ĐÀN PHÁP - MẠN ĐÀ LA

(Trong Mật Tông Tây Tạng)

Kiêm Đạt



Đàn Pháp (hay Đàn Tràng) được định nghĩa qua nhiều ý niệm khác nhau, và trong những trường hợp đó cũng đã được phân chia ra những loại khác nhau. Trong phần dẫn nhập về "Đàn Pháp" trong kinh Đại Nhật, Kim Cang Thủ Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn, thế nào là Mạn Đà La?".Đức Phật dạy: "Phát sanh chư Phật gọi là Mạn Đà La. Trong các pháp không chi hơn được. Về Pháp Vị cũng không chi sánh bằng được..."

Nhiều tác giả khi nhận thức ý nghĩa và công năng của Mạn Đà lagiải thích: Mạn Đà La là biểu trưng về thậm thâm diệu pháp của đức Phật, qua nhận định của chúng sanh. Trong Quán tưởng Đàn Pháp, có thể mỗi Phật Tử hiểu theo một cách khác nhau, tuy nhiên, về mục đích quán tưởng vẫn là đồng nhất. Mạn Đà La có nhiều thểtướng, để biểu trưng ý nghĩa khác nhau về các vấn đề Phật Học.Chẳng hạn như Đàn Pháp về Giác Ngộ, Đàn Pháp về Luân Hồi, Đàn Pháp về Tái Sanh...

Trong truyền thống Kim Cang Thừa (Vijrayana) hay Mật Điển (Secret Mantra), thế giới được trình bày qua 3 phạm vi khác nhau: thọ uẩn, sắc uẩn và thức uẩn. Thế giới của thọ uẩn tương quan với chúng ta được gọi là "Ngoại Đàn Pháp"; tương quan với thế giới sắc uẩn thì gọi là "Nội Đàn Pháp"; tương quan với thế giới thức uẩn thì gọi là "Mật Đàn Pháp" hay "Đàn Pháp bí mật".

Hình thể Về hình thể trình bày, theo cách phân chia trong Kinh Đại Nhật,Đàn Pháp thể hiện hình thức bằng 4 loại khác nhau: - Đàn Pháp hình tròn- Đàn Pháp hình vuông - Đàn Pháp hình tam giác - Đàn Pháp hình bán nguyệt Nhưng trong Kim Cang Đảnh thì lại phân chia qua 5 hình thức: - Đàn Pháp hình tròn- Đàn Pháp hình vuông - Đàn Pháp hình tam giác - Đàn Pháp hình hoa sen- Đàn Pháp Kim Cang.

Theo lý giải của Kinh nầy, thì Đàn Pháp hình tròn tượng trưng cho Thủy Đại; đàn pháp hình vuông tượng trưng cho Địa Đại; Đàn Pháp hình tam giác tượng trưng cho Hỏa Đại; đàn pháp hình bán nguyệt tương trưng cho Phong Đại. Đất, nước, gió, lửa là Tứ Đại. Để khai triển thêm ý nghĩa của những Đàn Pháp nầy, Kinh Đại Nhật còn giải lý thêm: - Đàn Pháp hình vuông: tượng trưng cho sự bình đẳng của chúng sanh trong mọi cảnh giới. Đàn Pháp hình tròn: có nghĩa là viên mãn, trọn vẹn, vì hư không và nước thường được thể hiện bằng hình tròn. - Đàn Pháp hình tam giác: có nghĩa là hàng phục, vì tướng của lửahiện ra với hình tam giác. Đàn Pháp bán nguyệt: có nghĩa là diệt trừ những tai nạn thường xẩy ra, vì gió thường xô ngả các vật.

Căn cứ theo những ý nghĩa trên, các Mạn Đà La được thể hiện qua các hình dáng đó. Mật Giáo Tây Tạng cũng đưa ra những thể tướng về Đàn Pháp khácnhau nữa. Thông thường, những Mạn Đà La của Mật Tông thường được tạo dáng bằng những hạt cát được nhuộm màu, gọi là "Sa Mạn Đà la" (Sand Mandala). Giải thích về việc dùng cát trong Mạn Đà La, kinh"Pháp Giới Quán" viết: "Chúng sanh trong bốn cõi là hằng hà sa số; Cát lại mang ý nghĩa về thể Kim Cương Bất Hoại và tính Bình Đẳngcủa chúnh sanh". Cũng có những loại Mạn Đà La được kết lập bằng hình tượng chư Phật và Bồ Tát, Tứ đại Thiên Vương, Hộ Pháp. Màu sắc trên Đàn Pháp phải là: vàng, trắng, đỏ đen, xanh. 5 màu nầy diễn tả Ngũ đại: đất nước, lửa, gió và hư không.

Phân loại Đàn Pháp
Về cách phân chia Đàn Pháp, những kinh điển trình bày không thống nhất. Căn cứ theo Đà Ra Ni Kinh, Thần Biến Sớ, Chơn Ngôn Nghi Quỷ, thì Đàn Pháp được phân làm 5 loại chính:- Tức Tai Đàn Pháp- Tăng Ích Đàn Pháp- Kính Ái Đàn Pháp- Hàng Phục Đàn Pháp- Xuất Thế Gian Đàn Pháp Mỗi loại Đàn Pháp được sử dụng trong mục đích riêng, hành giả phải ngồi theo phương hướng riêng, quán tưởng theo màu sắc riêng. Tức Tai Đàn Pháp Đàn Pháp nầy được dùng để giải trừ ác nghiệp, trọng tội và phiền não chướng (theo Đà Ra Ni Kinh). Ngoài ra còn dùng để vượt qua được những tai nạn, những quỷ mị sở trước, ác tinh lăng bức (theo Thần Biến Sớ). Hành giả ngồi về hướng Bắc, tréo gót chân, ngồi thẳng. Tượng Chuẩn Đề xoay về hướng Nam, trước tượng của Ngài có đặt chiếc kính đàn. Khi quán tưởng để tụng Thần chú, phải liên tưởng đến màu trắng.

Chỉ có thể hành lễ nầy vào ngày mồng một và ngày mồng tám (âm lịch) trong mỗi tháng. Trước khi hành lễ phải tắm gội, thức ăn thì dùng "Tam bạch thức" nghĩa là: sữa, tấm và cháo. Trì tụng chú Chuẩn Đề 108 biến. Bài chú gồm có 8 chữ: Án, Chiết, Lệ, Chủ, Lệ, Chuẩn, Đề (đọc tên của mình hay người nào muốn giải nạn), Ta Bà (đọc chung), Ha. Trong Kinh "Chơn Ngôn Nghi Quỷ" có đoạn viết về công năng phi thường của cách ứng dụng Đàn Pháp nầy như sau:- "Đại phàm, hành giả nào trì tụng Tức Tai Đàn Pháp, với lòng thành khẩn nhất, đầy đủ nghi thức nhất, trong những ngày giờ quy định, chẳng những bệnh tật tiêu trừ, viễn ly khổ ách, thường hoạch cát tường, lại còn thăng tiến tinh thần, thân tâm thường an lạc; chẳng những lợi lộc chính bản thân mình mà còn giúp ích cho thân nhân của mình nữa. Quan trọng là dốc lòng thành kính. Trì tụng 108 biến hay nhiều hơn nữa càng hay..." (chương Luận Pháp).

Tăng Ích Đàn Pháp: Như tên gọi của Đàn Pháp, hành giả thường xuyên trì tụng Thần Chú nầy trong nhiều ngày sẽ gia tăng ích lợi về tinh thần cũng như về vật chất. Những vấn đề được đắc dụng nhất trong Tăng Ích Đàn Pháp là: gia tăng vinh quang, tăng trưởng thọ mạng (sống lâu, giải bệnh), cầu phước đức gia đình, tiền tài phong thạnh, phục tàng bảo châu. Khi trì tụng thì hành giả hướng về phương Đông, ngồi kiết già hay bán già. Bức tượng hình đức Chuẩn Đề hướng về phương Tây, trước tượng có đặt chiếc kính đàn (kính hình tròn). Khi quán tưởng thì nghĩ đến màu vàng.

Hương dụng trong lễ vật gồm có: bạch đàn, uất kim hương, thắp đèn dầu mè (ma du). Mỗi tháng, trì tụng từ ngày mồng 9 cho đến ngày 15 âm lịch, vào lúc mặt trời mọc. Đọc chú Chuẩn Đề như sau: Án, Chiết, Kệ, Chủ, Lệ, Chuẩn, Đề, (nêu tên mình hay người cần được gia tăng ích lợi), Ta Bà, Ha. Khi quán tưởng,thì nghĩ đến màu vàng. Đà Ra Ni Kinh có đoạn: "Thường nhật, trì tụng Thần Chú Tăng Ích Đàn Pháp với chơn tâm, thì phước đức trùng lai, vận hạn hanh thông, thân tâm an lạc".

Kính Ái Đàn Pháp "Kính" là đền đáp ơn cha mẹ; "Ái" là tình thương anh chị em, vợ chồng, gia đình hai bên nội ngoại. Công năng của Đàn Pháp nầylà: Cầu Thánh Hiền gia hộ, Thiên Long, Bát Bộ hoan hỷ, ngôn âm hoà nhã, người nghe hoan hỷ, mọi người ái kính, bạn hữu kết thân thêm, oan gia giải toả, trở nên hoà thuận.

Hành giả xây mặt về hướng Tây, ngồi theo thế kiết già hay bán già (có thể ngồi tự nhiên) lưng thẳng đứng, bức tượng Chuẩn Đề Bồ Tát thì xoay về hướng Đông, trước tượng có đặt kính đàn (hình tròn). Quán tưởng đến màu đỏ. Bài tụng chú Chuẩn Đề như trên. Hương dụng là Uất Kim Hương và Tô Hạp Hương. Trì tụng từ 16 đến 23 âm lịch trong mỗi tháng. Tụng vào lúc hoàng hôn.

Hàng Phục Đàn Pháp Đàn Pháp nầy được gọi là Tối Cao Đàn Pháp, nếu so với những thể loại Đàn Pháp khác. Mục đích chính yếu là hàng phục chúng ma, ácquỷ, giải trừ sự nhiễu loạn của tâm trí, chống lại những kẻ bội phản. Trong các trường hợp như thế thì trì tụng "Vận Đại Từ Đại Bi Thần Chú" mới ứng nghiệm. Hành giả hướng mặt về phương Nam, ngồi theo lối Tôn Cư Tọa (ngồi chồm hổm, bàn chân bên tả áp qua bàn chân bên hữu). Mặt tượng Chuẩn Đề Bồ Tát thì hướng về phương Bắc. Trước tượng có đặt chiế ckính đàn hình tròn.Đàn tràng dùng trong lễ nầy hình tam giác hay hình bán nguyệt đắc dụng hơn loại hình tròn hay hình vuông. Quán tưởng đức Chuẩn Đề màu xanh lam.Tụng vào những ngày cuối tháng (từ ngày 25 đến 30 âm lịch) vào lúc nửa đêm, 108 biến.

Xuất Thế Gian Đàn Pháp Đàn tràng nầy chỉ giành riêng cho những vị sống trong các hang động, mật thất tĩnh tu nên được gọi là "xuất thế gian". Kinh Đà Ra Ni viết rằng: "Hành giả ở núi rậm, hang sâu, hang cốc thăm thẳm thù thắng, già lam thanh tịnh. Đem hết lòng đại bi của mình đểtrì tụng thì lợi lộc vô biên cho thế giới hữu tình... "Thời gian trì tụng chú Chuẩn Đề nầy kéo dài 4 tháng 4 ngày không bao giờ gián đoạn, không liên hệ với thế giới bên ngoài. Các vị danh sư thường dùng đến Đàn Pháp nầy để cứu vớt chúng sanh. Hành giả ngồi nhiều hướng, tuy nhiên tốt hơn hết là hướng Đông. Mặt tượng Chuẩn Đề Bồ Tát thì hướng về phía Tây, trước tượng Bồ tát Chuẩn Đề có đặt kính đàn hình tròn. Hành giả quán tưởng đến Kim Cang Địa trải đều hoa sen, có vô lượng Thánh Chúng vi nhiễu (ngồi vây quanh để hộ trì Tam Bảo).

Bài trì tụng vẫn là "Cửu Thánh Phạm Tự Đàn" (bài chú 9 chữ như trên). Quán tưởng nhiều màu sắc nhưng tốt nhất là màu vàng. Trong thời gian nầy, có thể trì tụng đến hàng chục vạn biến bà ichú trên.Trong 5 loại Đàn Pháp kể trên sau khi trì tụng gần xong thì hành giả tụng bài Chuẩn Đề Công Đức:

"Tịch tịch tâm thường tụng, Nhất thiết chư đại nạn Vô năng xâm thị nhân Thiên thượng cập nhân gian Thọ phước như Phật đẳng Ngộ thử như ý châu Định hoạch vô đẳng đẳng."

Trong Mật Giáo, tất cả những Nghi Quỷ Thần Bí của lễ Điểm Đạo và Đàn Pháp đều nhắm vào việc mang lại cho hành giả những điều ước mơ, hoài vọng của mình trên đường tu tập cũng như trong đời sống hàng ngày của mình và gia đình thân quyến. Trong hai nghi lễ nầy, thường phải nhờ đến công năng của Gia Trì Lực (Adhistana). Gia Trì Lực là "năng lực phi thường, bất biến, vô ngại của chư Phật, chư Bồ Tát hộ trì cho hành giả tiến tu thuận lợi. Đại nguyện hộ trì của chưPhật và chư Bồ Tát đều hướng về lòng từ bi, hỷ xã, thanh tịnh, cho nên trong khi hành lễ, quán tưởng đến chư vị nầy sẽ đạt đượcý nguyện theo sở đắc" (theo Choegyam Trungpa).

Đà Ra Ni Mật Chú (Mantras)

Mật chú nầy có nghĩa là "Tổng trì" có khả năng lớn lao và bảo vệ giữ gìn tất cả những khả năng tu tập của hành giả. Khả năng nầybảo vệ thiện duyên, khuyến khích làm điều lành, tạo thiện niệm,giữ gìn 3 mặt: thân, khẩu, ý luôn luôn thanh tịnh, loại bỏ nhữngtạp niệm thường hay gây nhiễu loạn trên con đường tu hành. Các vịChân sư, Lạt Ma thường hay quán tưởng trì tụng Chú Đà Ra Ni nầytrong mỗi giờ, mỗi ngày, tạo được khả năng hùng mạnh, gọi là "KimCương Lực".Mật Chú Đà Ra Ni còn được gọi là "Chơn Ngôn" tức là những ngôn ngữ vi diệu, sâu sắc nhất của chư Phật và chư Bồ Tát trong nguyện độ chúng sanh. Đã là Mật ngữ, thì không thể nào giải lý được và phân tách ra được.

Khi trì tụng, bất cứ ngôn ngữ nào cũng dùng nguyên văn của Mật Ngữ nầy, thì mới thu được kết quả. Tánh chất "bất khả tư nghị" của Mật Chú càng gia tăng thêm sức mạnh của ngôn ngữ bùa chú.Theo Đại Nhật Kinh thì "Khi trì tụng Đà Ra Ni Kinh, tất cả tà ma, ngoại đạo đều lánh xa, lo sợ và hàng phục. Những ác niệm trong tâm của hành giả cũng tiêu tan. Những tham vọng của con người được dập tắt ngay từ khi khởi động.

Vì vậy, được gọi là pháp thuật vô biên".Trong Kinh "Lầu Cát" có đoạn viết: "Tất cả chư Phật đều do Đà Ra Ni sinh ra. Chơn ngôn chính là mẹ của chư Phật, thành chủng tư của chư Phật. Nếu không có Chơn Ngôn thì sẽ không thành Chánh Giác được. Chơn Ngôn có sức mạnh vô biên, vô tận, vô ngại. Tất cảTam Tạng Kinh Điển đều được khởi phát từ Đà Ra Ni mà ra cả. Thành thử trong Kinh "Tối Thượng Đại Thừa Bảo Vương" có nói đến bốn thừa: 1- Thanh Văn Thừa 2- Duyên Giác Thừa 3- Phương Quảng Đại Thừa. 4- Tối thượng Kim Cang Thừa. Thừa sau nầy chính là Đà Ra Ni Tạng vậy. Tất cả các pháp đều do KimCương Thừa lưu xuất.

Trong Kinh "Thần Biến Sao" có đoạn nói rằng: "Trong tất cả cácgiáo phái Phật Giáo đều phát khởi từ 2 ngọn núi Tích Thạch vàCôn Lôn; cũng như muôn hạnh nguyện thì đều do Đà Ra Ni mà racả..."

Dùng cho Thân Trung Ấm (khi chết)

Trong Kinh "Quan Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Thần Chú" có đoạn viết: "Nếu có người trì tụng Thần Chú, bất cứ trong truờng hợp nào, kểcả lúc lâm chung, đều được thành tựu hết thảy. Những người trì chú chẳng những có công năng lợi lạc hữu tình, lại còn có thể cứu thoát được u linh". Kinh "Thiên Thủ Thiên Nhãn Đà Ra Ni" cũng viết: "Bất luận người nào trì chú, thuờng tránh được những trường hợp bị ác tử như sau đây: 1- Trì chú sẽ không bị chết do đói khát, khốn khổ gây ra, có thể thoát nguy nhanh chóng, do chuyển lực và sự hộ trì của Tam Bảo. 2- Trì chú có thể tránh không bị chết do tra khảo, đánh đập của những thế lực bạo tàn hành hạ. 3- Trì chú sẽ không bị oan gia tương báo, không do những cuộc trảthù mà chết. 4- Trì chú sẽ không bị chết trong khi lâm trận, đối mặt với quân thù trực tiếp hay gián tiếp. 5- Trì chú sẽ không bị chết do những loài ác thú, những âm mưu thâm độc do kẻ khác ám toán. 6- Trì chú sẽ tránh được cái chết do những nọc độc của rắn rít,trùng độc, thú độc, cây độc do vô ý gây nên. 7- Trì chú sẽ không bị chết do nước trôi, lửa cháy, tai trời, ách nước, thiên tai, thủy họa.8- Trì chú sẽ không bị chết do âm mưu ám toán bằng những khí cụ hay ám khí. Chất độc thường được hóa giải dễ dàng.9- Trì chú sẽ tránh được cái chết do cuồng tâm loạn trí. Những trường hợp đó có thể an định tâm trí dễ dàng, loại trừ những khủng hoảng xẩy ra, nhiếp tâm trở về với an lạc.10- Trì chú sẽ tránh được cái chết do tà thần, ác quỷ, nộ khí,tiểu nhân, độc môn, tà đạo.11- Trì chú sẽ không do mình tự hại mình, trong những trường hợpkhông ổn định tâm trí. Không có trường hợp tự sát, tự hại. Khôngrơi vào tình trạng ác tâm, yếm tâm, mị tâm".

Trong Kinh "Bất Không Quyến Thầm Chú Tâm" có nói thêm về việc trì tụng trong lúc lâm chung như sau: 1- Khi mạng lâm chung, nếu trì tụng sẽ thù thắng được đức Quan Thế Âm Bồ Tát thị hiện tướng Tỳ Kheo đến trước mặt để an ủi và dẫn độ. 2- Có trì tụng trong lúc đó, thì mạng chung sẽ được yên ổn, khônggây đau đớn, thác loạn, không trải qua những thống khổ dằn vặttrong giây phút cuối cùng cuả kiếp người. 3- Lúc lâm chung, nếu biết trì tụng, thì mắt không trợn lớn lên khủng khiếp, miệng không hả méo mó, tay buông thong thả, thong dong, chân duổi ngay ngắn, không phản tiết ra những chất dơ ứđọng trong thân thể. 4- Lúc lâm chung, biết trì tụng, sẽ được an trú theo chánh niệm,ý không loạn tưởng, hóa thân, tái sanh cũng được dễ dàng, nhanh chóng và thích ứng. 5- Lúc lâm chung, trì tụng chú Chuẩn Đề, sắc mặt vẫn ung dung, thoải mái, không bị dằn vặt, đau đớn. 6- Khi lâm chung, còn trì tụng, thì tùy theo nguyện sanh, sẽ về cõi Tịnh Độ. 7- Trì tụng trong lúc nầy, sẽ thấy hiện ra hình ảnh của chư Phật,chư Bồ Tát, Hộ Pháp bảo vệ.

Phóng tâm và nhiếp tâm
Trong Đại Phật Kinh, đức Phật dạy ngài Ananda rằng:- "Này Ananda! Hãy nên ghi nhớ điều nầy. Nếu không có hình tướng thì không có Pháp; nếu không có những thức ăn, thức uống, thì không có Pháp; nếu không có y phục, những vật che thân, thì không có Pháp; như vậy, hãy giữ gìn cơ thể của ông để phục vụ Pháp". Thành thử, trong truyền thống Mật Tông, sự liên hệ giữa các hìnhtướng vô cùng quan trọng, nhưng không phải vì vậy, mà chúng tabiến nó thành những cuộc phiêu lưu mãi trong hình hướng đó. Hình tướng là giả, Phật tâm là thật; không thể theo hình tướng mà bỏ Phật Tâm đi được".

Chúng ta có thể trở thành những người ăn chay trường, nhưng không vì thế mà chê bai, chỉ trích những người ăn mặn được. Chúng ta có hể chỉ mặc toàn đồ vải bông, nhưng không vì thế mà chỉ trích những người dùng da thú.Bất cứ trong lối sống nào ta chọn cũng đều trở thành thái quá. Ngài Milarepa nói:-" Nếu có người ăn chay trường sẽ thôi không dùng thịt nữa, nhưng anh ta vẫn có thể khoan khoái ăn một trái chuối hay nấu một quảcà với con tâm khát máu, thì vẫn tìm trong hương vị chay đó hình ảnh của miếng thịt mở béo ngậy. Như thế chẳng lợi lộc gì, mà còn gây phiền não trong tu tập. Phải hướng tâm vào đường thiện.Ngài Choegyam Trungpa viết rằng: "Thế giới nầy có đủ các loại thân và những trạng thái của thân, tùy theo từng trường hợp: câm, điếc, đui, bại liệt hay mạnh khoẻ. Nhưng tất cả chúng sanh đều có một cảm giác căn bản giống nhau. Đó là cảm giác về thân, cái cảm giác của thực tế trong một cấp bậc vô cùng đơn giản." Chiêm nghiệm về bản thể sự vật, phá bỏ vọng tưởng, mới thấy đượccon đường đi dần đến Giải Thoát vậy.

Lục Tự Đại Minh
Trong Mật Chú Tây Tạng, Lục Tự Đại Minh (OM MANI PADME HUM = Án Ma Ni Bát Di Hồng) thuờng được xem là phầnKhai Ngộ quan trọng trong mọi lễ thức. Đã là Mật Ngữ, thì không thể và không được giải thích với người giới tử.

Về những biểu hiện của Lục Tự Đại Minh (6 chữ toả ánh sáng) có thể nhận định tổng quát như sau:

OM: biểu trưng cho sự hoà hợp của Trí Tuệ vào Thân, Khẩu, Ý đã được giác ngộ.

MANI: là Ngọc Như Ý, viên ngọc quý nhất nằm trong tay của vị Bồ Tát, biểu trưng cho sự Thanh Tịnh tuyệt đối.

PADME: Hoa sen, biểu trưng cho giải thoát. Cũng là hình ảnh tự tại, thoát ra ngoài vòng sinh tử, luân hồi. Hoa sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Vị Đại Bồ Tát không còn bị ràng buộc do nghiệp báo và sinh tử. Ngài đã tự tại ra hẳn ngoài vòng sinh tử, luân hồi, nhưng vẫn trở lại cuộc đời để cứu vớt chúng sanh theo đúng hạnh nguyện.

HUM: tượng trưng cho Trí Tuệ sáng suốt. Đây là thành tựu lớn lao của chư Phật. Khả năng thành tựu này vô cùng mạnh mẽ, xoá tan được những phiền não trên con đường tu tập.

Gọi là "gia đình", có nghĩa là liên hệ thân thiết. Một hành động Tantra (Mật) không đơn thuần là những nhận định tổng quát về thế giới, khu vực trước mọi diễn biến, mà quán triệt mọi hiện hữu liên kết với nhau. Đây là những nguyên lý giải đáp liên hệ của năm vị Phật. Đó là - Kim Cang (Vajra) - Bảo Vương (Ratna) - Liên Hoa (Patma) - Nghiệp (Karma) - Phật (Bouddha)

Theo truyền thống Mật Tông, chúng ta thường giao tiếp với nhiều hạng người trong những gia đình Phật. Mỗi gia đình Phật thường có2 khía cạnh: (a) Khía cạnh tiêu cực thuộc về bệnh hoạn; (b) Khía cạnh tích cực về ánh sáng trí tuệ hay giác ngộ. Biết những tâmbệnh để giải trừ xa lánh; Phát triển ánh sáng trí tuệ để nâng cao đạo hạnh, đó là mục đích của tu trì .

1- Kim Cang: Gia đình đầu tiên là Kim Cang. Kim Cang có nghĩa là gia đình bền vững, hội tụ và hoà hợp với nhau trong bất cứ hoàn cảnh nào đi chăng nữa. Biểu hiện của gia đình nầy là viên Kim Cương, cótánh bền chắc không thể nào huỷ hoại được. Chiếc chày Kim Cương trong Mật Tông có 5 cạnh, biểu tượng cho sự cảm thọ là: sân, kiêu hãnh, tham dục, ganh ghét và bất cần đời. Thiện niệm của gia đình nầy có nghĩa là sáng suốt tiếp cận với mọi sự vật một cách vững chắc. Trong khi đó, bệnh tâm của gia đình nầy là tánh hay sân hận và chấp thủ. Phải biết tăng trưởng thiện niệm và đồng thời trấn áp bệnh tâm. Muốn được như vậy phải trì dụng đức Thường Tinh Tấn Bồ Tát. Khi trì tụng thì mặt hướng về phương bắc.

2- Bảo Vương Gia đình thứ nhì là Bảo Vương. Bảo Vương có nghĩa là quý giá, trang trọng. Biểu hiện của gia đình nầy là sự giàu sang, độ lượng. Thiện niệm của gia đình nầy đức từ bi Trong khi đó, bệnh tâm của gia đình nầy là ích kỷ, tự tư tự lợi. Phải biết tăng trưởng thiện niệmvà đồng thời trấn áp bệnh tâm. Muốn được như vậy phải trì dụng đức Quán Thế Âm Bồ tát. Khi trì tụng thì mặt hướng về phương nam.

3- Liên Hoa Gia đình thứ ba là Liên Hoa. Liên Hoa có nghĩa là hoa sen, mùi thơm ngào ngạt. Biểu hiện của gia đình nầy là sự tinh khiết. Thiện niệm của gia đình nầy tinhlọc, sáng suốt trong mọi nhận định. Trong khi đó, bệnh tâm của gia đình nầy là mù quáng, mê mờPhải biết tăng trưởng thiện niệm và đồng thời trấn áp bệnh tâm. Muốn được như vậy phải trì tụng đức Đưong Lai Hạ Sanh Di lặc Tôn Phật. Khi trì tụng thì mặt hướng về phương đông.

4- Nghiệp Gia đình thứ tư là Nghiệp. Nghiệp có nghĩa là những nghiệp báo và nghiệp quả, tức là hậu quả gây nên do sự tu hành trong kiếp trước. Biểu hiện của gia đình nầy là trí tuệ viêm mãn (Thành Sở Tác Trí). Thiện niệm của gia đình nầy xác định tánh vô thường ganh ghét,hờn giận, khong hoán cải được. Trong khi đó, bệnh tâm của giađình nầy là tham vọng muốn nắm nhiều quyền hành. Phải biết tăng trưởng thiện niệm và đồng thời trấn áp bệnh tâm. Muốn được như vậy phải trì tụng đức Phật A Di Đà. Khi trì tụng thìmặt hướng về phương tây.

5- Phật Gia đình thứ năm là Phật. Phật trong phạm vi nầy có nghĩa là giải thoát. Biểu hiện của gia đình nầy là vòng tròn viên mãn. Thiện niệm của gia đình nầy đi vào chánh niệm. Trong khi đó, bệnh tâm của gia đình nầy là mê mờ, vô minh, đầy tham vọng. Phải biết tăng trưởng thiện niệm và đồng thời trấn áp bệnh tâm. Muốn được như vậy phảitrì tụng đức Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật.Khi trì tụng thì mặt hướng về trung ương.

Nội Ngoại Đàn Pháp
Như đã trình bày trong phần trên, Nội Ngoại Đàn Pháp là sự tương quan giữa chúng ta với thế giới thọ uẩn. Trong sinh hoạt bình thường của con người, lúc nào cũng tiếp xúc với thế giới của lục trần(Ayatanas), tức là: sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp. Những trần cấu nầy tương quan với 6 giác quan (lục căn): nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Theo nhận định vật lý thế gian, chỉ có "ngũ quan"; còn "ý" (suy nghĩ) được loại ra, đưa vào phần nội tâm. Những trong luận lý học Phật Giáo, thì sự suy nghĩ (ý) lại được ghép vào một trong "lục căn", vì chính sự suy nghĩ nầy đã điều chỉnh 5 giác quan kia. Những nhận thức của chúng ta luôn luôn thay đổi và thích ứng trong những điều kiện khác biệt nhau, cho nên được cả 2 sắp xếp như một Đàn Pháp.



https://www.tuvienquangduc.com.au/ma...62mandala.html