ, biểu thị Lý Đức vốn sẵn thanh tịnh giác ngộ của chúng sanh. Lại còn biểu thị phẩm đức từ bi tam-muội của hết thảy Như Lai. Dẫu chúng sanh lưu chuyển trong lục đạo, thậm chí vào địa ngục Vô Gián, bản tánh thanh tịnh từ bi vẫn tiềm ẩn không hề mất đi, hoặc bị nhuốm bẩn, nên sánh ví như hoa sen. Vì thế, gọi là Liên Hoa Bộ. Hiểu theo nghĩa hẹp, Liên Hoa Bộ chính là Quán Âm Viện và Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới Mạn Đồ La. Trong Liên Hoa Bộ của Thai Tạng Giới, bộ chủ là Mã Đầu Quán Âm, Bạch Y Quán Âm là bộ mẫu. Trong Kim Cang Giới, bộ chủ của Liên Hoa Bộ là A Di Đà Như Lai, bộ mẫu là Pháp Ba La Mật Bồ Tát. A Di Đà Như Lai có bốn vị thân cận Bồ Tát là Pháp, Lợi, Nhân, Ngữ và Tứ Nhiếp Kim Cang làm quyến thuộc, biểu thị tánh đức của Diệu Quán Sát Trí. Chủng tử căn bản của bộ này là Sa (trong Thai Tạng Giới), hoặc Hrīḥ trong Kim Cang Giới. Hình tam-muội-da của Liên Hoa Bộ là hoa sen.



    https://niemphat.net/Kinh/didathanhdien/didatthanh4.htm






  5. #5985
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Quân Đồ Lợi (Kuṇḍali Vidyārāja)
    là một trong năm vị đại minh vương của Mật Giáo (tức Bất Động, Hàng Tam Thế, Quân Đồ Lợi, Đại Oai Đức và Kim Cang Dạ Xoa). Ngài là thân phẫn nộ của Bảo Sanh Phật hóa hiện, thường được tạc tượng có hình dạng hung tợn, bốn mặt, da xanh, mắt đỏ, đeo rắn làm vật trang sức, cởi trần, khoác khố bằng da hổ, tám tay thì hai tay chắp lại trước ngực, những tay còn lại lần lượt cầm rắn đỏ, cầm kích, cầm kim cang xử, bánh xe, phủ việt... Toàn thân lửa bốc hừng hực. Ngài có bi nguyện trừ ác ma, rắn độc, các thứ nhiệt não, bệnh tật. Quân Đồ Lợi theo nghĩa đen là bình đựng cam lộ, Ngài thể hiện sanh mạng được tàng trữ không cạn kiệt. Nói cách khác, bi nguyện cứu khổ của Ngài luôn tuôn chảy tràn trề, khiến cho chúng sanh được yên vui như được rưới cam lộ, nên có danh xưng như vậy. Bốn mặt của ngài tượng trưng cho sự thấy thấu suốt “tánh của tứ tướng và tứ kiến đều là Không”. Khi kết giới, hộ thân, và thanh tịnh đạo tràng, đa số các bản nghi quỹ thường dạy sử dụng tâm chú của Ngài.



    https://niemphat.net/Kinh/didathanhdien/didatthanh4.htm







  6. #5986
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Kim Cang Vương Bồ Tát (Vajra-rāja)
    là vị Bồ Tát thân cận thứ hai trong Kim Cang Giới của A Súc Như Lai. Ngài còn được biết đến dưới các danh hiệu Kim Cang Tạng Bồ Tát, Kim Cang Câu Vương Bồ Tát, Bất Không Vương Bồ Tát, Kim Cang Thỉnh Dẫn Bồ Tát, Diệu Giác Bồ Tát, Tối Thượng Bồ Tát, mật hiệu là Tự Tánh Kim Cang và Chấp Câu Kim Cang. Ngài biểu thị đức năng tự tại, được hết thảy quy phục. Ngài có thệ nguyện dùng phép Tứ Nhiếp để lôi kéo hết thảy hữu tình. Ngài thường được tạc tượng chéo hai tay đặt trước ngực, kết thành Kim Cang Quyền.\



    https://niemphat.net/Kinh/didathanhdien/didatthanh4.htm

  7. #5987
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Huân Lục
    là tên gọi khác của Nhũ Hương (Frankincense). Người ta lấy nhựa cây này để chế thành hương. Loại hương này còn gọi là Mã Vĩ Hương, Ma Lặc Hương, hoặc Trích Hương. Giống cây này mọc nhiều ở châu Phi và châu Á tại những vùng khô cằn. Người ta thường lấy nhựa bằng cách rạch vỏ cây. Loại nhũ hương tốt nhất là ở Somalia và thường được các nhà thờ Thiên Chúa Giáo ưa chuộng để sử dụng trong nghi thức xông hương. Đông y cũng dùng loại hương này để làm thuốc.



    An Tức Hương
    là nhựa một loại cây có tên khoa học là Styrax Tonkinesis, cao đến 20m, mọc nhiều ở Iran. Do vương quốc An Tức (Parthian) thời cổ thuộc địa bàn Iran, nên loại hương này được gọi là An Tức Hương. Do chất nhựa này chứa nhiều chất benzoin, nên người ta cũng gọi luôn chất benzoin là An Tức Hương.



    https://niemphat.net/Kinh/didathanhdien/didatthanh4.htm






  8. #5988
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Nghi quỹ (儀軌)
    hiểu theo nghĩa đen là pháp tắc quy củ theo đúng lễ nghi, pháp luật. Chữ này thường được dùng để dịch chữ Kalpasutra trong Mật Tông. Một nghi quỹ thông thường sẽ bao gồm các hướng dẫn về cách vẽ tượng (hoặc tạo tượng Bổn Tôn), cách lập đàn pháp, cách chuẩn bị thanh tịnh thân, ngữ, ý của người hành trì, cách vào đàn tràng hành lễ bao gồm trình tự từ kết giới, hộ thân, triệu thỉnh, cúng dường, sám hối, tán thán, trì tụng, tống thánh, hồi hướng v.v… Kể cả các bước để vị A Xà Lê truyền trao giáo pháp. Đối với mỗi bước, đều có hướng dẫn tỉ mỉ về chân ngôn, cách kết ấn, cách quán tưởng những chủng tự tương ứng v.v…



    https://niemphat.net/Kinh/didathanhdien/didatthanh4.htm






  9. #5989
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Mạn Đồ La (Mandala)
    còn được phiên âm là Mạn Đà La, Mạn Đát La, Mạn Noa La, Mạn Trà La, Mạn Đát Lạp, Mãn Noa La v.v…, dịch nghĩa là Đàn, Đàn Tràng, Đàn Thành, Chuyển Luân Cụ Túc, Tụ Tập v.v… Nguyên thủy, Mạn Đà La thường là một cái đàn bằng đất nhỏ, dùng làm nơi thanh tịnh để tu hành. Về sau, dần dần chuyển biến thành hình thức xây cất cố định, hoặc dùng cát để tạo mạn-đà-la như trong truyền thống Tây Tạng, hoặc chọn chỗ đất sạch, thanh tịnh, vẽ trực tiếp trên mặt đất, hoặc trải vải đã vẽ sẵn mạn-đà-la lên một nơi nào đó để làm đàn tràng tu hành trong Mật Tông. Sự cử hành nghi thức trong đàn tràng ấy thường được gọi là Tác Pháp. Có thể coi Mạn Đà La như một tiểu vũ trụ tập trung năng lượng của Bổn Tôn (vị tôn thánh mà ta đang tu tập thần chú của Ngài), biểu thị vũ trụ theo cái nhìn của bậc giác ngộ. Thông thường, mạn-đà-la có hình vuông, trung tâm có hình tròn, chia thành bốn cửa, và chia ra nhiều lớp, đơn giản hay phức tạp tùy theo từng pháp tu.




    https://niemphat.net/Kinh/didathanhdien/didatthanh4.htm







  10. #5990
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    VII. Bí mật tu trì chương

    (秘密修持章)


    https://niemphat.net/Kinh/didathanhdien/didatthanh4.htm






  11. #5991
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Khai Quang
    có nghĩa là:


    (開光): có nhiều loại Khai Quang khác nhau. Căn cứ vào tôn giáo mà có Khai Quang của Phật Giáo, Khai Quang của Đạo Giáo, Khai Quang của Âm Dương Sư (陰陽師), v.v.; như ở các đền thờ Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君) thường tiến hành nghi thức Quan Công Khai Quang (關公開光). Khai Quang của Phật Giáo lại chia thành Quần Khai Quang (群開光, Khai Quang cho nhiều hình tượng) và Đơn Độc Khai Quang (單獨開光, Khai Quang chỉ cho một tượng). Mỗi khi có tự viện nào lạc thành hay trùng tu, sau khi điêu khắc tượng Phật Bồ Tát xong, thường cung thỉnh chư tôn Thiền đức đến để tiến hành lễ Khai Quang Điểm Nhãn (開光點眼) cho các pho tượng đó. Đối với các tôn giáo, Khai Quang được xem như là một loại nghi thức vô cùng linh thiêng, quan trọng, tiếp dẫn linh tánh cũng như tiên khí vào trong tôn tượng. Nguồn gốc của nghi thức này phát xuất từ Đạo Giáo; lấy cái vô hình trong vũ trụ, có đủ linh tánh với pháp lực vô biên đem nhập vào trong thần tượng; cho nên sau khi đem thờ phụng thì tôn tượng ấy trở thành linh hiển. Nguyên lai, Phật Giáo không có nghi thức này, mà chỉ có nghi thức gia trì tượng Phật, so với nghi Khai Quang có khác nhiều. Nếu xét về phương pháp Khai Quang thần tượng theo Đạo Giáo, mọi việc đều thông qua vị Cao Công Pháp Sư (高功法師), chọn ngày giờ tốt để tiến hành nghi Khai Quang Điểm Nhãn. Nghi thức ấy gồm 12 loại khoa nghi: Thanh Tịnh (清淨), Thỉnh Thần (請神), Phát Chỉ (發旨), Phát Lịnh (發令), Thất Tinh (七星), Bát Quái (八卦), Nhập Thần (入神), Sắc Bút (敕筆), Sắc Kính (敕鏡), Sắc Kê (敕雞), Khai Quang (開光), Phát Hào (發毫). Khai Quang còn gọi là Khai Nhãn (開眼), Khai Minh (開明), Khai Quang Minh (開光明), Khai Nhãn Cúng Dường (開眼供養), Khai Nhãn Giới (開眼界), Khai Nhãn Căn (開眼根). Thiền Lâm Tượng Khí (禪林象器) quyển Thượng có ghi rằng: “Phàm tân tạo Phật Tổ Thần Thiên tượng giả, chư tông sư gia, lập địa sổ ngữ, tác bút điểm thế, trực điểm khai tha Kim Cang chánh nhãn, thử vi Khai Nhãn Phật sự, hựu danh Khai Thủy Minh (凡新造佛祖神天像者、諸宗師家、立 數語、作筆點勢、直點開他金剛正眼 、此爲開眼佛事、又名開水明, phàm các tượng Phật, Tổ, Thần, chư Thiên mới tạo nên, các nhà Tông sư, đứng trên mặt đất nói vài lời, cầm cây bút theo tư thế điểm, điểm thẳng khai mở chánh nhãn Kim Cang của tượng; đây là Phật sự Khai Nhãn, còn gọi là Khai Thủy Minh).” Phật Giáo cho rằng chúng sanh từ vô thỉ kiếp cho đến nay, đã chịu biết bao nhiêu ô nhiễm của trần cấu, vô minh, nên không thể nào thấy rõ chân lý của các pháp, vì vậy cần phải khai mở trí tuệ bên trong mỗi chúng ta. Khai Quang cũng là một hình thức để tu chứng đạt đến tương ứng với Phật tâm, cầu thỉnh chư Phật Bồ Tát giáng lâm, ấn chứng cho Ứng Thân của tôn tượng, rót vào đó năng lượng đại từ đại bi, đại trí đại tuệ, Ngũ Nhãn Lục Thông, thông qua người tiến hành lễ Khai Quang. Do đó, hiệu quả của việc Khai Quang hoàn toàn liên quan đến vị Đạo Sư hành lễ, chứ không phải do nghi thức hay hình thức gì cả. Về tiến trình lễ Khai Quang, trước khi hành lễ, phải an trí tôn tượng một nơi cố định, trước tụng kinh và thần chú để cung thỉnh chư Phật, Bồ Tát an tọa; sau đó mới thỉnh chư vị cao tăng vì tôn tượng mà tiến hành Khai Quang, thuyết pháp. Hắc Cốc Đăng Ngữ Lục (黑谷燈語錄) quyển Trung có giải thích rằng: “Khai Nhãn giả, bổn thị Phật tượng điêu khai nhãn, thị sự Khai Nhãn, thứ tăng gia tụng Phật Nhãn Chơn Ngôn, tụng Đại Nhật Chơn Ngôn, nhi thành tựu Phật nhất thiết công đức, thử vị Khai Nhãn dã (開眼者、本是佛匠雕開眼、是事開眼 次僧家誦佛眼真言、誦大日真言、而 成就佛一切功德、此謂開眼也, Khai Nhãn vốn là khai mở con mắt của tượng điêu khắc, việc đó là Khai Nhãn; kế đến chư tăng tụng Phật Nhãn Chơn Ngôn, tụng Đại Nhật Chơn Ngôn, để thành tựu hết thảy công đức, đây được gọi là Khai Nhãn vậy).” Thật ra, Khai Quang là một loại nghi thức thuyết pháp cử hành cho tượng Phật. Nghi thức cụ thể như sau: Trước hết vị chủ lễ cầm một cái khăn lông hướng về tượng Phật làm động tác lau chùi tôn tượng, rồi nói một câu kệ, tán tụng công đức của chư Phật Bồ Tát, như vậy được gọi là Khai Nhãn. Tiếp theo, vị ấy dùng cái kính hướng đối chiếu ngay chánh diện của tượng Phật, nói vài lời về ngôi tự viện hiện tại, nhân duyên hoàn thành tôn tượng. Sau đó, vị chủ lễ cầm cây bút Chu Sa (硃砂), lại nói một câu kệ ngữ khác, rồi cầm cây bút hướng về tôn tượng làm động tác “điểm”, hô vang một tiếng “khai (開, mở ra)”; khi nghi thức ấy đã xong, như vậy việc Khai Quang được xem như là hoàn tất. Khi Khai Quang, do vì công đức của chư Phật Bồ Tát không giống nhau, nên vị chủ lễ nói pháp ngữ cũng không thống nhất. Tại Trung Quốc, Pháp Hội Khai Quang được tiến hành đầu tiên vào năm thứ 5 (980) niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (太平興國) nhà Bắc Tống. Truyền Pháp Đại Sư Thí Hộ (傳法大師施護), người nước Ô Điền Nẵng (烏塡曩) ở Bắc Ấn Độ, đã dịch bản Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai An Tượng Tam Muội Nghi Quỹ Kinh (佛說一切如來安像三昧儀軌經, Taishō Vol. 21, No. 1418) tại Dịch Kinh Viện (譯經院) của Thái Bình Hưng Quốc Tự (太平興國寺) thuộc Phủ Khai Phong. Dịch bản này ghi rõ toàn bộ quy trình tiến hành nghi thức Khai Quang Điểm Nhãn một cách chi tiết. Tại Nhật Bản, trong Điều Thiên Trí Thiên Hoàng Thập Niên Thập Nguyệt (天智天皇十年十月條, tháng 10 năm thứ 10 [671] đời Thiên Trí Thiên Hoàng [天智天皇, Tenji Tennō, tại vị 661-671]) của bộ Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshōki) có ghi lại Lễ Khai Nhãn cho trăm tượng Phật trong cung nội; rồi trong Điều Trì Thống Thiên Hoàng Thập Nhất Niên Thất Nguyệt (持統天皇十一年七月條, tháng 7 năm thứ 11 [697] đời Trì Thống Thiên Hoàng [持統天皇, Jitō Tennō, tại vị 690-697]) có ký lục cho biết rằng tại Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji) ở vùng Phi Điểu (飛鳥, Asuka) có tiến hành Hội Khai Nhãn. Vào ngày mồng 8 tháng 4 năm thứ 4 (752) niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo (天平勝寶), lễ Hội Khai Nhãn Tượng Đại Phật (大佛開眼會) được diễn ra tại Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), thành phố Nại Lương (奈良, Nara). Hiếu Khiêm Thiên Hoàng (孝謙天皇, Kōken Tennō, tại vị 749-758), Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749), Hoàng Thái Hậu và phi tần nội cung, cùng toàn thể quần thần bá quan văn võ đồng đến tham dự với khoảng hơn 1 vạn tăng sĩ hành lễ. Đặc biệt, lễ hội này do Bồ Đề Tiên Na (s: Bodhisena, 菩提僊那) chủ lễ, và điều khiển nhạc lễ thì do Phật Triết (佛哲, Buttetsu, ?-?, hay Phật Triệt [佛徹]), vị tăng sang Nhật Bản dưới thời đại Nại Lương (奈良, Nara), xuất thân vùng Lâm Ấp (林邑, Nam bộ Việt Nam, Huế-Phan Rang). Trong khoảng thời gian niên hiệu Khai Nguyên (開元, 713-741) nhà Đường, ông theo Bồ Đề Tiên Na sang Trung Quốc. Đến năm thứ 8 (736) niên hiệu Thiên Bình (天平), thể theo lời thỉnh cầu của vị tăng Nhật Bản sang nhà Đường là Lý Kính (理鏡) và vị Chánh Sứ Đa Trị Tỉ Quảng Thành (多治比廣成), ông cùng với thầy sang Nhật, đến trú tại Đại An Tự (大安寺, Daian-ji). Bồ Đề Tiên Na dạy Phật pháp, còn Phật Triệt chuyên tâm truyền dạy Nhã Nhạc Lâm Ấp cho nội cung triều đình Nhật, cùng là dạy các điệu múa Bồ Tát, Bạt Đầu, v.v., để cúng dường trong các lễ hội Phật Giáo. Trong lễ Hội Khai Nhãn năm 752 này, Phật Triệt điều khiển dàn nhạc gồm hơn 400 nhạc công và vũ công của Nhã Nhạc Viện (雅樂院) trong nội cung, diễn tấu Nhạc Lâm Ấp để cúng dường Tượng Đại Phật Tỳ Lô Giá Na (s: Vairocana, 毘盧遮那); lễ Hội kéo dài trong 3 tháng. Trong Chuẩn Đề Phần Tu Tất Địa Sám Hối Huyền Văn (准提焚修悉地懺悔玄文, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1482) có ghi lại sự huyền nhiệm của lễ Khai Nhãn như sau: “Hựu như Đinh Nguyên Công Tịnh Y Thiền Sư, vi cư sĩ thời, tằng vi dư y Bất Không dịch, tả Chuẩn Đề tượng ư Dược Sơn viên trung; Khai Quang chi nhật, hốt hữu cốt đổng gia, dĩ Chuẩn Đề Chơn Ngôn Phạn thư cựu hồng nha trục, Phạn thư cổ từ lư, đồng hương hạp, lai trợ trang diễn cúng dường giả, tinh cảm chiêu trung bất tư nghì sự (又如丁元公淨伊禪師、爲居士時、曾 余依不空譯、寫准提像於藥山園中、 開光之日、忽有骨董家、以准提眞言 書舊紅牙軸、梵書古瓷罏、銅香盒、 助裝演供養者、幷感召中不思議事, lại như Đinh Nguyên Công Tịnh Y Thiền Sư, khi còn làm cư sĩ, từng theo bản dịch của Bất Không, vẽ tượng Chuẩn Đề trong vườn Dược Sơn; ngày lễ Khai Quang, chợt có một người chơi đồ cổ, lấy cuộn sách cũ kỹ ghi Chuẩn Đề Chơn Ngôn bằng tiếng Phạn, bình sứ có ghi tiếng Phạn, hộp đốt hương bằng đồng, đến giúp trang trí cúng dường, bèn cảm biết trong ấy việc không nghĩ bàn).” Trong Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1252) quyển 1, có lòng văn Sớ về Tạo Tượng Khai Quang (造像開光) như: “Tướng hảo trang nghiêm, dĩ tận quỳ khuynh chi khẩn; trai tu túc liệt, viên thân bộc hiến chi cung; ngung nhược hữu phu, nghiễm nhiên như tại. Thiết niệm: [Mỗ] thọ hạ liệt thân phạp đại nhân tướng, đổ Tử Ma chi sắc, hạt thắng kỳ thừa; vọng bạch hào chi quang, đồ thiết bi ngưỡng; thị dĩ kính vu [mỗ] tự thí tạo [mỗ] tượng nhất tôn, tạo công ký tất nhưng diên tăng kiến Khai Quang thực phước đạo tràng, [nhập Phật sự] phủ tu vi thiện, ngưỡng đáp hồng hưu. Phục nguyện: Ngộ chơn không tướng, hoạch pháp tánh thân; bị nhị nghiêm chi tư, biến du giác uyển; tiêu Ngũ Trược chi uế, hằng xử Tịnh Bang (相好莊嚴、已盡葵傾之懇、齋饈肅列 爰申曝獻之恭、顒若有孚、儼然如在 、竊念[某]受下劣身乏大人相、睹紫磨之色、曷 祇承、望白毫之光、徒切悲仰、是以 于[某]寺施造[某]像一尊、造功既畢仍延僧建開光植福 塲、[入佛事]俯修微善、仰答洪休、伏願悟眞空相 獲法性身。備二嚴之資、遍遊覺苑、 五濁之穢、恆處淨邦, tướng tốt trang nghiêm, bày tận tấc lòng khẩn thiết; cỗ chay thiết đủ, chí thành dâng hiến cúng dường; vĩ đại đức tin, nghiễm nhiên hiện hữu. Thiết nghĩ: [Con…] thọ thân hạ liệt thiếu tướng đại nhân [bậc giác ngộ], thấy vàng ròng sắc tướng, sao khỏi ước mong; ngắm mày trắng hào quang, không sao buồn tủi; do vậy kính ngưỡng chùa …, tạo dựng tượng một pho, công trình hoàn tất, lại thỉnh chư tăng lập đạo tràng Khai Nhãn gieo phước; [phần Phật sự], cúi tu chút thiện, ngưỡng đáp hồng ân. Cúi mong: Ngộ chơn không tướng, đạt pháp tánh thân; đủ phước trí dáng hình, chơi khắp vườn giác; tiêu Năm Trược ô uế, thường trú Tịnh Bang).” Trong Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai An Tượng Tam Muội Nghi Quỹ Kinh có nêu một số câu Thần Chú dùng cho lễ Khai Quang như Chơn Ngôn Hiến Ứ Già Cúng Dường (眞言獻閼伽供養, cúng dường nước) là “Án, tát rị phạ bá ba ta phổ tra na hạ nẵng phạ nhật ra dã tát phạ hạ (唵薩哩嚩播波娑普吒那賀曩嚩日囉野 嚩賀)”; Hương Du Chơn Ngôn (香油眞言, Chơn Ngôn cúng dường hương dầu) là “Án, tát rị phạ đát tha nga đa ca dã vĩ thú đà nhĩ ta phạ hạ (唵薩哩嚩怛他誐多迦野尾戍馱你娑嚩 )”; Phật Nhãn Bồ Tát Chơn Ngôn Năng Trừ Nhất Thiết Cấu (佛眼菩薩眞言能除一切垢, Chơn Ngôn của Phật Nhãn Bồ Tát có thể trừ tất cả những dơ bẩn) là “Án, tát rị phạ ra tổ ba hạ ra noa ta phạ hạ (唵薩哩嚩囉祖波賀囉拏娑嚩賀)”; Quán Đảnh Chơn Ngôn (灌頂眞言) là “Án, tát rị phạ đát tha nga đa tỷ sân ca tam ma dã thất rị duệ hồng (唵薩哩嚩怛他誐哆鼻詵迦三摩野室哩 吽)”; Trước Y Chơn Ngôn (著衣眞言, Chơn Ngôn mặc áo) là “Án, phạ nhật ra phạ ta tế ta phạ hạ (唵嚩日囉嚩娑細娑嚩賀)”; An Nhĩ Chơn Ngôn (安耳眞言, Chơn Ngôn an vị lỗ tai) là “Án, ca ra noa ma lộ đà ra noa hồng (唵迦囉拏摩路馱囉拏吽)”; An Phát Kế Chơn Ngôn (安髮髻眞言, Chơn Ngôn an vị tóc và búi tóc) là “Án, tát rị phạ chỉ ta a phạ đa ra noa hồng ta phạ hạ (唵薩哩嚩枳娑阿嚩哆囉拏吽娑嚩賀)” ; An Chỉ Giáp Chơn Ngôn (安指甲眞言, Chơn Ngôn an vị ngón tay) là “Án, tát rị phạ thâu nẵng khư thế na nẵng ra nhã ta phạ hạ (唵薩哩嚩輸曩佉砌那曩囉惹娑嚩賀)” ; An Tì Tu Chơn Ngôn (安髭鬚眞言, Chơn Ngôn an vị râu ria) là “Án, tát rị phạ ta ma tô rô đà ra noa hồng hồng hứ lăng (唵薩哩嚩娑摩酥嚕馱囉拏吽吽呬凌)” ; Hiến Đồ Hương Chơn Ngôn (獻塗香眞言, Chơn Ngôn dâng cúng dầu hương) là “Án, phạ nhật ra hiến đệ ta phạ hạ (唵嚩日囉巘弟娑嚩賀)”; An Trang Nghiêm Chơn Ngôn (安莊嚴眞言) là “Án, phạ nhật ra bà ra noa vĩ bộ sắt ni ta phạ hạ (唵嚩日囉婆囉拏尾部瑟尼娑嚩賀)”; Bổn Tôn Tam Muội Chơn Ngôn (本尊三昧眞言) là “Án, hồng đát lạc ngật rị ác (唵吽怛落仡哩惡)”; Hiến Hoa Chơn Ngôn (獻花眞言) là “Án, phạ nhật ra bổ sắt bế hồng (唵嚩日囉補瑟閉吽)”; Hiến Hương Chơn Ngôn (獻香眞言) là “Án, phạ nhật ra độ bế (唵嚩日囉度閉)”; Đăng Chơn Ngôn (燈眞言) là “Án, phạ nhật ra nễ bế ta phạ hạ (唵嚩日囉禰閉娑嚩賀)”; Thực Chơn Ngôn (食眞言) là “Án, tân nỗ ba đán bát ra để ngật rị hận nẵng ta phạ hạ (唵賓努波旦缽囉底仡哩恨曩娑嚩賀)” ; Khai Nhãn Quang Chơn Ngôn (開眼光眞言) là “Án, tác sô tác sô tam mãn đa tác sô vĩ thú đà nễ ta phạ hạ (唵作芻作芻三滿哆作芻尾戍馱你娑嚩 )” và “Án, nễ đát ra ba tra lộ ba hạ ra noa hứ lăng (唵你怛囉波吒路波賀囉拏呬凌)”; Hộ Ma Chơn Ngôn (護摩眞言) là “Án, phạ nhật ra dụ thế ta phạ hạ (唵嚩日囉喻世娑嚩賀)”; Tức Tai Tăng Ích Chơn Ngôn (息災增益眞言) là “Án, phạ nhật ra bố sắt tra duệ ta phạ hạ (唵嚩日囉布瑟吒曳娑嚩賀)”; Hộ Thế Chơn Ngôn (護世眞言) là “Ấn, nại ra dã ta phạ hạ (印捺囉野娑嚩賀)”, v.v.



    https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat...ang-k4250.html





  12. #5992
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Tích Trượng có nghĩa là:


    (s: khakkhara, khakharaka, 錫杖): âm dịch là Khích Khí La (隙棄羅), Khế Khí La (喫棄羅), Ngật Cát La (吃吉羅), Ngật Khí La (吃棄羅); còn gọi là Thanh Trượng (聲杖), Thiền Trượng (禪杖), Minh Trượng (鳴杖), Trí Trượng (智杖), Đức Trượng (德杖), Kim Tích (金錫); gọi tắt là Trượng (杖); là một trong 18 vật thường dùng của vị Tỳ Kheo, là vật dụng thường mang đi trên đường. Nguyên lai, Tích Trượng được dùng để xua đuổi rắn độc, côn trùng, v.v. Hoặc khi đi khất thực, vị Tỳ Kheo chấn rung cây Tích Trượng, làm cho ở xa cũng nghe biết; và đời sau nó trở thành một trong những pháp khí. Trong quyển Hạ của Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi (大比丘三千威儀, Taishō Vol. 24, No. 1470), có giải thích rõ nguyên do cầm Tích Trượng như thế nào: “Nhất giả vi địa trùng cố, nhị giả vi niên lão cố, tam giả vi phần vệ cố (一者爲地虫故、二者爲年老故、三者 分衛故, thứ nhất vì côn trùng dưới đất, thứ hai vì tuổi già, thứ ba vì để bảo vệ).” Tích Trượng được sử dụng không những chỉ để xua đuổi côn trùng độc hại, mà còn để báo cho biết khi đi khất thực, hay làm vật chống đỡ cho người lớn tuổi, già yếu. Trong quyển Hạ của Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi còn nêu rất rõ 25 điều cần phải biết đối vị Tỳ Kheo cầm Tích Trượng như “xuất nhập kiến Phật tượng, bất đắc sử đầu hữu thanh (出入見佛像、不得使頭有聲, khi ra vào thấy tượng Phật thì không được làm cho đầu trượng phát ra tiếng vang)”, “bất đắc trì trượng nhập chúng (不得持杖入眾, không được mang trượng vào trong chúng)”, “tam sư dĩ trì trượng xuất, bất đắc phục trì trượng tùy xuất (三師已持杖出、不得復持杖隨出, khi ba thầy đã mang trượng đi ra rồi, không được lại cầm trượng đi theo ra)”, v.v. Cho nên, việc sử dụng Tích Trượng được chế định rất nghiêm cẩn, chứ không được lạm dụng. Trên đầu Tích Trượng có những vòng tròn lớn nhỏ bằng thiếc, khi lắc phát ra tiếng kêu leng keng, nên có tên gọi là Thanh Trượng (聲杖, gậy phát ra âm thanh). Nó được dùng đi khắp các nơi, nên được gọi là Phi Tích (飛錫), Tuần Tích (巡錫); nếu dừng một nơi mà trụ thì gọi là Lưu Tích (留錫). Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2076) quyển 8, có ghi lại câu chuyện của Thiền Sư Ẩn Phong (隱峰) ở Ngũ Đài Sơn (五臺山). Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (元和, 806-820) nhà Đường, trên đường lên Ngũ Đài Sơn, lúc đi ngang qua Hoài Tây (淮西), Thiền Sư gặp quan quân triều đình và giặc cướp đang giao tranh lẫn nhau, bất phân thắng bại; để hóa giải họa hoạn này, Thiền Sư bèn ném cây trượng lên không trung, phi thân bay qua. Khi ấy tướng sĩ của hai bên ngước lên nhìn mà khiếp hãi tưởng như trong giấc mơ, không còn tâm trí đánh nhau nữa. Câu chuyện này trở thành nổi tiếng trong Thiền lâm với thuật ngữ phi tích cao tăng (飛錫高僧, vị tăng đức độ cỡi trên Tích Trượng mà bay đi, hay vị tăng đi du hành đó đây). Trong Thiên Thai Tông và Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, khi có pháp hội, người ta thường dùng loại Tích Trượng ngắn, vừa chấn rung vừa tụng thần chú. Về nguồn gốc của Tích Trượng, Căn Bổn Nhất Thuyết Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (根本說一切有部毘奈耶雜事, Taishō Vol. 24, No. 1451) quyển 34 có giải thích rằng nhân sự việc vị Tỳ Kheo đến nhà người khất thực, gặp vài trở ngại như lên tiếng báo cho biết, hay gõ cửa, v.v., đều bị quở trách; nên Phật chế dùng Tích Trượng như “trượng đầu an hoàn, viên như trản khẩu, an tiểu hoàn tử, dao động tác thanh nhi vi cảnh giác (杖頭安鐶、圓如盞口、安小鐶子、搖 作聲而爲警覺, gắn vòng tròn trên đầu trượng, tròn như miệng chén, gắn vòng nhỏ, rung động tạo thành tiếng để báo cho biết).” Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 5, phần Tích Trượng cho biết rằng: “Phật cáo Tỳ Kheo, ưng thọ trì Tích Trượng, quá khứ vị lai hiện tại chư Phật giai chấp cố; hựu danh Trí Trượng, hựu danh Đức Trượng; chương hiển trí hành công đức bổn cố. Tích giả, khinh dã; y ỷ thị trượng trừ phiền não xuất Tam Giới cố. Tích minh dã, đắc trí minh cố. Tích tỉnh dã, tỉnh ngộ khổ không Tam Giới kết cứu cố. Nhị dịch lục hoàn thị Ca Diếp Phật chế, tứ dịch thập nhị hoàn thị Thích Ca Phật chế (佛告比丘、應受持錫杖、過去未來現 諸佛皆執故、又名智杖、又名德杖、 彰顯智行功德本故、錫者、輕也、依 是杖除煩惱出三界故、錫明也、得智 故、錫醒也、醒悟苦空三界結究故、 二股六環是迦葉佛製、四股十二環是 迦佛製, Phật dạy Tỳ Kheo nên thọ trì Tích Trượng, vì chư Phật trong quá khứ vị lai và hiện tại đều dùng đến; lại có tên là Trí Trượng, lại có tên là Đức Trượng; làm sáng tỏ gốc công đức của Trí và Hành. Tích nghĩa là nhẹ, vì nương tựa vào cây trượng này mà đoạn trừ phiền não, ra khỏi Ba Cõi. Tích nghĩa là sáng, vì đạt được trí tuệ sáng suốt. Tích nghĩa là tỉnh, vì tỉnh ngộ khổ không của Ba Cõi cứu cánh. Trượng có hai đầu sáu vòng là do Phật Ca Diếp chế ra; có bốn đầu 12 vòng là do Phật Thích Ca chế ra).” Trong Phật Thuyết Mục Liên Ngũ Bách Vấn Kinh Lược Giải (佛說目連五百問經略解, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 44, No. 750) quyển Hạ giải thích rằng: “Y bát nãi nhẫn nhục chi pháp khí, Tích Trượng biểu Như Lai chi Pháp Thân (衣缽乃忍辱之法器、錫杖表如來之法 , y bát là pháp khí của nhẫn nhục, Tích Trượng là Pháp Thân của Như Lai).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) cho biết rằng: “Quải tam sự Như Lai y, hướng nhân gian ứng cúng phước điền, thủ trì Tích Trượng hàng long hổ (掛三事如來衣、向人間應供作福田、 持錫杖降龍虎, mang áo Như Lai ba việc, hướng cuộc đời ruộng phước cúng dường, tay cầm Tích Trượng hàng rồng hổ).” Trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu (毗尼日用切要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1115) do Luật Sư Độc Thể (讀體, 1601-1679), vị cao tăng của Phái Thiên Hoa (千華派) thuộc Luật Tông Trung Quốc soạn, có bài kệ Xuất Tích Trượng (出錫杖, Lấy Tích Trượng) như sau: “Chấp trì Tích Trượng, đương nguyện chúng sanh, thiết đại thí hội, thị như thật đạo. Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế, na dạ bát nanh, hồng phấn tra (執持錫杖、當願眾生、設大施會、示 實道、唵、那㗚噆、那㗚噆、那栗吒 缽底、那㗚帝、娜夜缽儜、吽癸吒, cầm giữ Tích Trượng, nguyện cho chúng sanh, thiết hội đại thí, chỉ đường như thật. Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế, na dạ bát nanh, hồng phấn tra).”




    https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat...ong-k5626.html







  13. #5993
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    42 THỦ NHÃN CỦA CHÚ ĐẠI BI.

    (Khuyến khích không thực hành).





    Dạo này tự nhiên nhiều bạn hỏi tôi về 42 thủ nhãn nên tôi xin chia sẽ 1 chút hiểu biết nông cạn của mình về lĩnh vực này

    Đầu tiên để luyện tập 42 thủ nhãn thì hành giả phải quán tưởng sâu sắc chữ Án( Om), chữ này là mẹ sinh ra thần chú nên mới gọi là bổn mẫu. Và là chữ đầu tiên mà trời Phạm Thiên dạy cho loài người. Mình nhìn vào nó, quán tưởng đến nó, trong tâm in đậm sâu sắc về nó.

    Kế đến, phải biết chính xác thủ ấn mình luyện tập là dùng tay trái hay tay phải.

    Ví dụ, Như Ý châu thủ là dùng tay trái, vậy thì mình sẽ dùng tay phải ( nín thở lại) và dùng ngón tay trỏ vẽ 1 chữ Án vào tay lòng tay trái để sái tịnh bàn tay mình lại. Sau đó cầm 1 hoạ tượng như viên đá hình tròn, hay là 1 viên bi và xem nó như là viên ngọc châu như ý của 42 thủ nhãn hay viên ngọc trên tay Bồ Tát Địa Tạng đang cầm vậy.

    Quán tưởng viên ngọc mình đang cầm là viên như ý trên tay Bồ Tát, nhìn tập trung vào tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn, và miệng đọc chân ngôn liên quan câu chú đó.

    Trì tụng đến khi nào mà thấy tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn hay viên ngọc trên tay mình phát sáng lên là biết Bồ Tát đã ấn chứng cho mình đã luyện thành rồi vậy.

    Tương tự, Dương Chi Thủ Nhãn là dùng tay phải, thì phải dùng tay trái vẽ chữ Án để sái tịnh tay phải rồi mới cầm hoạ tượng để hành trì chân ngôn.
    Nhưng....


    Sở dĩ tôi viết thật kĩ là khuyến khích không thực hành là vì nó còn thiếu 1 bước rất quan trọng là... truyền pháp. Chú Đại Bi là hiển pháp, ai trì tụng cũng hoan hỷ chứ 42 thủ nhãn là thuộc về mật pháp, chưa có thầy truyền pháp mà tự ý hành trì là xác suất thành công ngang ngửa với trúng số độc đắc vậy. Rất hiếm lắm. Cũng bao nhiêu công thức này mà có thầy truyền pháp thì thành tựu rất nhanh và cũng bao nhiêu công thức này mà chưa được truyền pháp thì trì tụng trẹo miệng luôn, cũng không ăn thua gì đâu.


    Hòa thượng Tuyên Hóa nói câu... trì chú Đại Bi mà không biết 42 thủ nhãn thì như là có chân mà không có tay. Câu này rất đúng đối với Phật tử xuất gia mang chí nguyện hoằng dương Phật pháp, thi triển Phật sự thì như hổ mọc thêm cánh vậy. Chứ còn Phật tử tại gia như chúng ta đây là không có phù hợp để tu tập pháp môn này. Hơn nửa trong 42 thủ nhãn có nhiều câu hàng ma phục yêu, sai khiến quỷ thần...vv. mình là Phật tử tại gia thì học làm chi mấy cái này? Dùng không cẩn thận rồi kết ân oán gian hồ với thế giới bên kia nửa. Nên tốt nhất là siêng năng hành trì chú Đại Bi có công đức sẽ tốt hơn là lãng phí thời gian vô luyện mấy cái này mà kết quả thì... hên xui.


    Những vị Thầy mà từng chứng kiến diệu dụng của 42 thủ nhãn do mấy vị Tổ đi trước thi triển, họ mới khâm phục hết sức uy lực của 42 thủ nhãn. Chẳng hạn ở Việt Nam có 1 vị Thầy bị gãy chân, nhưng vì lớn tuổi quá, bác sĩ không dám mổ vì sợ nguy hiểm tính mạng, thế là vị Thầy này trong đêm khuya đã dùng Dương Chi Thủ Nhãn để tay lên chổ gãy và hành trì chân ngôn. Kết quả là sáng hôm sau 2 đốt xương đó tự nối lại và đi đứng bình thường lại trong sự ngỡ ngàng của bác sĩ. Tôi có nghe quý Thầy kể ở Bình Định ngày xưa có 1 vị Thầy già đợi đêm khuya , người dân đã ngủ và Ngài đã dùng 42 thủ nhãn để sai khiến quỷ thần lăn đá trên núi xuống để xây cái am nhỏ cho Ngài tu hành, quỷ thần ở đó không khác gì hộ pháp hộ trì Chánh Pháp vậy đó.


    Viện trưởng viện Phật học là người Việt mình, khi còn ở Việt Nam cũng đã từng dùng Nhật Tinh Ma Ni Thủ nhãn trị lành đôi mắt bị mù của 1 thanh niên do bị quỷ phun khói trong chú Lăng Nghiêm thổi vào gây mù mắt. Nên biết 42 thủ nhãn nó trợ giúp trong việc hoằng pháp rất đáng kể.


    Có 1 thời kì mà Ấn Độ quay lưng với Phật giáo, trong các nguyên nhân thì có 1 cái dính tới 42 thủ nhãn này. Những vị đại sư thời kì đầu tu tập tinh tấn, trang nghiêm thanh tịnh nên họ mới dùng 42 thủ nhãn này, sai khiến quỷ thần để ngăn cản quân giặc xâm lược. Nhưng mà sau này những vị kế thừa sau này tu tập giải đãi, coi trọng hình tướng, đức hạnh không đủ nên dùng 42 thủ nhãn, phát huy không được nên quân giặc ngoại xâm tấn công được đất nước. Đây cũng là 1 lí do mà dân chúng quay lưng với đạo Phật ở 1 thời kì là vậy.


    Trước khi mà Hoà thượng Tuyên Hóa hoằng dương Phật Pháp, lan tỏa Chánh Pháp là ở Việt Nam từ đời xa xưa do ảnh hưởng từ dòng Liên Hoa Sanh nên mấy vị Thánh Tăng Việt Nam đã biết dùng và truyền thừa 42 thủ nhãn rồi, kể cả các ấn pháp chú Lăng Nghiêm hay diệu dụng, ý nghĩa từng câu chú là quý Ngài đã truyền thừa lâu rồi.



    Đây là những gì hiểu biết của tôi về 42 thủ nhãn mà tôi được học lại từ quý Thầy, nhưng vì yếu tố không được truyền pháp mà bản thân tôi từng mất nhiều thời gian tập luyện 42 thủ nhãn và... kết quả là công cốc. Nên tôi khuyên mọi người dành nhiều thời gian trì tụng chú Đại Bi còn có ích lợi hơn nửa là vậy. Phước báo mình không có mà tham vọng đòi tu thêm 42 thủ nhãn nửa, lãng phí thời gian cuộc đời mình lắm.




    https://www.facebook.com/share/p/1Q8Qs92npz/




    Last edited by phoquang; 15-12-2025 at 05:27 PM.

  14. #5994
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Tài Liệu Tu Tập Thích Nhật Quang



    https://fr.scribd.com/document/58969...1%BA%ADt-Quang






    Last edited by phoquang; 15-12-2025 at 05:32 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

  1. TẠI SAO CÁC NƯỚC CÓ BÙA CHÚ PHÁP THUẬT CAO TRONG QUÁ KHỨ ĐẢ BỊ THUA KHI C
    By ÁNH SÁNG -T2- ÚC CHÂU in forum Thế Giới Bùa Ngải
    Trả lời: 41
    Bài mới gởi: 29-03-2017, 11:59 PM
  2. Đàm đạo các vấn đề pháp thuật & đạo thuật trong bíkiếp ThấtBộ TrầnKỹ
    By ÁNH SÁNG -T2- ÚC CHÂU in forum Đạo Giáo ( Lão giáo, Khổng giáo, Nho giáo )
    Trả lời: 242
    Bài mới gởi: 11-03-2011, 08:54 AM
  3. Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 30-08-2010, 10:32 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •