Trang 299 trong 300 Đầu tiênĐầu tiên ... 199249289293294295296297298299300 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 5,961 tới 5,980 trên 5994

Ðề tài: GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ

  1. #5961
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    ***NHỮNG LƯU Ý DÀNH CHO NGƯỜI PHẬT TỬ TẠI GIA***




    Phần đông đại chúng có niềm tin tưởng rằng: Trong nhà có thờ Phật tượng thì tà ma, quỷ quái sẽ không dám quấy rối, làm hại.
    Tuy nhiên, trong thực tế lại có khá nhiều điều không hay xảy ra ngay cả khi trong nhà ấy có tôn tượng chư Phật, Bồ Tát hay chư thần!?
    Vậy do đâu mà ra?
    Trước kia trong bài pháp: (***Có nên thay tranh tượng mới***) thì thầy đã từng đề cập đến việc khai nhãn ấn cho các tượng khi thỉnh về.
    Vậy thì hôm nay thầy xin nói lại cho rõ hơn lẽ này:
    Tượng - chỉ là tượng! Đó không phải là Ông Phật ngồi ở đó, cũng không phải vị Bồ Tát đứng ở đó, càng không phải có một ông thần đứng ở đó!
    Nó chỉ đơn thuần là một khối gỗ, một khối đồng, hoặc một cục lưu ly, mã nảo, thủy tinh..pha lê ... mà thôi! Chỉ khác là người ta tạo cho nó có dáng hình của một vị Phật, một vị Bồ Tát, một vị Thần nào đó!
    Vậy thì vì sao nó có Linh Lực? Và vì sao lại không có linh lực?! Hoặc lúc thì ta cảm thụ nó có linh lực, lúc lại không?!
    Để một cục đá, một khối đồng, một khúc gỗ có thể huân nạp được linh lực gia trì của một bậc thánh trí ngoài việc người tín tâm trọn lòng tin kính, thành tâm ngưỡng vọng, nghiêm giữ giới luật ra nó còn phụ thuộc vào điều kiện tôn vị của pho tượng ấy!
    * Trước tiên thầy nhắc lại việc ứng hộ gia trì:
    Rằng ứng với mỗi vị Thánh Trí (chư Phật, Bồ Tát, La Hán, Hộ Pháp, Thiện Thần) thì luôn phát đi gia lực độ tha, linh lực này tạm hiểu nôm na như một dạng sóng điện từ vậy, khi phát đi trong hư không tạng nếu bắt được ứng tín (tức có một niềm tin được gửi gấm về họ) thì sẽ có phản hồi lại từ đó linh lực sẽ được an ứng (tức nằm lại, giữ lại bên trong pho tượng), thời gian lâu dần thì sự tích tụ linh lực này càng được nhiều dần, khi người đó phạm ác nghiệp bước tới gần thì linh lực tan biến một phần, khi người đó huân tập toàn thiện nghiệp thì linh lực sẽ được an ứng trọn vẹn.
    Vì vậy, ta thấy rằng: có linh ứng hay không linh ứng nào phải tại ông Phật, ông Thần không thương, không độ? Mà tất thầy đều là tại ta, do ta mà ra!
    Tỉ dụ rằng: có một người cho vay lãi nặng, hằng ngày bóc lột sức lực, tiền của người khác để làm giàu cho mình, dù ông ta có tôn tượng Phật bằng Vàng, ngày đêm chí thành cầu nguyện thì linh lực vẫn là một con số KHÔNG tròn trĩnh.
    Bởi vì không có điều kiện tương hợp để cho tôn tượng được huân nạp Linh Quang.
    Ngược lại: Có một người nghèo khổ, chặt một khúc củi khô ngoài vườn mang vào, đẽo thành khối vuông, mang lên trang thờ tôn kính Hộ Pháp, lòng chí thành trọn vẹn, hằng ngày nương theo thập thiện hành trì, từ bỏ các thói xấu, rèn giũa các tính tốt. Thì khi mang KHÚC CỦI này đặt cạnh TƯỢNG VÀNG kia, khúc củi sẽ có thừa linh lực để trừ tà, trấn quỷ, xua tan vận nghiệp xấu, chiêu thiện phúc nghiệp tốt lành.
    Ngược lại Tượng Vàng kia cũng chỉ là khối kim loại vô tri, sẽ bị nấu chảy, tan biến không có gì là linh ứng cả.
    Vậy thì hôm nay, ngoài vấn đề then chốt của việc ứng linh ra, thầy cũng xin lưu ý một phần bên cạnh đó chính là tôn vị của mỗi loại tượng phù (tức là môi trường đặt chúng, vị trí đặt chúng sẽ có tác động giảm trừ hay gia nạp linh lực cho các bức tượng phù).
    1/ ĐỐI VỚI TƯỢNG PHÙ BẰNG TRẦM, HOẶC CÁC LOẠI GỖ TẠO HƯƠNG:
    Không nên thắp hương bằng các loại nhang của loại gỗ tạo tượng: tỉ dụ tượng Trầm thì tuyệt đối không nên thắp hương Trầm khi lễ tế, vì sẽ làm cho linh lực tam biến theo khói nhang, điều này nhiều phật tử lầm lẫn, mắc phải.
    2/ ĐỐI VỚI TƯỢNG PHÙ BẰNG KIM LOẠI (NHƯ VÀNG, ĐỒNG, THAO, BẠC, ...)
    Thì không nên nhốt trong lồng kiếng: Điều này lại nhiều người Phật Tử tại gia mắc phải:
    Khi phân định như thế không phải linh lực không xâm nhập được mà chính là tín tâm của ta không thể thâu nạp được vào bên trong pho tượng, khi đó linh lực gia trì cũng vẫn bằng KHÔNG.
    3/ ĐỐI VỚI TƯỢNG PHÙ BẰNG NGỌC, ĐÁ:
    Tuyệt không nên để tượng bị nhập thổ.
    Nhất là khi vệ sinh, di chuyển gì đó, khi bị nhập thổ thì toàn bộ linh lực sẽ bị hấp thụ bởi thổ lực nơi đó!
    Điều này lý giải vì sao xưa kia các vị Pháp Sư hay mua hoặc trộm cắp các bức tượng Hộ Thần, Phật, Bồ Tát bằng ngọc trong các chùa tự lâu năm rồi đem chôn xuống khu mộ của gia đình họ, để khu đất ấy hấp thu linh lực từ pho tượng tỏa ra mà mang đến hưng thịnh cho họ. Nhưng việc này cũng như một tên cướp đi cướp của người khác vậy. Khi chưa bị bắt thì sống đời sung sướng, dục lạc, khi bị bắt rồi tội đền đến trăm vạn lần hơn.
    4/ ĐỐI VỚI TƯỢNG PHÙ BẰNG ĐẤT, SÀNH, XỨ:
    Tuyệt không nên để chén nước, cốc nước bên cạnh (vì linh lực sẽ bị hấp thu sang đó). Trừ khi muốn có linh lực đó để trị bệnh, cầu nguyện gì đó cho mình thì hãy nên làm vậy.
    NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT!
    CHÚC TẤT CẢ AN LẠC, TINH TẤN!!!


    ===========


    ***NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý TRÁNH ĐẶT LÊN TRANG THỜ***
    - Trang thờ Phật, chớ nên đặt lên đó các loại tài bảo thế gian (như tiền, vàng, đồ trang sức, điện thoại, giấy tờ nhà đất...), vì vốn dĩ Phật đạo hướng con người về Chơn Tâm, các thứ phiền não, tạp nhiễm của thế gian sẽ bị đào thải, loại trừ dưới pháp độ vô lượng, vô ngã của hộ thần, hộ pháp. Cho nên trong việc thờ cúng thường nhật, nhất là đối với quý vị Phật tử tại gia vẫn còn sống trong đời ô tạp, thì nên cẩn trọng những lẽ này sẽ tránh được nhiều điều bất thuận.
    - Bàn thờ Ông Thiên ngoài trời (để thờ trời đất) lại nên cẩn trọng không nên đặt lên đó các thứ điền thổ (như các loại củ, các loại rễ cây, các loại hoa quả, thực phẩm đơn tính). Vì đất trời vốn dĩ cần âm phân, dương định. Các thứ bất phân định âm dương cần được tránh dâng cúng, lễ tế.
    - Đối với bàn thờ gia tiên, ông bà, nên cẩn trọng việc đặt lên đó các vật sắc nhọn như (dao, kéo, kim..., hay nĩa), để tránh sự xáo trộn, bất hòa trong gia đạo!
    - Đối với bàn thờ thổ công, tài thần, nên cẩn trọng không đặt lên các thứ có hỏa khí như (than, các loại bếp, hộp quẹt, hay tiêu, ớt) để tránh hỏa khí át chế địa khí của trang thờ.
    Thấy việc này phần đông đại chúng ít quán tâm lưu ý, hôm nay thầy chia sẻ nơi này, hy vọng ích hữu cho mọi người cho cuộc sống thường nhật được an lạc, thanh tịnh, nghịch duyên thoái chuyển, thuận duyên khởi phát!
    Chúc tất cả tinh tấn!




    https://www.facebook.com/share/p/17ubhzpJGQ/






    Last edited by phoquang; 14-12-2025 at 12:02 AM.

  2. #5962
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định



    PHẢN ỨNG CỦA PHẬT TỬ KHI ĐƯỢC CHỮA KHỎI BỆNH BỊ MA NHẬP VÀ TRỪ TÀ BẰNG CHÚ LĂNG NGHIÊM TIẾNG PHẠN.
    2018-07-31
    Tác giả: Pháp sư Phổ Kính






    Một ngày nọ, một cư sĩ đưa đến một bệnh nhân bị ma nhập, nói rằng thường xuyên nhìn thấy ảo ảnh chiến tranh súng đạn, pháo kích, còn tự nói chuyện một mình, thần trí không tỉnh táo, kèm theo các triệu chứng như trầm cảm, muốn tự sát. Tôi bảo anh ta quỳ trước Phật, tôi đứng phía sau anh ta, đặt tay lên đỉnh đầu anh ta, niệm Chú Lăng Nghiêm tiếng Phạn chín lần, kéo dài một giờ. Sau đó, anh ta đột nhiên tỉnh táo, nói rằng tất cả những cảm xúc tiêu cực như ý nghĩ tự sát đều đột nhiên biến mất. Từ đó, thần trí anh ta tỉnh táo, trạng thái ngây dại không nói chuyện trước đây đã thay đổi, và anh ta sống như một người bình thường. Sau khi về nhà, không thấy tái phát.

    Từ đó có thể thấy, thực ra phần lớn bệnh nhân thần kinh đều bị quỷ thần quấy phá, mà phương pháp điều trị của bệnh viện nhiều khi chỉ chữa ngọn không chữa gốc. Mặc dù sốc điện bệnh nhân cũng có tác dụng răn đe nhất định đối với việc chữa trị ma nhập, nhưng dù sao cũng không hiệu quả nhanh bằng Phật pháp. Bệnh về thể chất thì đi gặp bác sĩ, bệnh về quỷ thần thì cần dựa vào Phật pháp, phải niệm Phật niệm chú mới được. Chỉ là việc người khác bị ma nhập có lẽ là nhân quả đời trước, tôi cưỡng ép can thiệp nhân quả thì không đúng. Từ nay về sau, tôi chỉ dạy người khác niệm Chú Lăng Nghiêm để chữa trị ma nhập, chứ không cưỡng ép can thiệp nhân quả của người khác, nếu không sẽ liên lụy quá nhiều, e rằng tự mình rước họa vào thân. Tốt nhất là chuyên tâm tự tu, khuyên mọi người mỗi ngày ít nhất niệm ba đến bảy lần Chú Lăng Nghiêm tiếng Phạn, như vậy thì mọi việc sẽ thuận lợi, vạn sự đại cát.

    Ngoài việc dùng chú này để chữa trị cho người khác những cảm ứng như bị ma nhập, trong quá trình trì tụng còn nhiều lần mơ thấy những giấc mơ cát tường tiêu trừ nghiệp chướng. Nhớ lần đầu tiên niệm Chú Lăng Nghiêm tiếng Phạn, tôi chỉ thành tâm niệm 7 lần trước Phật, liền mơ thấy mình bay lượn không trở ngại, có đuôi rồng quét tôi (thần long chỉ thấy đuôi không thấy đầu), từng cái một đều bị tôi tránh được, bay lên không trung rất cao, đi lại không trở ngại. Đây là mơ thấy "bay lượn trên không", lại nhiều lần mơ thấy bị mưa lớn làm ướt, đây là giấc mơ cát tường "trời mưa trên thân". Chúng ta hãy xem kinh điển ghi chép gì về những giấc mơ trong quá trình trì chú tu hành này.

    Kinh Chuẩn Đề nói: "Niệm Chuẩn Đề chú đủ 70 vạn biến mơ thấy bay lượn trên không, hoặc mơ thấy vua, miệng phun nước đen, xua đuổi trâu nước... v.v. là tướng diệt tội."

    Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội nói: "Người phàm phu, chưa hòa chân đế, nên lấy tướng mộng. Nếu thấy một giấc mộng, liền diệt một nghịch, thấy năm giấc mộng, liền diệt năm nghịch. Mơ... muốn qua sông lớn, đi trên cầu lớn... mơ... người tắm rửa, trời mưa trên thân... mơ... vào đại hội Sa môn, ngồi theo thứ tự... mơ... vào tháp chùa, thấy tượng lớn đẹp, và thấy Bồ Tát..." Mà những giấc mơ cát tường của tôi qua việc trì chú rất phù hợp với kinh văn. Nhưng niệm chú đừng quá theo đuổi thần thông cảm ứng và giấc mơ, để tránh phát sinh tâm ma. Danh hiệu Phật và chú ngữ có thể phá ngoại ma, nhưng nếu tự tâm sinh ma, e rằng cũng không có cách nào. Do đó, phải giữ vững chính kiến, chỉ hỏi cày cấy, không hỏi thu hoạch, công thành tựu tự nhiên.


    Dưới đây là một vài ví dụ về cảm ứng của Phật tử khi tôi giới thiệu và trì tụng chú này:

    Một số Phật tử vì bị ma nhập mà tìm tôi, tôi bảo họ niệm Chú Lăng Nghiêm tiếng Phạn cơ bản đều có thể chữa khỏi. Một Phật tử vì trầm cảm mà nghe bản ghi âm Chú Lăng Nghiêm tiếng Phạn của tôi thì hơi thuyên giảm, sau đó tự phát tâm mỗi ngày theo bản ghi âm và tài liệu trì tụng vài lần, từ đó cái ý nghĩ muốn chết mỗi ngày liền biến mất. Trong đó chắc chắn cũng có sự quấy phá vô hình của ma nhập.
    Hơn nữa, có hai Phật tử, một người niệm nửa năm thì chữa khỏi bệnh ma nhập đeo bám, sau đó cô ấy nói, tâm có thể chuyển cảnh, mỗi ngày không còn phiền não nữa. Một Phật tử khác có 43 quỷ thần nhập vào, trước khi tìm tôi đã tìm 4 pháp sư gia trì, và trước đó đã niệm Chú Lăng Nghiêm tiếng Việt 3 tháng, nhưng hiệu quả không lớn. Trong lúc chán nản tuyệt vọng thì gặp tôi, tôi bảo cô ấy mỗi ngày niệm Chú Lăng Nghiêm tiếng Phạn, chỉ trong vòng một tháng, cô ấy vui mừng nói, cuối cùng cũng thấy hy vọng rồi, bệnh của tôi ít nhất đã khỏi một nửa. Nhớ có lần nghe bản ghi âm Chú Lăng Nghiêm tiếng Phạn nhanh của pháp sư đến khi ngủ thiếp đi, trong lúc nửa tỉnh nửa mê, trong đầu xuất hiện một tiếng nổ, ngay lập tức người tỉnh táo hơn nhiều. Sau đó lại thêm việc tự mình niệm mỗi ngày mà tinh thần tốt lên, trước đây bị quỷ quấy phá cả ngày uể oải, hoàn toàn không có tinh thần, bây giờ chúng nó quấy phá là tôi có thể niệm chú đối kháng, trước đây luôn mất ngủ, bây giờ có thể ngủ một giấc đến sáng. Chú Lăng Nghiêm tiếng Phạn thật không thể nghĩ bàn, mới niệm có một tháng mà đã có hiệu quả lớn như vậy thì nên biết đủ rồi. Giản Phong Kỳ (Pháp sư Pháp Phong) cũng phải niệm một số lượng vạn lần nhất định mới đẩy lùi được ma nhập, vì vậy vẫn phải cố gắng, tin rằng dành thêm chút thời gian và năng lượng sẽ chữa khỏi hoàn toàn.
    //////////////////////


    Niệm tiếng Phạn tốt, niệm tiếng Hán cũng tốt như vậy!

    Những người niệm Chú Lăng Nghiêm tiếng Hán có hiệu nghiệm, như Thiền tông Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại sư, Tế Công Hòa thượng đời Tống, Ấn Quang Đại sư, Hư Vân Lão hòa thượng, Tuyên Hóa Thượng nhân, Phổ Quang Lão hòa thượng, Thánh Không Pháp sư, bà cụ Dư ở Vấn Xuyên.



    Tóm tắt một vài sự tích:

    01. Giới hạnh của Thiền tông Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại sư rất nghiêm mật, ngài tu hành đặc biệt nghiêm túc. Lúc đó cũng có một số thổ phỉ thường vào thành, cướp bóc, cướp vàng bạc châu báu. Có lần, thổ phỉ vây thành, Hoằng Nhẫn Đại sư không chịu nổi, muốn cứu dân chúng trong thành; thế là, ngài xuống núi, từ núi Đông, đến thành Hồ Bắc. Thổ phỉ vừa thấy Hoằng Nhẫn Đại sư, liền sợ hãi vứt bỏ giáp trụ, bỏ chạy mất dạng.

    Tại sao lại như vậy? Bởi vì Hoằng Nhẫn Đại sư tuy một mình xuống núi, dù có tùy tùng, cũng chỉ khoảng ba ba hai hai; nhưng tại sao những thổ phỉ này, lại thấy toàn là thiên binh, thiên tướng mặc giáp vàng, như thần tiên từ trên trời xuống, thân mặc giáp vàng, tay cầm bảo kiếm, uy vũ lẫm liệt như vậy. Thổ phỉ vừa thấy tình cảnh này, sợ hãi bỏ chạy mất dạng; cũng không cần dùng một đao, một súng, một mũi tên, chúng đã phải sợ hãi rút lui.

    Đây là nguyên nhân gì? Rất đơn giản, tôi nói cho quý vị biết, bởi vì Hoằng Nhẫn Đại sư niệm <Lăng Nghiêm Chú>. Trong <Kinh Lăng Nghiêm> nói: Người niệm trì <Lăng Nghiêm Chú>, thường thấy tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát, tùy tùng ngài, bảo vệ ngài, đến lúc cần thiết, liền cứu ngài, ủng hộ ngài. Cho nên thổ phỉ vừa thấy Hoằng Nhẫn Đại sư, liền sợ hãi bỏ chạy; đây có thể nói là Kim Cang Tạng Bồ Tát hiển thánh, cũng có thể nói là uy đức tu hành của Hoằng Nhẫn Đại sư, chúng đều có thể giác ngộ hàng phục.




    02. Tế Công Hòa thượng thường dùng đoạn chú văn này để hàng phục thiên ma - Tuyên Hóa Thượng nhân


    <Lăng Nghiêm Chú> từ câu đầu tiên "Nam mô Tát Đát Tha Tô Già Đa Da" đến "Nam mô Nhân Đà La Da" có hai mươi chín câu, hai mươi chín câu này là những người tu đạo chúng ta phải quy mệnh đảnh lễ tất cả chư Phật Bồ Tát A La Hán Thánh Hiền Thiên Tiên v.v. Cảnh giới này vốn có thể nói là thật, cũng có thể nói là huyễn, tại sao lại nói như vậy? Đối với tất cả thiên ma ngoại đạo mà nói, cảnh giới này là thật, đối với người tu đạo tự mình biết, đây đều là do sức cảm ứng của chú mà hiện ra, không phải của mình, là sức của tam muội, là sức của chú, cho nên cũng có thể nói là huyễn. Khi tụng trì hai mươi chín câu chú văn này, cảnh giới hiện ra như sau:

    Hành giả hiện ra một thân pháp, bốn phương tám hướng có rất nhiều hoa sen đỏ đến ủng hộ người trì chú này, cho nên nói: "Ngàn đóa sen đỏ hộ thân", nếu bạn thành tâm đầy đủ hoặc nhiều hơn một chút không chỉ ngàn đóa. "Ngồi cưỡi mực kỳ lân", lúc này, thứ cưỡi không phải máy bay, không phải xe lửa cũng không phải xe buýt, mà là "mực kỳ lân", bởi vì có tướng uy đức này hiện ra, yêu ma quỷ quái vừa thấy liền chạy xa.

    Thời Tống, Tế Điên, Tế Công Hòa thượng thường dùng đoạn chú văn này để hàng phục thiên ma, chế ngự các ngoại đạo, rất linh nghiệm, vì điều này, chúng ta bây giờ học <Lăng Nghiêm Chú> phải biết công dụng của nó, đoạn <Lăng Nghiêm Chú> này, là một pháp hàng phục, bạn vừa tụng chú này, bàng môn ngoại đạo, ma quỷ tà thần, đều không dám làm loạn, đều ngoan ngoãn.





    03. Câu chuyện về một bà cụ ẩn cư trên núi, tu hành <Lăng Nghiêm Chú> mấy chục năm

    Lăng Nghiêm Chú Con đường của Pháp sư Phổ Kính 2018年08月01日05:40

    Tôi (chỉ Phật tử) quen một lão cư sĩ, bà là đệ tử của Thanh Định Thượng nhân, lúc đó Thanh Định Thượng nhân vừa gặp bà cũng rất kính trọng, truyền cho bà ân điển của pháp Chuẩn Đề và các pháp khác. Bà trời sinh thích tọa thiền, hiện đang ẩn cư trên núi, tu hành <Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Chú> đã mấy chục năm, ngày đêm tu hành mật chú, biết dùng <Lăng Nghiêm Chú>, thần thông lực rất rộng lớn, còn biết y thuật cứu người, còn biết bích cốc (nhịn ăn) và các thuật khác, Tứ Đại Danh Sơn đều tranh nhau muốn bà, một số sinh viên đại học trên đường thấy bà đều lập tức tránh đường, tôi vẫn gọi bà là Dư bà. Dì tôi là người tu mật, đã được quán đảnh, lúc đó dì ấy giới thiệu chúng tôi đi gặp bà Dư, lúc đó tôi mới ba tuổi, đi cùng bố mẹ đến Vấn Xuyên gặp bà. Lúc đó, tôi khóc lóc thảm thiết ngoài cửa, nhất định không chịu vào, kết quả vừa vào liền lập tức không khóc nữa. Trong ký ức, nhà bà đầy tượng Phật Bồ Tát (sau này bà chuyển nhà thì tặng hết cho người khác), bà thấy tôi dường như cũng rất vui, cho tôi bánh ăn, còn tự mình cõng tôi.

    Bà Dư vốn sống ở tâm chấn Vấn Xuyên, sau này chuyển đến Mậu Huyện gần đó, lại sống trên núi, nhưng trận động đất ở tâm chấn lần này lại nhẹ hơn nhiều so với những nơi khác như Bắc Xuyên, thương vong cũng ít hơn nhiều. Lúc đó, tất cả các ngôi nhà xung quanh đều sụp đổ, nhưng nhà bà vẫn nguyên vẹn, tất cả những điều này là do bà ngày đêm không ngừng tu trì <Đại Phật Đỉnh Lăng Nghiêm Chú> để hóa giải tai nạn. Lúc đó bà còn nói với bố tôi rằng "năm 09 sẽ thua lỗ thảm hại!" Kết quả là khủng hoảng tài chính ập đến, lúc đó, nhiều người không hề nhận ra, vậy mà một bà lão ẩn cư trên núi năm 2007 đã dự đoán được, bố tôi tâm phục khẩu phục, Phật pháp thật không thể nghĩ bàn! Cách đây không lâu, khi nói chuyện điện thoại, tôi niệm <Lăng Nghiêm Chú> nhờ bà giúp nghe, tôi niệm là bản tiếng Phạn của Thạch Bất Không Tam Tạng ở Phòng Sơn. Bà nghe xong nói, tiếng Phạn hơn một ngàn năm trước là như thế này, thời gian bà nói, đúng là đời Đường.

    NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT 🙏🙏🙏



    https://www.facebook.com/share/p/19te238VHs/







    Last edited by phoquang; 14-12-2025 at 12:23 AM.

  3. #5963
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Ngũ Đệ trong Chú Lăng Nghiêm



    Giải thích chi tiết từng đệ trong Chú Lăng Nghiêm và sự liên của 5 đệ với Ngũ Uẩn:
    1. Đệ I: Phật bộ (t tương ứng với sắc ấm)
    2. Đệ II: Liên hoa bộ (tương ứng với thọ ấm)
    3. Đệ III: Kim Cang bộ (tương ứng với tưởng ấm)
    4. Đệ IV: Quỷ Vương bộ (tương ứng với hành ấm)
    5. Đệ V: Phật Đảnh Quang Minh (tương ứng với thức ấm)
    Tại sao Chùa Vạn Phật và các đạo tràng của Hòa Thượng Tuyên Hoá không trì chú Lăng Nghiêm vào buổi tối?
    Đáp:


    I. GIẢI THÍCH CHI TIẾT 5 ĐỆ TRONG CHÚ LĂNG NGHIÊM
    1. ĐỆ I – PHẬT BỘ
    Tương ứng: Sắc Uẩn (form)
    Ý nghĩa theo Hòa Thượng Tuyên Hóa
    • Phần mở đầu Chú Lăng Nghiêm khởi lên từ sức oai thần của Phật Đảnh khiến Ma vương và ngoại đạo sợ hãi tan rã.
    • Trong giảng giải, Hòa Thượng nói rằng phần đầu tiên của thần chú làm kiên cố thân căn, hộ trì đạo nghiệp, làm “thân bất động, tâm bất dao”, công dụng như bất hoại kim thân.
    • Đây cũng là phần “định trụ thân nghiệp” – khiến các hành giả thiết lập một thân thanh tịnh để vào những phần sâu hơn của chú.
    - Liên hệ với SẮC UẨN
    • Sắc uẩn là thân thể / hình tướng. Chú phần này có công năng bảo hộ thân, hàng phục các lực làm loạn nơi “thân nghiệp”.
    • Hòa Thượng Tuyên Hóa nói Chú Lăng Nghiêm đầu tiên phá chấp nơi thân, vì “chúng sanh vì thân mà tạo nghiệp,” nên công năng đầu tiên là “trụ thân kiên cố như kim cang”.



    2. ĐỆ II – LIÊN HOA BỘ
    Tương ứng: Thọ Uẩn (feeling)
    Ý nghĩa theo Hòa Thượng Tuyên Hoá:
    • “Liên hoa” biểu trưng tịnh, nhu, mát, thanh lương, giống như nước tâm từ bi.
    • Hòa Thượng nói trong các đoạn giảng về “liên hoa” trong Chú Lăng Nghiêm:
    “Thanh tịnh sanh ra từ định lực, giống như hoa sen từ bùn mà không nhiễm.”
    • Đệ này làm lìa các cảm thọ nhiễu loạn, gồm vui – khổ – buồn – lo, khiến cảm thọ trở nên “như hoa sen nở, không bị nhấn chìm”.
    - Liên hệ với THỌ UẨN
    • Thọ uẩn chính là nơi chịu vui – khổ – không khổ không vui, vốn dễ bị động bởi ma cảnh.
    • Liên hoa bộ khiến cảm thọ “không nhiễm bùn”, giúp hành giả giữ sự an lạc trầm tỉnh, không bị thiên ma dựa vào cảm giác để phá.



    3. ĐỆ III – KIM CANG BỘ
    Tương ứng: Tưởng Uẩn (perception)
    Ý nghĩa theo Hòa Thượng Tuyên Hoá:
    • Kim Cang bộ là phần mạnh mẽ, có tính “phá tà hiện chánh”, liên hệ trí sắc bén.
    • Hòa Thượng giảng:

    “Kim Cang là phá vọng tưởng. Phàm phu vì tưởng uẩn mà xoay chuyển trong sinh tử.”
    • Đệ này tiêu trừ ảo giác, vọng tưởng, các tưởng điên đảo, những thứ dễ biến thành ngũ ấm ma.
    Liên hệ với TƯỞNG UẨN
    • Tưởng uẩn là nơi phát sinh hình bóng, ký ức, ảo giác, dễ sinh ma cảnh nhất.
    • Kim Cang bộ phá “tưởng ma”, làm cho nhận thức trở nên kiên cố, minh bạch, không bị hý luận kéo đi.


    4. ĐỆ IV – QUỶ VƯƠNG BỘ
    Tương ứng: Hành Uẩn (mental formations)
    Ý nghĩa theo Hòa Thượng Tuyên Hóa
    • Trong phần sau của Chú Lăng Nghiêm, có đoạn gọi tên nhiều vị Quỷ Vương và Hộ pháp đã phát nguyện hộ trì người trì chú.
    • Hòa Thượng giải thích rằng:
    “Những vị Quỷ Vương vốn là quỷ đã được Phật độ, nay hộ trì hành giả, khiến các nghiệp tập khí không thể dao động.”
    • “Quỷ” trong ngữ nghĩa Phật học ở đây biểu tượng cho tập khí / chủng tử nghiệp / động lực vô minh của hành uẩn.
    - Liên hệ với HÀNH UẨN
    • Hành uẩn là nơi chứa nghiệp lực, tập khí, tác ý, khuynh hướng, vốn vận hành liên tục.
    • Đệ này làm “hóa giải năng lượng hành nghiệp”, chuyển hóa những “quỷ” bên trong — chính là các lực tâm hành chưa thuần.



    5. ĐỆ V – PHẬT ĐẢNH QUANG MINH
    Tương ứng: Thức Uẩn (consciousness)
    Ý nghĩa theo Hòa Thượng Tuyên Hóa
    • Đây là phần sâu nhất, HT gọi là:
    “Phật Đảnh Quang Minh Mật Chú – ánh sáng trí tuệ vô thượng.”
    • Nơi đây là chỗ “Phật đảnh phóng quang,” tác dụng chiếu phá vô minh căn bản.
    - Liên hệ với THỨC UẨN
    • Thức uẩn là gốc của phân biệt, là “trụ địa” của luân hồi.
    • Đệ V có công năng phá vô minh thức, làm hiển lộ “bản giác”, giúp hành giả ra khỏi 5 ấm ma và chứng “Thủ Lăng Nghiêm Đại Định”.
    II. TẠI SAO CHÙA VẠN PHẬT & ĐẠO TRÀNG HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA KHÔNG TRÌ CHÚ LĂNG NGHIÊM VÀO BUỔI TỐI?
    Hòa Thượng Tuyên Hóa không hề nói rằng “tụng tối là Kiêng”. Ngài không tạo mê tín.
    Nhưng trên thực tế, các đạo tràng của Hòa Thượng không trì vào tối vì 3 lý do quan trọng:

    1) Chú Lăng Nghiêm thuộc loại “Đại Oai Đức – Đại Hộ Pháp”, cần tâm lực mạnh
    Hòa Thượng Tuyên Hóa nói:
    “Nếu trì Chú Lăng Nghiêm mà không đủ giới hạnh và thanh tịnh, thì dễ chiêu cảm nghịch duyên. Thà không tụng, đã tụng thì phải thanh tịnh.”
    (Hòa Thượng Tuyên Hóa, giảng Chú Lăng Nghiêm)
    Chùa tổ chức thời khóa chung vào buổi tối cho nhiều Phật tử tại gia (mới tu, sức định không lớn).
    Tụng Chú Lăng Nghiêm đòi hỏi công phu sâu, nên không đưa vào thời khóa tối phổ thông.

    2) Truyền thống Vạn Phật Thành: Buổi sáng tụng Lăng Nghiêm – buổi tối tụng A Di Đà và Tâm Chú của Chú Lăng Nghiêm.
    Hòa Thượng Tuyên Hóa thiết lập quy củ:
    • Sáng: Chú Lăng Nghiêm (định lực mạnh, khí sáng, thanh tịnh, hợp với năng lực “khai quang – phá chướng”)
    • Tối: Kinh A Di Đà / Hồi hướng / Niệm Phật (thanh lương, nhu hòa)
    Ngài nói:
    “Sáng tụng Lăng Nghiêm, tối niệm A Di Đà. Sáng phá vô minh, tối an định tâm.”
    (Hòa Thượng Tuyên Hóa – Quy củ tu hành)
    Vì vậy buổi tối không tụng Lăng Nghiêm — không phải cấm, mà do xếp thời khóa hợp lý.

    3) Chú Lăng Nghiêm có lực “mạnh”, ban đêm tâm người yếu, dễ sinh vọng tưởng
    Hòa Thượng giải thích:
    “Tâm người vào đêm tối thường yếu, dễ sinh vọng tưởng.
    Lăng Nghiêm là đại thần chú hàng ma, không nên tụng khi tâm yếu hoặc tán loạn.”
    (Hòa Thượng Tuyên Hóa – Giảng Chú Lăng Nghiêm)
    Nhiều người buổi tối mệt, thiếu định lực → dễ “mở cửa” vọng tưởng.
    Không phải “tụng là gặp ma”, mà không khéo sẽ khởi loạn tâm, không lợi cho tu hành.


    III. KẾT LUẬN NGẮN GỌN
    • 5 đệ tương ứng rất khít với 5 uẩn, theo thứ lớp từ thô đến tế:
    1. Phật bộ – Sắc
    2. Liên Hoa bộ – Thọ
    3. Kim Cang bộ – Tưởng
    4. Quỷ Vương bộ – Hành
    5. Phật Đảnh Quang Minh – Thức
    • Hòa Thượng Tuyên Hóa dạy Chú Lăng Nghiêm là đại thần chú phá ngũ ấm ma, nên cần giới – định – tuệ đầy đủ.
    • Vì vậy các đạo tràng của Ngài không tụng buổi tối không phải do cấm kỵ, mà vì:
    (1) đòi hỏi tâm lực mạnh,
    (2) thời khóa hợp lý (sáng Lăng Nghiêm, tối A Di Đà),
    (3) buổi tối tâm dễ yếu — tụng chú mạnh không thích hợp.
    IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
    Hòa Thượng Tuyên Hóa, Chú Lăng Nghiêm: Kệ và Giảng giải. Phật Giáo Pháp Giới (DRBA).
    Hòa Thượng Tuyên Hóa, Luật Nghiêm Tông Chỉ. DRBA Publications.
    Hòa Thượng Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành Quy củ Tu hành. DRBA.
    Hòa Thượng Tuyên Hóa, (1991). The Shurangama Sutra: Lectured by the Venerable Master Hua. Buddhist Text Translation Society.
    Nguồn Cttb Bodhi- Mind


    https://www.facebook.com/share/p/1JuqzVUSon/







  4. #5964
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    🙏PHÁP SÁM HỐI CỬU HUYỀN
    (để nhận lại phúc đức , tiêu tan nghiệp chướng)



    🪷Đứng thẳng chắp tay
    Nam Mô A Di Đà Phật (xá 1)
    Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (xá 1)
    Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (Xá 1)
    🪷Niệm câu Con xin đảnh lễ vô lượng Phật và Lạy 4 hướng ( 1 hướng 3 lạy) mỗi lần đọc là lạy 1 lần.
    🪷Chắp tay và khấn
    🙏Nay con xin thành tâm xám hối tội lội của mình và Cửu Huyền từ vô lượng kiếp đến nay, xin các ngài cảm ứng chứng minh hộ độ cho gia đình con ,bình an vô sự ,tai qua nạn khỏi,tật bệnh tiêu trừ,nghiệp lớn hóa nhỏ ,nghiệp nhỏ hóa 0, và đồng ngân được thăng tiến.
    🙏Khấn xong niệm chắp tay niệm (Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, tam thập lục vạn ức, nhất thập nhất vạn, cửu thiên ngũ bá, đồng danh đồng hiệu, Đại Từ Đại Bi phổ độ chúng sinh, A Di Đà Phật ) Niện bằng miệng hoặc trong tâm
    🪷CÂU NÀY CÓ CÔNG ĐỨC RẤT VÔ LƯỢNG ,NIỆM MỘT CÂU SẼ TƯƠNG ĐƯƠNG NIỆM (36 tỉ 950 thế giới của Chư Phật) khi niệm câu chú này sẽ tiêu diệt nghiệp chướng tội lỗi rất nhanh ,và được cứu cánh.
    *(Lưu ý : Niệm Trong tâm nghe rõ ràng từng chữ một ,nếu có vọng tưởng cứ mặc kệ, và tâm phải tha thiết xám hối , lòng mong cầu cho chúng sanh và ta được về Cực Lạc)
    🪷Khi đọc được 5 hoặc 10 phút thì ta hồi hướng công đức đến tất cả chúng sanh (Nguyện đem công đức này ,hướng về khắp tất cả,đệ tử và chúng sanh ,đồng trọn thành Phật Đạo, Đồng sanh về Cực Lạc)
    🙏Nếu không thờ Phật vẫn có thề xám hối ở bất cứ đâu (Vì Phật ở khắp không gian ,Các Ngài chứng tâm ,không chứng tướng)
    🪷Âm phù dương trợ là vậy nha các Thiện tri thức 🙏
    Quý vị chia sẻ pháp công Đức vô lượng giúp bách gia trăm họ nhé 🙏🙏🙏
    🙏Nguyện đem công Đức này hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sinh 🙏🙏🙏



    https://www.facebook.com/share/p/1C4uBWQRY4/






  5. #5965
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Lăng Nghiêm
    So sánh công năng giữa trì Chú Lăng Nghiêm và tụng Kinh Lăng Nghiêm. Tại sao Hoà Thượng Tuyên Hoá giảng:




    - trì chú Lăng Nghiêm phải đều và liên tục như tiếng ngựa phi thì Tâm mới nhiếp được
    - tụng Kinh Lăng Nghiêm phải đều và nhẹ nhàng như tiếng suối chảy để Kinh thấm sâu vào tâm như ánh dương để phá tan chấp và ngã để tìm chân tâm.
    Vậy thì vừa trì chú LN và vừa tụng kinh LN có được không hay bắt buộc phải chọn 1 trong 2?
    Đáp:
    I. CÔNG NĂNG CỦA TRÌ CHÚ LĂNG NGHIÊM
    Hòa Thượng Tuyên Hóa luôn xem Chú Lăng Nghiêm là “xương sống của Phật pháp”, và là bùa hộ mạng của tất cả hành giả.
    1.1. Chú Lăng Nghiêm nhiếp tâm cực mạnh
    Hòa Thượng Tuyên Hóa dạy:
    “Trì Chú Lăng Nghiêm phải đều như tiếng vó ngựa phi. Một chữ không rời chữ trước, chữ sau tiếp nối chữ trước, âm âm tương tục thì tâm mới nhiếp.”
    (Hòa Thượng Tuyên Hóa, 1978)
    Chú Lăng Nghiêm là thần chú Định lực, nên cần nhịp độ đều – nhanh – liên tục, khiến vọng tâm không chen vào được.
    Công năng chính:
    • Nhiếp tâm rất mạnh
    • Trừ ma chướng, phá tà tri tà kiến
    • Hộ thân, hộ đạo trường
    • Định tâm nhanh
    • Cắt vọng tưởng liên tục
    Hòa Thượng Tuyên Hóa nói:
    “Ai trì được Chú Lăng Nghiêm thì tam độc giảm, vọng niệm diệt, ma cũng sợ không dám đến.”
    (Hòa Thượng Tuyên Hóa, 1981)
    II. CÔNG NĂNG CỦA TỤNG KINH LĂNG NGHIÊM
    2.1. Tụng kinh để phá ngã, khai tâm trí, thấy chân tâm
    Trong khi Chú Lăng Nghiêm thuộc về Định lực, thì Kinh Lăng Nghiêm thuộc về Huệ lực.
    Hòa Thượng Tuyên Hóa dạy:
    “Tụng Kinh Lăng Nghiêm phải nhẹ như nước suối chảy, từng chữ thấm như ánh sáng mặt trời làm tan giá lạnh vô minh.”
    (Hòa Thượng Tuyên Hóa, 1974)
    Công năng chính của tụng Kinh Lăng Nghiêm:
    • Khai trí huệ
    • Phá chấp trước và phá ngã
    • Hiểu rõ Ngũ Uẩn, Mười Tám Giới, Mười Chương Ma
    • Thấy tánh vọng – tánh chân
    • Điều tâm an tịnh và sáng suốt
    Tụng kinh là huệ môn, không cần nhanh, mà cần đều – rõ – thấm.
    Hòa Thượng Tuyên Hóa nói:
    “Kinh Lăng Nghiêm là con mắt của Phật pháp. Ai tụng được sẽ hiểu mình từ đâu đến, đi về đâu, vọng tâm là gì, chân tâm là gì.”
    (Hòa Thượng Tuyên Hóa, 1976)
    III. TẠI SAO HAI CÁCH TỤNG KHÁC NHAU?
    3.1. Chú: phải nhanh và liên tục
    • Chú là mật ngôn.
    • Lực của chú nằm ở nhịp – âm – khí – ý.
    • Nếu trì đứt đoạn, thì tâm dễ loạn và chú mất lực.
    • Nhanh và đều giống như vó ngựa phi, vọng tưởng không có khe hở để xen vào.
    → Đây là cách đi vào Định.
    3.2. Kinh: phải nhẹ và thấm
    • Kinh là hiển giáo, cơ chế của kinh là bật sáng trí huệ.
    • Tụng nhẹ nhàng để từng chữ thấm sâu vào A-lại-da thức.
    • Giống như nước suối chảy: âm thanh mượt, không gián đoạn.
    • Mục đích: phá tà chấp – mở trí – nhận chân tâm.
    → Đây là cách đi vào Huệ.
    IV. VẬY CÓ THỂ VỪA TRÌ CHÚ LĂNG NGHIÊM VỪA TỤNG KINH LĂNG NGHIÊM KHÔNG?
    ✔ Được. Không những được, mà còn rất tốt.
    Hòa Thượng Tuyên Hóa không bao giờ dạy chỉ được chọn một.
    Ngài dạy:
    “Trì chú Lăng Nghiêm là Định. Tụng Kinh Lăng Nghiêm là Huệ.
    Định Huệ song tu thì đạo nghiệp dễ thành.”
    (Hòa Thượng Tuyên Hóa, 1980)
    Do đó:
    • Trì Chú Lăng Nghiêm → nhiếp tâm, phá ma, dựng trụ định.
    • Tụng Kinh Lăng Nghiêm → khai trí, phá ngã, hiểu chân tâm.
    Hai pháp bổ sung nhau, như hai cánh chim.
    ✔ Hoàn toàn không mâu thuẫn, không bài bác nhau.
    ✔ Chính Hòa Thượng Tuyên Hóa khuyến khích người tu “vừa trì chú vừa tụng kinh”.
    Ngài nói:
    “Ai có thể mỗi sáng trì Chú Lăng Nghiêm, ban ngày tụng Kinh Lăng Nghiêm, thì thiện căn sâu dày, ma chướng khó phá, trí huệ nhanh phát.”
    (Hòa Thượng Tuyên Hóa, 1979)
    V. NÊN THỰC HÀNH THẾ NÀO?
    5.1. Nếu bạn mới tu:
    • Buổi sáng: trì Chú Lăng Nghiêm
    • Ban tối: tụng Kinh Lăng Nghiêm
    5.2. Nếu tâm loạn nhiều:
    → Ưu tiên trì chú, vì chú thu nhiếp tâm lực mạnh.
    5.3. Nếu cầu khai ngộ – phá chấp:
    → Ưu tiên tụng kinh.
    5.4. Thuần thục rồi:
    → “Định – Huệ song tu” như Hòa Thượng Tuyên Hóa dạy.
    VI. KẾT LUẬN
    KẾT LUẬN
    Pháp môn Công năng chính Nhịp độ Thuộc môn
    Trì Chú Lăng Nghiêm Nhiếp tâm, trừ ma, hộ pháp Nhanh – đều – liên tục như vó ngựa Định
    Tụng Kinh Lăng Nghiêm Khai trí, phá chấp, tìm chân tâm Nhẹ – đều – thấm như suối chảy Huệ
    Bạn không cần chọn một.
    Hòa Thượng Tuyên Hóa dạy rất rõ: “Định – Huệ song tu.”
    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    Hòa Thượng Tuyên Hóa, (1974). Giảng giải Kinh Lăng Nghiêm, tập 1. Vạn Phật Thánh Thành.
    Hòa Thượng Tuyên Hóa (1976). Giảng giải Kinh Lăng Nghiêm, tập 2. Vạn Phật Thánh Thành.
    Hòa Thượng Tuyên Hóa (1978). Khai thị về Chú Lăng Nghiêm. Vạn Phật Thánh Thành.
    Hòa Thượng Tuyên Hóa (1979). Pháp thoại tuyển tập – Lăng Nghiêm huấn thị. Vạn Phật Thánh Thành.
    Hòa Thượng Tuyên Hóa (1980). Định Huệ Song Tu. Vạn Phật Thánh Thành.
    Hòa Thượng Tuyên Hóa (1981). Bài giảng tại Vạn Phật Thánh Thành: Oai lực của Chú Lăng Nghiêm. Vạn Phật Thánh Thành.
    St Cttb Bodhi-Mind
    NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT👏👏👏
    NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MAHATAT👏👏👏
    🙏NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT 🙏🍂🌼🍂



    https://www.facebook.com/share/p/1CVwBZsNTc/







  6. #5966
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Quả Tuấn Pháp Sư: Một Đời Không Rời Xa Chú Chuẩn Đề




    Quả Tuấn pháp sư đã hành trì hơn 200.000 biến Chuẩn Đề Chú để hóa giải mọi chướng ngại trong đời mình, đặc biệt là con đường xuất gia. Mỗi khi gặp khó khăn, pháp sư đều quay về với Chuẩn Đề Chú, dùng chú này để an định thân tâm, phát tâm từ bi như Quan Âm Bồ Tát, luôn hướng tâm đến lợi ích của chúng sinh.
    Hành trì Chuẩn Đề Chú để vượt qua thử thách xuất gia
    Năm 1987, khi còn là sinh viên, Quả Tuấn pháp sư bắt đầu tiếp xúc với Phật pháp và nảy sinh ý nguyện xuất gia. Tuy nhiên, gia đình phản đối kịch liệt khiến ngài không biết phải làm sao. Một lần, tại chùa Nông Thiền, Quả Sán pháp sư – người hiểu rõ hoàn cảnh của ngài – đã truyền đạt lời dạy của Thánh Nghiêm thầy: “Hãy trì tụng 200.000 biến Chuẩn Đề Chú.” Lời dạy này đã tiếp thêm động lực để ngài quyết tâm hành trì.
    Ban đầu, do chưa thực sự tin tưởng vào hiệu lực của chú, ngài trì tụng không đều đặn. Khi gặp lại Thánh Nghiêm thầy, ngài bị hỏi: “Đã trì được bao nhiêu biến rồi?” Do không nghiêm túc hành trì, ngài không thể trả lời. Thầy liền nghiêm khắc nhắc nhở: “Nếu con tin rằng Chuẩn Đề Chú có tác dụng, con sẽ trì tụng một cách chăm chỉ. Từ giờ, hãy xem việc trì tụng và lễ bái Chuẩn Đề Chú như là công khóa tu tập hàng ngày.”
    Gia đình chuyển tâm sau khi đủ 200.000 biến
    Quả Tuấn pháp sư kiên trì trì tụng Chuẩn Đề Chú mỗi ngày. Một năm sau, khi gần hoàn thành 200.000 biến, Thánh Nghiêm thầy nói với ngài: “Giờ con có thể về nói chuyện xuất gia với gia đình.” Ngài không tin rằng gia đình sẽ thay đổi, nhưng chỉ hai ngày sau, mẹ ngài bất ngờ đồng ý: “Mẹ đã suy nghĩ kỹ rồi, xuất gia không phải là làm điều xấu. Con cứ đi theo con đường mình chọn.”
    Năm 1993, ngài chính thức xuất gia, gia nhập tăng đoàn. Sau đó, Thánh Nghiêm thầy nhắc nhở: “Đừng dừng lại khi đã hoàn thành 200.000 biến. Hãy tiếp tục trì tụng để tránh chướng ngại tái hiện.”
    Chuẩn Đề Chú và ý nghĩa sâu sắc trong tu hành
    Pháp sư luôn ghi nhớ rằng: “Chuẩn Đề Bồ Tát là hóa thân của Quan Âm Bồ Tát. Chuẩn Đề Chú không chỉ dễ trì tụng mà còn là pháp môn bổ trợ, giúp hành giả vượt qua khó khăn trên đường tu.” Pháp sư chia sẻ ba nguyên tắc tâm pháp khi hành trì:
    1. Tín tâm: Phải tin tưởng tuyệt đối, không nghi ngờ, vì nghi ngờ là chướng ngại lớn nhất trên con đường tu tập.
    2. Chí thành tâm: Miệng trì rõ ràng, tai nghe rõ ràng, tâm niệm liên tục, từ đó phát sinh năng lực.
    3. Tâm vô sở cầu: Trì chú không vì mục đích cụ thể, mà coi việc trì tụng là chính sự tu hành.
    Pháp sư nhấn mạnh rằng, trì chú không chỉ để cầu phúc báo thế gian, mà cần hướng đến trí tuệ, giải thoát và thành tựu Phật đạo tối thượng.
    Trì chú như giữ gìn tâm Phật
    Quả Tuấn pháp sư học được từ các bậc cao tăng rằng: “Trì chú là giữ gìn tâm Phật, cũng là giữ gìn tự tánh thanh tịnh của chính mình. Khi trì chú đạt đến mức khai mở trí tuệ, ta sẽ nhận ra tâm mình và tâm Phật vốn bình đẳng, không hai.”
    Pháp sư tin rằng, trong thời đại đầy biến động như hiện nay, việc hành trì Chuẩn Đề Chú không chỉ giúp bản thân vượt qua khó khăn mà còn là cách học hạnh Quan Âm Bồ Tát, phát tâm từ bi để tự lợi lợi tha, lan tỏa thiện pháp đến mọi chúng sinh.
    fb: Dezan



    https://www.facebook.com/share/p/15zMD6iaEX/







  7. #5967
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    LỜI CẦU NGUYỆN ĐẾN THÁNH QUÁN THẾ ÂM

    KHẨU KIM CƯƠNG TỪ CUỘC ĐỜI CỦA ĐẠI THÀNH TỰU GIẢ THANGTONG GYALPO LÀ TỲ KHEO PADMA KARPO


    Thangtong Gyalpo nhớ lại



    Con cầu nguyện đến đạo sư Quán Thế Âm.
    Con cầu nguyện đến Bổn tôn Quán Thế Âm.
    Con cầu nguyện đến Thánh giả Quán Thế Âm.
    Con cầu nguyện Đấng Quy Y Quán Thế Âm.
    Con cầu nguyện Đấng Từ Ái Quán Thế Âm.
    Bi mẫn giữ con, Đấng Chiến Thắng Bi Mẫn.
    Chúng con lang thang bất tận khắp luân hồi
    Chịu đau đớn thống khổ chẳng thể chịu đựng,
    Chẳng chốn quy y nào ngoài Đấng Bảo Hộ,
    Gia hộ chúng con đạt toàn tri – giác ngộ.
    +) Bởi lực ác nghiệp tích lũy từ vô thủy,
    Chúng sinh thù hận sinh vào trong địa ngục,
    Chịu đựng giày vò của nóng – lạnh ghê gớm:
    Nguyện đều tái sinh bên Ngài, Đấng Tôn Thắng!
    Om Mani Padme Hung
    +) Bởi lực ác nghiệp tích lũy từ vô thủy,
    Chúng sinh bủn xỉn sinh vào cõi ngạ quỷ,
    Chịu đựng giày vò của đói – khát dữ dội:
    Nguyện đều tái sinh Thắng cảnh Potala!
    Om Mani Padme Hung
    +) Bởi lực ác nghiệp tích lũy từ vô thủy,
    Chúng sinh ngu dốt sinh làm loài súc sinh,
    Chẳng thể nói năng và ngập tràn mê lầm:
    Nguyện đều tái sinh bên Ngài, Đấng Bảo Hộ!
    Om Mani Padme Hung
    +) Bởi lực ác nghiệp tích lũy từ vô thủy,
    Chúng sinh đố kỵ sinh cõi A Tu La,
    Chịu đựng giày vò của xung đột mâu thuẫn:
    Nguyện đều tái sinh Tịnh độ Potala!
    Om Mani Padme Hung
    +) Bởi lực ác nghiệp tích lũy từ vô thủy,
    Chúng sinh kiêu ngạo sinh trong cõi chư Thiên,
    Chịu đựng giày vò của đầu thai – đọa lạc:
    Nguyện đều tái sinh Tịnh độ Potala!
    Om Mani Padme Hung
    +) Bởi lực ác nghiệp tích lũy từ vô thủy,
    Chúng sinh tham lam sinh vào trong cõi người,
    Chịu đựng giày vò của sinh, lão, bệnh, tử:
    Nguyện họ đều tái sinh Thắng cảnh Cực Lạc!
    Om Mani Padme Hung
    Đời này và mọi đời tương lai, nguyện con,
    Nhờ hoạt động giống với Đức Quán Thế Âm,
    Giải thoát chúng sinh trong các cõi bất tịnh,
    Truyền khẩu thù thắng – sáu âm khắp mười phương!
    Nhờ lực cầu khẩn Ngài, Đấng Cực Tôn Quý,
    Nguyện những kẻ cần con rèn luyện – dẫn dắt,
    Đều yêu thích nhân quả, nỗ lực làm thiện,
    Và sở hữu phẩm tính làm lợi tất cả.
    Đại thành tựu giả Thangtong Gyalpo đã nhớ về đời trước của Ngài là Tỳ Kheo Padma Karpo; trong [đời] đó, Ngài đã thực hành nhịn ăn trong khoảng năm hai mươi đến hai mươi tám tuổi và nhất tâm cầu nguyện đến Thánh Quán Thế Âm bằng những lời này. Do đó, chúng đem đến ân phước gia trì vô cùng mạnh mẽ. Mangalam.
    Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



    ***
    solwa deb so lama chenrezik
    solwa deb so yidam chenrezik
    solwa deb so pakchok chenrezik
    solwa deb so kyab gön chenrezik
    solwa deb so jam gön chenrezik
    tukjé zung shik gyalwa tukjé chen
    tamé khorwar drangmé khyam gyur ching
    zömé dukngal nyongwé drowa la
    gönpo khyé lé kyab shyen ma chi so
    namkhyen sangye tobpar jingyi lob
    tokmé dü né lé ngen sakpé tü
    shyedang wang gi nyalwar kyé gyur té
    tsadrang dukngal nyongwé semchen nam
    lha chok khyé kyi drung du kyewar shok
    om mani padmé hung
    tokmé dü né lé ngen sakpé tü
    serné wang gi yidak né su kyé
    trekom dukngal nyongwé semchen nam
    shying chokpo ta la ru kyewar shok
    om mani padmé hung
    tokmé dü né lé ngen sakpé tü
    timuk wang gi düdror kyé gyur té
    lenkuk dukngal nyongwé semchen nam
    gönpo khyé kyi drung du kyewar shok
    om mani padmé hung
    tokmé dü né lé ngen sakpé tü
    trakdok wang gi lhamin né su kyé
    tabtsö dukngal nyongwé semchen nam
    po ta la yi shying du kyewar shok
    om mani padmé hung
    tokmé dü né lé ngen sakpé tü
    ngagyal wang gi lha yi né su kyé
    po tung dukngal nyongwé semchen nam
    po ta la yi shying du kyewar shok
    om mani padmé hung
    tokmé dü né lé ngen sakpé tü
    döchak wang gi mi yi né su kyé
    kyé ga na chi dukngal nyongwa nam
    po ta la yi shying du kyewar shok
    om mani padmé hung
    dak ni kyé shying kyewa tamché du
    chenrezik dang dzepa tsungpa yi
    ma dak shying gi dro nam drolwa dang
    sung chok yik druk chok chur gyepar shok
    pakchok khyé la solwa tabpé tü
    dak gi duljar gyurpé drowa nam
    lé dré lhurlen gewé lé la tsön
    drowé döndu chö dang denpa shok



    https://www.facebook.com/share/p/19soB3uYwt/







  8. #5968
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định



    Bồ Tát Long Thọ trong một linh kiến ngài được Đức Quán Thế Âm mách bảo “ nhưng lợi ích lớn lao của kinh luân với chúng sanh là vô cùng to lớn” , ngài Long Thọ trao truyền thực hành này cho Dakini Sư Tử Diện, về sau thực hành này được Dakini Sư Tử Diện trao cho Đức Liên Hoa sinh, sau đó Đức Guru Rinpoche đã trao truyền cho chúng sanh xứ tây tạng.
    Kinh luân là được Đức Phật Thích Ca dạy rằng “ thực hành xoay kinh luân còn tốt hơn lắng nghe , suy tư hay thiền định trong một tỷ năm”.
    Thực hành này thật sư mới lạ với chúng sanh cõi người, nhưng các chúng sanh của cảnh giới loài rồng đây là thực hành quen thuộc, có thể nói chúng sanh loài rồng là loại có trí tuệ và phước báu to lớn, bởi vì rất nhiều thực hành mà chư Phật giảng dạy đã được gìn giữ ở thế giới loài rồng.
    Thực hành xoay kinh luân phù hợp với tất cả chúng sanh , không có sự phân biệt với thực hành này, kể cả những chúng sanh lười biến nhất, vẫn có nhiều lợi lạc khi ở gần một kinh luân đang xoay, thực hành này quả thực rất phù hợp với chúng sanh ngày nay.
    Những nơi nào có kinh luân thì phong thuỷ tự cải thiện, những ban phước này nhìn thì rất bình thường nhưng vô cũng lợi lạc. Bất kể ai xoay kinh luân dù chỉ 1 lần cũng tích tập vô lượng công đức, dù là nơi nào cũng có thể đặt một kinh luân, kinh luân khi được đặt bên cạnh người bệnh, họ sẽ trở nên mạnh khoẻ khi hoặc hết phước thế gian, họ cũng sẽ nhanh chóng được chuyển di tâm thức, thật sự lợi lạc cho cả kẻ còn người mất.
    Do đâu kinh luân lại có lợi ích như vậy?
    Bởi vì bên trong kinh luân là thần chú sáu âm, nếu bên trong kinh luân chứa một triệu biến chú, khi chúng ta xoay kinh luân một vòng đồng nghĩa việc trì tụng ngần ấy biến, chẳng có phương tiện nào lợi lạc hơn.
    Khi xoay kinh luân mà trì niệm minh chú “ om mani padme hum” , thì chẳng lợi lạc nào bằng, khi vừa xoay kinh luân vừa trì niệm minh chú lục tự, chính là lúc tịnh hoá tất cả ác nghiệp.
    Kinh luân không dành riêng cho hành giả mật thừa hay đại thừa, cũng như điện thoại là phương tiện công cộng, kinh luân phù hợp với tất cả chúng sanh, đừng ngần ngại bởi rào cản của kiến chấp, bất cứ ai khi xoay kinh luân đều nhận được vô số lợi lạc.
    Bởi vì sự thù thắng của kinh luân là vô cùng, các con hãy siêng năng xoay kinh luân, nếu con thấy công đức còn kém thì kinh luân là phương tiện thích hợp để tăng trưởng, một phương tiện tích luỹ công đức mà không cần phải làm bất cứ gì khác, đây chính là phương tiện thiện xảo vô thượng.
    ~ st~
    🌷 Kinh Luân Thần Chú Mani
    💐 Đồng cán gỗ và đế đồng hoa sen cát tường



    https://www.facebook.com/share/p/17iTCAfpMr/








  9. #5969
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    HAI PHÁP BẢO LỚN TRONG THỜI MẠT PHÁP



    Nam Mô Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật
    Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Đại Bi Chú và Lăng Nghiêm Chú có uy thần lực cực lớn, có thể phá tan mọi tà thuật, yêu pháp và cổ độc của thiên ma ngoại đạo.
    Người lương thiện nhất định phải học thần chú bảo mệnh, cũng hoan nghênh những người thật tâm cải ác hướng thiện đến học.
    1.《Đại Bi Chú》
    Tụng niệm 《Đại Bi Chú》 có thể nhận được sự ủng hộ của chư thiên thiện thần và hai mươi tám bộ chúng cùng nhiều vị hộ pháp thần khác.
    Chức trách chính của những vị hộ pháp thần này là bảo vệ người trì chú, giúp họ tránh khỏi hiểm nguy, tiêu trừ nghiệp chướng và hỗ trợ họ tu hành.
    Nhóm hộ pháp thần chính:
    Chư thiên thiện thần:
    Chỉ cần thành tâm trì tụng 《Đại Bi Chú》, chư thiên thiện thần sẽ giáng lâm hộ trì.
    Hai mươi tám bộ chúng:
    Quán Thế Âm Bồ Tát sắc lệnh hai mươi tám bộ Dạ Xoa thần vương và quyến thuộc của họ, cùng nhau bảo vệ người thọ trì 《Đại Bi Chú》.
    Trong đó bao gồm Tứ Đại Thiên Vương (Đông Phương Trì Quốc Thiên Vương, Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương, Tây Phương Quảng Mục Thiên Vương, Bắc Phương Đa Văn Thiên Vương), họ là những vị hộ pháp thần quan trọng trong Phật giáo, chịu trách nhiệm tuần tra thiện ác ở nhân gian, bảo vệ bốn phương Phật độ.
    Các hộ pháp khác:
    Kinh văn cũng nhắc đến Mật Tích Kim Cương Sĩ, Ô Sô Quân Đà, Ương Cù Thi và các vị Kim Cương hộ pháp khác.
    Mục đích hộ trì:
    Những vị hộ pháp thần này phát nguyện ủng hộ những người có lòng tin chân thành vào 《Đại Bi Chú》. Thông qua sự gia trì của những vị hộ pháp này:
    Người trì chú có thể tránh xa mọi sợ hãi, tiêu tai giải nạn.
    Thân tâm linh được thanh tịnh, tăng trưởng thiện căn phước đức.
    Mọi điều cầu nguyện đều được mãn nguyện, cuối cùng thành tựu Phật đạo.
    Tóm lại, người thọ trì 《Đại Bi Chú》 sẽ nhận được sự hộ trì tức thì của mười phương chư Phật Bồ Tát và chư thiên thiện thần, từ đó trừ bỏ phiền não, thường được an lạc.
    Tụng trì 《Đại Bi Chú》 có công đức và lợi ích vô lượng vô biên, chủ yếu bắt nguồn từ bi nguyện của Quán Thế Âm Bồ Tát, có thể mãn nguyện những điều chúng sinh cầu mong trong hiện thế và trợ giúp cho việc tu hành.
    Những lợi ích này chủ yếu thể hiện ở các khía cạnh sau:
    Diệt tội tiêu nghiệp và lìa khổ được vui:
    Tiêu trừ trọng tội:
    Thành tâm trì tụng Đại Bi Chú, có thể diệt trừ mọi ác nghiệp trọng tội đã tạo ra từ vô lượng kiếp.
    Lìa khổ được vui:
    Uy thần lực của chú ngữ có thể khiến chúng sinh ở những nơi u ám trong ba ngàn đại thiên thế giới lìa khổ, và có thể trừ mọi bệnh khổ, lìa mọi chướng nạn.
    Không đọa ác đạo:
    Người trì tụng sẽ không đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh ba ác đạo.
    Lợi ích hiện thế và mãn nguyện sở cầu:
    Mãn mọi nguyện:
    Chỉ cần phát tâm chí thành, như pháp trì tụng, trong hiện đời mọi điều cầu mong nếu không được như ý, thì không phải là Đại Bi Tâm Đà La Ni (trừ những điều bất thiện, không chí thành).
    Mười lăm điều thiện sinh:
    Có thể được mười lăm điều thiện báo, bao gồm thường gặp vua hiền, thường sinh nước lành, thân căn đầy đủ, quyến thuộc hòa thuận, tài sản phong phú, luôn được người khác cung kính, rồng trời thiện thần ủng hộ, thấy Phật nghe pháp v.v.
    Không chịu mười lăm điều ác chết:
    Có thể tránh được chết vì đói khát khốn khổ, chết vì gông cùm roi vọt, chết vì oan gia đối địch, chết vì ác thú tàn hại, chết vì nước lửa thiêu đốt, chết vì bệnh tật quấn thân v.v. những cái chết bất thường.
    Tăng trưởng thiện căn:
    Có thể tăng trưởng mọi thiện pháp công đức, khiến người chưa phát Bồ Đề tâm nhanh chóng phát tâm, người chưa có tín căn Đại thừa tăng trưởng pháp mầm.
    Thành tựu cứu cánh và tu hành Phật đạo:
    Nhanh chóng chứng Phật quả:
    Đối với người tu hành sáu độ chưa viên mãn, có thể nhanh chóng viên mãn; thậm chí có thể nhanh chóng siêu lên địa vị cao hơn, chứng được bốn quả Sa Môn, thậm chí đạt đến Phật địa, thành tựu ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo.
    Được tam muội biện tài:
    Người trì tụng có thể đạt được vô lượng tam muội (thiền định) và biện tài.
    Vãng sinh Phật quốc:
    Khi lâm chung, mười phương chư Phật đều đến tiếp dẫn, tùy nguyện vãng sinh bất kỳ cõi Phật nào.
    Tóm lại, công đức trì tụng 《Đại Bi Chú》 là không thể nghĩ bàn, không chỉ có thể giải quyết những khó khăn và đau khổ trong hiện thế, mà còn có thể đặt nền tảng cho việc tu hành lâu dài, cuối cùng dẫn dắt chúng sinh đến con đường thành Phật.
    Khi tu trì nên phát Bồ Đề tâm rộng lớn, giữ giới trai, và dùng tâm chí thành, tâm từ bi đối đãi với mọi chúng sinh.
    2.《Lăng Nghiêm Chú》
    Đội ngũ hộ pháp thần của 《Lăng Nghiêm Chú》 cực kỳ hùng mạnh, bao gồm vô lượng Kim Cương, Kim Cương Tạng Vương Bồ Tát, Tứ Đại Thiên Vương, Phạm Thiên, Đế Thích, Thiên Long Bát Bộ, Bát Đại Quỷ Vương, Nhật Nguyệt Thiên Tử, Phong Sư Vũ Sư và tất cả chư thiên thần chúng;
    Họ đều phát nguyện thề hộ trì người trì chú, khiến họ tiêu tai giải nạn, thành tựu Bồ Đề, vĩnh viễn không có ma sự, lực lượng hộ pháp của họ bao trùm cả nội ngoại, bao trùm mười phương, bất kể người trì chú tu hành ở đâu, đều được bảo vệ.
    Hộ pháp thần chính:
    Kim Cương Tạng Vương Bồ Tát:
    Quan trọng nhất, chịu trách nhiệm đích thân hàng phục kẻ quấy nhiễu, bảo vệ người tu hành.
    Vô lượng trăm ngàn Kim Cương:
    Bao gồm tám vạn bốn ngàn na do tha hằng hà sa câu chi Kim Cương Tạng Vương Bồ Tát, là đại diện cho sức mạnh Kim Cương.
    Phạm Vương, Thiên Đế Thích, Tứ Thiên Đại Vương:
    Hộ pháp thần cõi trời, như Quảng Mục Thiên Vương, Đa Văn Thiên Vương v.v.
    Bát Đại Quỷ Vương:
    Dược Xoa Vương, La Sát Vương,
    Phú Đan Na Vương, Cưu Bàn Trà Vương,
    Tỳ Xá Xà Vương, Tần Na Dạ Ca,
    Trư Đầu Quỷ Vương, Tượng Tị Quỷ Vương.
    Nhật Nguyệt Thiên Tử, Phong Vũ Lôi Điện Thần:
    Các vị thần cai quản tự nhiên.
    Tất cả Thổ Địa, Sơn Thần, Hải Thần:
    Bao trùm mọi tinh linh vạn vật trên đất liền, dưới nước và trên không.
    Chư Đại Chú Thần Vương:
    Như Ma Thiên, Kiện Na Thiên, Thanh Mục Thiên v.v., nguyện vì người trì chú mà cống hiến.
    Đặc điểm hộ pháp:
    Đội ngũ hùng hậu:
    Hầu như bao gồm tất cả các vị hộ pháp thần trong Phật giáo.
    Thệ nguyện kiên cố:
    Chư thần đều phát nguyện trước Phật, hết lòng hộ trì.
    Không nơi nào không đến:
    Không phân biệt ngày đêm, không giới hạn địa điểm, người tu trì khi tâm tán loạn cũng được bảo vệ.
    Sức mạnh cường đại:
    Có thể dùng Kim Cương Chử đập nát đầu ma vương, có thể khiến người phá giới giới căn thanh tịnh, có thể phá tan mọi tà thuật ngoại đạo.
    Lợi ích tu trì:
    Tiêu tai miễn nạn:
    Quét sạch ma chướng, giúp tu hành thuận lợi, gia đình bình an.
    Tăng trưởng công đức:
    Khiến Bồ Đề tâm nhanh chóng viên mãn, đạt được mọi phước trí.
    Thân tâm thanh tịnh:
    Phá trừ ác nghiệp, đạt được trí tuệ thanh tịnh và an lạc.
    Tóm lại, hộ pháp thần của 《Lăng Nghiêm Chú》 là vô lượng thần chúng "tổng trì tất cả Phật pháp, trấn giữ tất cả thế giới", là những người bảo vệ đáng tin cậy nhất của người tu hành trong thời mạt pháp.
    Trì tụng 《Lăng Nghiêm Chú》 công đức thù thắng, có thể hàng phục ma oán, tiêu trừ tai nạn (nước lửa đao binh, ôn dịch), tịnh hóa nghiệp chướng, khai mở trí tuệ, hộ thân bảo bình an.
    《Lăng Nghiêm Chú》 có thể khiến người phá giới khôi phục giới thể thanh tịnh, tăng tiến tinh tấn, khiến sở cầu như ý, khi mệnh chung có thể vãng sinh mười phương tịnh độ.
    Lợi ích chính:
    Tiêu tai giải ách:
    Có thể trấn phục mọi tai ương, tránh khỏi sự xâm hại của nước lửa, đao binh, ôn dịch, ác chú, độc vật v.v., gặp dữ hóa lành.
    Tịnh hóa nghiệp chướng:
    Tiêu diệt tội nghiệp nặng nhẹ, trọng tội nhẹ báo, tiêu trừ oan gia trái chủ đời trước.
    Hộ trì giới thể:
    Khiến người phá giới giới căn thanh tịnh, người chưa được giới được giới, nhanh chóng tinh tấn.
    Khai phát trí tuệ:
    Tâm thần an định, phiền não giảm bớt, khai mở trí tuệ, trợ thành vô thượng chính giác.
    Ma chướng không xâm:
    Thiên ma ngoại đạo và tất cả quỷ thần đều không thể xâm nhiễu, hộ pháp thiện thần thường theo.
    Thành tựu sở nguyện:
    Sở cầu như ý, cầu con được con, cầu thọ được thọ, được đại phú quý.
    Lâm chung vãng sinh:
    Khi mệnh chung có thể tùy nguyện vãng sinh mười phương tịnh độ, không sinh vào cõi nghèo hèn ác thú.
    Cách đeo/trì tụng:
    Thành tâm cung kính:
    Trì tụng với tâm chí thành, cung kính, tin sâu không nghi.
    Nơi sạch sẽ:
    Trước khi trì tụng tốt nhất nên rửa tay súc miệng, ở nơi sạch sẽ.
    Trì tụng toàn chú:
    Chú dài phù hợp với người tu hành chuyên tâm.
    Trì tụng chú ngắn:
    Chú ngắn tốt nhất nên trì chú tâm và năm đại tâm chú, tốt nhất là trì toàn chú.
    Viết đeo:
    Viết chú lên giấy, bỏ vào túi thơm đeo, hoặc đặt trong nhà, cũng có công đức tương tự.
    Lưu ý:
    Tâm thái quan trọng:
    Có thể giữ năm giới mười thiện là người trì chú tốt nhất, tuyệt đối tránh tâm tham lam, lừa dối hoặc báo thù, nếu không sẽ không được lợi mà còn rước họa.
    Kiên trì bền bỉ:
    Mỗi ngày định khóa, như 21 lần hoặc 108 lần, có thể đạt được công đức không thể nghĩ bàn.
    Thế nào là bạn bè thật lòng yêu thương bạn và người thân thật lòng yêu thương bạn?
    Vấn đề này, tôi rất may mắn được Bồ Tát giải đáp; Bồ Tát giải đáp là:
    Bạn bè thật lòng yêu thương bạn và người thân thật lòng yêu thương bạn, chính là đưa bạn bè và người thân của bạn, đều độ đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ có làm như vậy mới là bạn bè thật lòng yêu thương bạn và người thân thật lòng yêu thương bạn.
    Thiên Ngưỡng vô cùng cảm ơn Bồ Tát từ bi giải đáp.
    Trên đây đều là công đức của Tam Bảo Phật Pháp Tăng
    Nam Mô Thập Phương Tam Thế Phật Bồ Tát Tôn Giả
    Nam Mô Thập Phương Tam Thế Phật Bồ Tát Tôn Giả
    Nam Mô Thập Phương Tam Thế Phật Bồ Tát Tôn Giả
    Nguyện đem công đức này, phổ cập đến tất cả,
    Chúng con và chúng sinh, đều cùng thành Phật đạo.
    NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT 🙏🙏🙏
    NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT 🙏🙏🙏
    NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT 🙏🙏🙏
    NAM MÔ ĐẠI BI HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT 🙏🙏🙏




    https://www.facebook.com/share/p/1BzFcgN62b/






  10. #5970
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    ✿ KINH CẦU TÀI LỘC: VŨ BẢO ĐÀ LA NI


    ✓ Hòa thượng Hải Đào
    Kinh Vũ Bảo Đà La Ni khá dài, chúng ta chỉ cần niệm Chú Tâm là được. Chú Tâm Vũ Bảo Đà La Ni: Om Vasudhare Svaha.
    Chú này còn được gọi là "Năng Hoạch Nhất Thiết Tài Bảo Phục Tạng Đà La Ni" (Đà La Ni Có Thể Đạt Được Tất Cả Tài Bảo Nơi Chứa). Để tụng chú này, lần đầu tiên phải tụng 800 biến, sau đó mỗi ngày chia làm ba thời: sáng, trưa, tối, mỗi thời 108 biến. Lưu ý khi thọ trì chú tâm này, vừa niệm vừa quán tưởng: các loại ngũ cốc, bảo vật, y phục, các loại vàng bạc châu báu... như mưa từ trời rơi xuống, rơi vào nhà của tất cả chúng sinh nghèo khổ, không nơi nương tựa, khiến kho tàng của họ đầy đủ, vật tư phong phú, thức ăn, tài bảo tràn đầy trong nhà, không có phiền não, vui vẻ không chướng ngại.
    Mỗi lần niệm chú xong, chúng ta nhất định phải hồi hướng: Nguyện tất cả chúng sinh sở cầu, thế gian và xuất thế gian, đại nguyện thù thắng, mau chóng thành tựu.
    Tụng chú này nhiều, tất cả tai nạn, bệnh tật trong nhà bạn sẽ lập tức tiêu trừ, ngay lập tức sẽ thoát khỏi nghèo khó, tất cả ngũ cốc, bảo vật, vàng bạc châu báu trong nhà, như mưa không ngừng tuôn đến nhà. Vì vậy, tất cả thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhất định phải tụng trì chú Vũ Bảo Đà La Ni thật tốt, không những tự mình phải tụng trì hồi hướng, mà còn phải quảng bá chú này rộng rãi. Khiến tất cả chúng sinh đều được lợi ích, giải quyết tất cả mọi khổ nạn.
    Cũng có thể mỗi ngày niệm chú xong thống nhất đến tối hồi hướng, nguyện tất cả chúng sinh sở cầu, thế gian và xuất thế gian, đại nguyện thù thắng, mau chóng thành tựu. Hãy nhớ, lực phản tác dụng, tâm bạn vì chúng sinh, đem công đức đều hồi hướng cho chúng sinh đang chịu khổ chịu nạn, không quá ba năm, bạn nhất định sẽ rất rất giàu có! Lúc không có việc gì thì niệm, niệm với lòng thành kính, thật sự sẽ có tiền. Sau này đại phú đại quý, nhưng đừng quên phải làm nhiều việc thiện tích đức trước.
    Nam mô Kim Cương Hải Âm Như Lai
    Nam mô Trì Thế Bồ Tát
    —《Phật Thuyết Vũ Bảo Đà La Ni Kinh》
    Trì Thế Bồ Tát có thể ban mưa vô lượng tài bảo, giữ gìn thế gian an ổn phong nhiêu, vì vậy có tên là Trì Thế, tụng trì chân ngôn Vũ Bảo Đà La Ni của Ngài, càng có thể đạt được vô lượng tài bảo, tích tụ cao như núi. Trong 《Bạch Bảo Khẩu Sao》 nói, Trì Thế nghĩa là, khiến tất cả tai họa, bệnh tật của chúng sinh đều tiêu diệt. Đối với người nghèo khó, tức là ban mưa tất cả các loại trân bảo, ngũ cốc, v.v., được hưởng mọi niềm vui, an ổn phong nhiêu; có thể bảo hộ thế gian, nên gọi là Trì Thế Bồ Tát. Lại nói, có thể giữ gìn tài bảo, mãn nguyện thế nhân, nên gọi là Trì Thế.
    《Vũ Bảo Đà La Ni Kinh》 còn có tên là 《Diệu Nguyệt Trưởng Giả Sở Vấn Đà La Ni》 (Đà La Ni Do Trưởng Giả Diệu Nguyệt Hỏi), 《Năng Hoạch Nhất Thiết Tài Bảo Phục Tạng Đà La Ni》, 《Nhất Thiết Như Lai Xưng Tán Vũ Bảo Đà La Ni Giáo》 (Pháp Đà La Ni Vũ Bảo Được Tất Cả Như Lai Khen Ngợi). Kinh này kể về việc Phật ở rừng Kiến Trà Ca nước Kiều Thiệm Di, trưởng giả Diệu Nguyệt của nước đó đến hỏi về pháp được tài bảo, trừ bệnh tật. Phật bảo rằng vô số kiếp trước, Ngài đã gặp Phật Thế Tôn tên là Trì Kim Cương Hải Âm Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, từ vị Như Lai đó mà được Vũ Bảo Đà La Ni. Nếu thọ trì, đọc tụng, tư duy, ghi nhớ, và vì người khác mà quảng bá lưu truyền, thì do uy đức của Đà La Ni này, có thể được an vui, vĩnh viễn không nghèo khó; và chư thiên đều hoan hỷ, tức là ban mưa tài bảo ngũ cốc. Trưởng giả nghe xong, rất vui mừng trở về. Phật sai A Nan đến thăm nhà trưởng giả, thấy tài vật ngũ cốc đầy kho tàng. A Nan trở về hỏi nguyên do, Phật đáp rằng Như Lai không nói lời khác, câu chân ngôn không thể phá hoại. Mật giáo lấy kinh này làm cơ sở, lập "Trì Thế Bồ Tát", "Bảo Sinh Như Lai" làm Bản tôn, tu pháp bí mật cầu phúc, gọi là "Vũ Bảo Đà La Ni" pháp.
    ✿ PHẬT THUYẾT VŨ BẢO ĐÀ LA NI KINH
    Đường Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí Bất Không phụng chiếu dịch.
    Tôi nghe như vầy:
    Một thời Đức Bạc Già Phạm (Thế Tôn) trụ tại rừng Kiến Trà Ca, nước Kiều Thiệm Di, cùng với chúng Đại Tỳ Khưu năm trăm người, lại cùng với nhiều vị Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Bấy giờ, tại nước Kiều Thiệm Di có một Trưởng giả tên là Diệu Nguyệt, các căn tịch tĩnh, tâm ý tịch tĩnh, có nhiều con trai con gái và nhiều người hầu, lòng tin thanh tịnh thành tựu.
    Ông đến chỗ Đức Phật, cúi đầu lễ dưới chân Ngài, đi nhiễu quanh Ngài trăm ngàn vòng, rồi đứng qua một bên, chắp tay cung kính, mà bạch với Phật rằng: "Thế Tôn! Con muốn hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác một vài điều nghi hoặc nhỏ, cúi xin đại từ xót thương chấp thuận cho!"
    Bấy giờ, Thế Tôn bảo Trưởng giả rằng: "Cứ theo ý ông mà hỏi, Ta sẽ vì ông mà nói, khiến tâm ông vui mừng."
    Khi đó, Trưởng giả nghe lời ấy xong, hoan hỷ nhảy nhót: "Thế Tôn! Vì sao thiện nam tử, thiện nữ nhân nghèo khổ, có thể đạt được sự giàu có, người có bệnh tật khiến không còn bệnh tật?"
    Bấy giờ, Thế Tôn bảo Trưởng giả Diệu Nguyệt rằng: "Vì nhân duyên gì mà ông hỏi như vậy?"
    Khi đó, Trưởng giả lại bạch với Phật rằng: "Thế Tôn! Chúng con tại gia có nhiều quyến thuộc, tư tài thiếu thốn, khó có thể chu cấp, lại còn nhiều bệnh tật. Cúi xin Thế Tôn khai thị pháp yếu, khiến người nghèo mãi mãi thoát khỏi cảnh nghèo cùng, kho tàng tài bảo đều đầy ắp, cứu giúp vợ con, nam nữ quyến thuộc trong nhà, người đến cầu xin đều sinh hoan hỷ. Trở thành đại thí chủ, khiến các kho tàng, vàng bạc, trân bảo, ngọc như ý, kim cương và các loại trân bảo, xà cừ, thất la, xích châu, mã não, vàng bạc, v.v., phong nhiêu, không bao giờ hết, chu cấp cho thân thuộc, rộng tu huệ thí, làm lợi ích cho hữu tình."
    Bấy giờ, Thế Tôn bảo Trưởng giả Diệu Nguyệt rằng: "Thiện nam tử! Ta ở vô số kiếp A Tăng Kỳ trước đã gặp Đức Phật Thế Tôn, danh hiệu là Trì Kim Cương Hải Âm Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, từ vị Như Lai đó mà thọ được Đà La Ni Vũ Bảo này, thọ trì đọc tụng, tư duy ghi nhớ, tùy hỷ vì người khác mà quảng bá lưu bố. Do uy đức lực của Đà La Ni này, nếu thiện nam tử bị người và phi nhân, Dạ Xoa, La Sát, Tất Đa, Tất Xá Già, Câu Bàn Na, Ô Sa Đà La Ca, Bố Đan Na, Kiệt Tra Bố Đan Na, v.v., khởi tâm ác muốn làm hại, đều không thể gây hại. Lại còn các loài quỷ ăn tủy, mủ máu, nước dãi, đại tiểu tiện, muốn đến làm não loạn, cũng không thể chướng ngại."
    Phật bảo Diệu Nguyệt: "Nếu có thiện nam tử tâm niệm, giữ gìn, thư tả, chỉ cần nghe danh tự, thọ trì, tùy hỷ, rộng vì người khác mà giảng giải tuyên bày, thì thiện nam tử, thiện nữ nhân đó đêm dài an ổn, hưởng các điều khoái lạc, vì資粮 (tư lương) du già, an ổn phong nhiêu. Nếu có người muốn thọ trì Đà La Ni Vũ Bảo này, nên cúng dường tất cả Như Lai, một đêm, hai đêm, hoặc ba đêm, chuyên tâm tụng trì thọ kính, tin tưởng thanh tịnh Tam Bảo. Chư thiên đều hoan hỷ, liền ban mưa tài bảo ngũ cốc, vì vị pháp sư đọc tụng đó."
    Tức thì nói Đà La Ni rằng:
    Om Vasudhare Svaha
    Phật bảo Trưởng giả Diệu Nguyệt: "Đây gọi là Vũ Bảo Đà La Ni. Nhờ uy lực của Đà La Ni này, bệnh hoạn, nạn đói, dịch bệnh, nghiệp chướng đều tiêu diệt. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân, trước tiên nên cúng dường tất cả Như Lai, trong một ngày một đêm không gián đoạn tụng trì Đà La Ni này, nhà họ liền mưa báu, như lượng của người lớn (tức là rất nhiều), tất cả tai họa đều tiêu diệt. Vì thế, thiện nam tử nên thọ trì Đà La Ni Vũ Bảo này, rộng vì người khác mà phân biệt, diễn thuyết."
    "Lành thay, Thế Tôn!" Trưởng giả Diệu Nguyệt nghe lời Phật dạy, hoan hỷ nhảy nhót: "Con nay xin từ Phật thọ lãnh Đà La Ni Vũ Bảo này, thọ trì đọc tụng, rộng vì người khác mà phân biệt giải thuyết."
    Bấy giờ, Trưởng giả Diệu Nguyệt thọ nhận lời Phật dạy xong, đi nhiễu quanh Thế Tôn trăm ngàn vòng, rồi chắp tay cung kính, cúi đầu lễ dưới chân Ngài, hoan hỷ mà rời đi.
    Bấy giờ, Phật bảo Cụ Thọ A Nan Đà: "Ông hãy đến nhà Trưởng giả Diệu Nguyệt, xem các kho tàng của Trưởng giả đó, các loại tài cốc, các vật trân bảo và các tư cụ, nay đều đầy ắp."
    Bấy giờ, Cụ Thọ A Nan Đà vâng lời Phật dạy, đến thành lớn Kiều Thiệm Di, vào nhà Trưởng giả Diệu Nguyệt. Vào rồi, thấy trong các kho tàng tài bảo đều đầy ắp.
    Thấy việc này xong, tâm rất hoan hỷ, nhảy nhót mà trở về. Bấy giờ, Cụ Thọ A Nan Đà lấy làm lạ chưa từng có, tâm rất hoan hỷ, mà bạch với Phật rằng: "Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà kho tàng trong nhà Trưởng giả Diệu Nguyệt đầy ắp?"
    Phật dạy: "Thiện nam tử! Trưởng giả Diệu Nguyệt tin tưởng thanh tịnh nơi Ta, thọ trì Đà La Ni Vũ Bảo này, tuyên thuyết vì tất cả hữu tình. Vì thế, A Nan! Thọ trì Đà La Ni này rộng vì người khác mà nói, Ta dùng Phật nhãn quán sát tất cả thế gian: trời, người, ma, phạm, sa môn, bà la môn, đối với người thọ trì Đà La Ni Vũ Bảo này, không thể làm chướng ngại. Vì sao vậy? Vì Như Lai không nói lời khác biệt, vì câu chân ngôn này không thể phá hoại. Đà La Ni này người vô căn lành ngay cả tai cũng không nghe được, huống chi là thư tả, thọ trì đọc tụng. Vì sao vậy? Vì tất cả Như Lai dùng lời chân thật tuyên thuyết, tất cả Như Lai tùy hỷ, tất cả Như Lai khen ngợi, tất cả Như Lai hiển dương, tất cả Như Lai gieo trồng căn lành."
    A Nan Đà bạch Phật rằng: "Lành thay, Thế Tôn!"
    Dùng bài kệ tuyệt diệu mà nói tụng rằng:
    Chư Phật không thể nghĩ bàn,
    Phật pháp cũng lại như vậy,
    Tịnh tín không thể nghĩ bàn,
    Quả báo cũng lại như vậy.
    Trí tuệ tịch diệt, tất cả trí,
    Pháp vương không sinh không diệt,
    Đã đến bờ bên kia thù thắng,
    Kính lạy Đức Phật dũng mãnh.
    Bấy giờ, Cụ Thọ A Nan Đà nghe Phật nói 《Vũ Bảo Đà La Ni Kinh》 này, nhảy nhót hoan hỷ, bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Nay pháp yếu này nên gọi tên kinh là gì? Chúng con nay nên phụng trì như thế nào?"
    Phật bảo A Nan: "Kinh này tên là Diệu Nguyệt Trưởng Giả Sở Vấn (Do Trưởng Giả Diệu Nguyệt Hỏi), ông nên thọ trì; lại tên là Năng Hoạch Nhất Thiết Tài Bảo Phục Tạng (Có Thể Đạt Được Tất Cả Tài Bảo Nơi Chứa), lại tên là Nhất Thiết Như Lai Xưng Tán Vũ Bảo Đà La Ni Giáo (Pháp Đà La Ni Vũ Bảo Được Tất Cả Như Lai Khen Ngợi), ông nên thọ trì."
    Bấy giờ Đức Bạc Già Phạm nói kinh này xong, vô lượng Tỳ Khưu và các vị Bồ Tát, cùng với chư thiên, người, A Tu La, v.v., tất cả đại chúng, nghe lời Phật dạy, đều rất hoan hỷ, tin nhận phụng hành.
    ✿ CÔNG ĐỨC:
    Nếu có thiện nam tử, thư tả thọ trì, được hưởng mọi niềm vui, an ổn phong nhiêu. Tụng trì chân ngôn "Vũ Bảo Đà La Ni", càng có thể đạt được vô lượng tài bảo, tích tụ cao như núi.
    Theo kinh điển đã nói, Đà La Ni Trì Thế này (hoặc tên Vũ Bảo Đà La Ni) có thần lực rộng lớn, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, chí tâm thọ trì, quảng bá cho người khác, có thể khiến tất cả ác quỷ thần, người, phi nhân, v.v., đều không thể làm hại; và tất cả những việc lợi lạc chúng sinh, thì bất kể ngày đêm đều tăng trưởng. Nếu có thể chí thành cúng dường Tam Bảo, niệm tụng đại Đà La Ni như vậy, liên tục bảy ngày bảy đêm không gián đoạn, thì tất cả chư thiên long thần đều sinh hoan hỷ, ban mưa tài bảo ngũ cốc cần thiết, tất cả nạn đói dịch bệnh đều tiêu trừ, tất cả tội chướng đều được tiêu diệt, tất cả nguy hiểm đều được an lành, phước huệ ngày càng tăng trưởng, sở cầu như ý, mau chóng chứng đắc Vô Thượng Chánh Giác Bồ Đề.
    Trong kinh còn nhắc đến, trưởng giả Diệu Nguyệt vừa nghe Thế Tôn tuyên thuyết đại Đà La Ni này, liền sinh lòng tin sâu sắc, hoan hỷ thọ trì đọc tụng, nguyện vì vô lượng chúng sinh mà tuyên thuyết. Và trưởng giả Diệu Nguyệt cũng nhờ lực phước đức này, mà kho tàng của ông đều đầy ắp các loại tài vật ngũ cốc. Từ đó có thể biết được lực phước đức rộng lớn của Đà La Ni này.
    Ngoài ra, trong 《Thánh Trì Thế Đà La Ni Kinh》 do Thi Hộ dịch còn ghi chép rằng: "Nếu lại có người vào nửa đêm, chí tâm niệm tụng danh hiệu Bồ Tát (Trì Thế), y pháp hộ tịnh, trong bảy ngày sẽ đạt được tài lộc lớn, thành tựu đầy đủ." Hoặc như "Nếu lại có người cầu các sở nguyện, tại nơi mình ở hướng đông bắc, dựng hình tượng Thánh Trì Thế Bồ Tát, ... y pháp tụng trì chú tâm này, tất cả sở nguyện đều được mãn túc, tài vật tăng trưởng, đạt được phước vô lượng." v.v. các pháp mãn nguyện tài bảo.
    ✿ LỜI BIÊN TẬP:
    Vũ Bảo Đà La Ni (hay còn gọi là Kinh Vũ Bảo Thần Thông Đà La Ni) là một bộ kinh và thần chú nổi tiếng trong Phật giáo Đại thừa, đặc biệt là trong Phật giáo Mật Tông.
    1. Vũ Bảo Đà La Ni: Kinh Cầu Tài Lộc (Đúng)
    Bộ kinh này chủ yếu được trì tụng để cầu tài lộc, sự giàu có, và sự sung túc (phước đức tài vật).
    a) Ý nghĩa tên gọi:
    * Vũ Bảo (雨寶): Mưa báu vật, tức là tài lộc và của cải rơi xuống như mưa.
    * Đà La Ni (陀羅尼): Thần chú, mật ngôn, có nghĩa là "tổng trì" (tổng hợp tất cả các pháp).
    b) Vị Phật chủ trì:
    Bộ kinh này do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng theo lời thỉnh cầu của Đại Ca Diếp Bồ Tát về phương pháp giúp chúng sinh nghèo khổ được tài lộc, no đủ.
    2. Công Năng và Ý Nghĩa Sâu Sắc.
    Mặc dù bề ngoài kinh cầu tài lộc, nhưng công năng của Vũ Bảo Đà La Ni không chỉ dừng lại ở vật chất:
    *Cầu Tài Lộc: Giúp người trì tụng có được sự sung túc, tiền tài, và vật chất đầy đủ để cuộc sống được an ổn.
    *Tăng Trưởng Phước Đức: Tài lộc trong Phật giáo được coi là Phước Báo do những thiện nghiệp đời trước. Trì tụng kinh này giúp gieo trồng và tăng trưởng thêm phước báu.
    *Tiêu Trừ Nghiệp Khổ: Giúp tiêu trừ các nghiệp chướng đã gây ra sự nghèo khổ, thiếu thốn.
    *Thành Tựu Bồ Đề: Mục đích tối hậu của việc cầu tài lộc là để người tu có đủ điều kiện vật chất, không bị bận tâm bởi cơm áo gạo tiền, từ đó có thể chuyên tâm tu học, hành thiện, và đạt đến giác ngộ (Bồ Đề).
    3. Khác Biệt Với Quan Điểm Thông Thường.
    Kinh điển này dạy rằng, tài lộc không phải là mục đích cuối cùng, mà là phương tiện để thực hành hạnh Bố Thí và Hộ Trì Phật Pháp . Người trì tụng được hưởng phước báu vật chất phải nhớ dùng tài sản đó để giúp đỡ người khác và phụng sự Tam Bảo.
    Tóm lại: Vũ Bảo Đà La Ni là bộ kinh (gồm cả thần chú) để cầu xin sự gia trì về tài lộc và sung túc, nhưng mục đích sâu xa hơn là dùng tài lộc làm công cụ để tu hành và cứu độ.
    📜 TÓM TẮT CÁC BƯỚC THỰC HÀNH CHÚ VŨ
    BẢO ĐÀ LA NI.
    Chú Tâm (Chân Ngôn):
    Om Vasudhare Svaha
    Phiên âm dễ đọc:
    Ôm Va-su-đa-rê Xoa-ha
    (Hoặc: Úm Va-su-đa-rê Xoa-ha)
    (Chú này còn được gọi là "Năng Hoạch Nhất Thiết Tài Bảo Phục Tạng Đà La Ni").
    1. Lần Tụng Đầu Tiên (Phát Nguyện):
    * Phải tụng đủ 800 biến (lần đầu tiên).
    2. Thực Hành Thường Ngày:
    * Chia làm ba thời (sáng, trưa, tối).
    * Mỗi thời tụng 108 biến.
    3. Quán Tưởng Khi Niệm Chú:
    * Vừa niệm vừa quán tưởng các loại ngũ cốc, bảo vật, y phục, vàng bạc châu báu... như mưa từ trời rơi xuống, rơi vào nhà của tất cả chúng sinh nghèo khổ, không nơi nương tựa.
    * Quán tưởng kho tàng của họ đầy đủ, vật tư phong phú, thức ăn, tài bảo tràn đầy, khiến họ vui vẻ không chướng ngại.
    4. Hồi Hướng Bắt Buộc:
    * Sau mỗi lần niệm chú xong (hoặc thống nhất hồi hướng vào cuối ngày), nhất định phải hồi hướng:
    "Nguyện tất cả chúng sinh sở cầu, thế gian và xuất thế gian, đại nguyện thù thắng, mau chóng thành tựu."
    * Lưu ý về tâm nguyện: Phải hướng tâm vì chúng sinh, đem công đức đều hồi hướng cho chúng sinh đang chịu khổ chịu nạn. Lực phản tác dụng sẽ khiến hành giả nhanh chóng trở nên giàu có.
    5. Công Đức Đặc Biệt (Cầu Cát Tường Lớn):
    * Nếu muốn cầu phước báu lớn, nên cúng dường tất cả Như Lai.
    * Tụng trì Đà La Ni này liên tục bảy ngày bảy đêm không gián đoạn. (Trong thời gian này, tất cả chư thiên sẽ ban mưa tài bảo ngũ cốc, tiêu trừ tai nạn bệnh tật).
    NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT 🙏🙏🙏
    Hoàng Hưng



    https://www.facebook.com/be.em.5076/...XrvOpi9gc93ZN#








  11. #5971
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN QUÁN-ÂM

    ĐÀ LA NI KINH



    Cư Sĩ HUYỀN THANH



    https://kinh.viengiac.info/Huyen-Tha...-phap-kinh.pdf










  12. #5972
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN QUÁN-ÂM

    ĐÀ LA NI KINH



    Cư Sĩ HUYỀN THANH



    https://kinh.viengiac.info/Huyen-Tha...-phap-kinh.pdf










  13. #5973
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    NHỮNG MẬT CHÚ UY LỰC NHẤT (phần II)






    1. Thần chú của Kuru Kulla (Mẹ Tara Đỏ - Tác Minh Phật Mẫu): Cầu tình duyên, dẹp bỏ chướng ngại trong thực hành tâm linh, kinh doanh, tình cảm, tăng sự thu hút và vận may.
    Om Kuru Kulle Hri Svaha
    Đọc là: Om Ku ru Ku lê Ri Sô ha



    2. Thần chú của Đức Văn Thù Sư Lợi Đen: Chữa trị ung thư, ngăn chặn năng lượng tiêu cực, hoá giải bùa ngải…
    OM PRASO / CHUSO / DURTASO / DURMISO / NYING GOLA CHO / KALA DZA / KAM SHAM TRAM BHE PHET SOHA
    Đọc là: Om pờ ra sô chu sô đù ra sô đù mi sô ninh gô la chô ka la za kăm săm tờ răm bê pẹt sô ha



    3. Thần chú chữa lành trầm cảm của Đức ACALA BẤT ĐỘNG MINH VƯƠNG: Giúp vượt qua lo âu, trầm cảm, suy kiệt tinh thần
    OM BENZA CHANDRA MAHA ROCANA HUNG PHET
    Đọc là:
    Om Ben za Chan đờ ra Ma ha Rô cha na Hung Pẹt



    4. Thần chú của Phật A Di Đà: Tịnh hoá nghiệp của chúng sinh trong luân hồi, gieo duyên vào cõi Tịnh Độ
    Om Ami Dewa Hrih
    Đọc là: Om a mi đê goa ri



    5. Thần chú của Phật Đảnh Tôn Thắng Namgyalma: tăng tuổi thọ, phước báu, trí tuệ, không bị chết bất đắc kì tử
    Om Bhrum Svaha Om Amrita Ayur Da De Svaha
    Đọc là
    Om Rum Sô ha Om Ăm ri ta A yu Đa đê sô ha




    6. Thần chú của Đức Kim Cang Thủ Vajrapani: Dẹp bỏ chướng ngại bên trong, bên ngoài, bí mật, đặc biệt là rồng và các nguồn năng lượng có hại.
    Om Vajra Pani Hum Phat
    Đọc là: Om va chờ ra pa ni hùm pẹt



    7. Tâm chú của Đức Di Lặc: tích luỹ phước báu, tịnh hoá nghiệp chướng của sự căm thù, ích kỉ, tăng trưởng sự chân thành, từ bi
    OM MOHI MOHI MAHA MOHI SVAHA
    Đọc là: Om Mô hi Mô hi Ma ha Mô hi Sô ha



    8. Thần chú của Đức Tara trắng: tăng trưởng tuổi thọ, phước báu, dẹp bỏ chướng ngại
    Om Tare Tuttare Ture Mama Ayur Punye Jnana Pushtim Kuru Ye Svaha
    Cách đọc Thần chú của mẹ Tara Trắng:
    Om Ta re Tut Ta re Ture ma mô a yu
    pô ni ghen na pus tăm ku ru ê sô ha



    9. Thần chú Đức Tara xanh: Giúp vượt qua chướng ngại, thành tựu các mong cầu (tình cảm, tài bảo…)
    Om Tare Tuttare Ture Soha



    10. Thần chú của Kim Cang Du Già Thánh Nữ: Tịnh hoá sự bất tịnh, đạt giác ngộ trong 1 đời
    Om Om Om Sarva Buddha Dakiniye Vajra Varnaniye Vajra Vairochaniye Hum Hum Hum Phat Phat Phat Phat Svaha
    Đọc là:
    Om om om sa va bút đa đa ki ni yê
    va chờ ra va na ni yê va chờ ra vai rô cha ni yê hum hum hum pạt pạt pạt sô ha.



    11. Thần chú của Đại Sư Tông Khách Ba - Lama Tsongkhapa - Sư Tổ của dòng Gelugpa: Tích lũy phước báu rộng lớn, gieo duyên giác ngộ chỉ trong một đời người
    Om Ah Guru Vajradhara Sumati Kirti Siddhi Hum
    Đọc là:
    Om a gu ru va chờ ra đa ra su ma ti ki ti sít đi hùm




    16. Thần chú của Thánh Đức Lạt Ma thứ XIV: tích lũy phước báu rộng lớn, gieo duyên giác ngộ chỉ trong một đời:
    Om Ah Guru Vajradhara Vagindra Sumati Shasana Dhara Samudra Shri Bhadra Sarva Siddhi Hum Hum
    Đọc là:
    Om a Gu ru Va chờ ra đa ra Va gin đờ ra Su ma ti Sha sa na Đa ra Sa mu đờ ra ri Ba đờ ra Sa va Sít đi hum hum.




    17. Thần chú của Ngài Lama Zopa Rinpoche: tích lũy phước báu rộng lớn, gieo duyên giác ngộ chỉ trong một đời:
    Om Ah Guru Vajradhara Muni Shasana Khasanti Tsawa Siddhi Hung Hung
    Đọc là:
    Om a Gu ru Va chờ ra đa ra Mu ni Sha sa na Kha san ti Sa goa Sít đi hung hung.




    18. Thần chú của Đức Phật Thích Ca: Tịnh hoá các nhiễm ô, gieo hạt giống giác ngộ
    Om Muni Muni Mahamuniye Svaha
    Đọc là: Om Mu ni mu ni ma ha mu ni yê sô ha




    19. Tâm chú của Phật Dược Sư: Tăng trưởng sức khoẻ bên trong và bên ngoài, dẹp bỏ khả năng tái sinh vào cõi thấp
    Tayatha Om Bhekhandze Bhekhandze Maha Bhekhandze Radza Samughate Svaha
    Đọc là: Om Bếch kan zê Bếch kan zê ma ha Bếch kan zê ra za sa mông ga tê sô ha




    20. Lục Tự Đại Minh Chú của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát: Tăng trưởng lòng từ bi, phước báu, thành tựu các mong cầu
    Om Mani Padme Hung
    Đọc là: Om mani pạt mê hùng
    21. Thần chú của Đức Liên Hoa Sanh:
    Om Ah Hum Benza Guru Padme Siddi Hum
    Đọc là: Om a hum ben za Gu ru pạt mê sít đi hum
    Công dụng:
    https://www.facebook.com/share/p/R6g...bextid=ƯC7FNe



    22. Thần chú tài bảo của Ngài Dzambala: Hoàng Tài Bảo Thiên: Thu hút tài bảo, giảm nghiệp keo kiệt nhỏ nhen
    Om Dzambala Dzalendraya Svaha
    Đọc là: Om Zam ba la Za le Đờ ra ê Sô ha
    By Amanda Na Nguyen




    Mật chú Phần I

    https://www.facebook.com/share/p/XS2...bextid=ƯC7FNe


    https://www.facebook.com/10004194624...2726511135546/







  14. #5974
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    ĐÀN PHÁP - MẠN ĐÀ LA

    (Trong Mật Tông Tây Tạng)

    Kiêm Đạt



    Đàn Pháp (hay Đàn Tràng) được định nghĩa qua nhiều ý niệm khác nhau, và trong những trường hợp đó cũng đã được phân chia ra những loại khác nhau. Trong phần dẫn nhập về "Đàn Pháp" trong kinh Đại Nhật, Kim Cang Thủ Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn, thế nào là Mạn Đà La?".Đức Phật dạy: "Phát sanh chư Phật gọi là Mạn Đà La. Trong các pháp không chi hơn được. Về Pháp Vị cũng không chi sánh bằng được..."

    Nhiều tác giả khi nhận thức ý nghĩa và công năng của Mạn Đà lagiải thích: Mạn Đà La là biểu trưng về thậm thâm diệu pháp của đức Phật, qua nhận định của chúng sanh. Trong Quán tưởng Đàn Pháp, có thể mỗi Phật Tử hiểu theo một cách khác nhau, tuy nhiên, về mục đích quán tưởng vẫn là đồng nhất. Mạn Đà La có nhiều thểtướng, để biểu trưng ý nghĩa khác nhau về các vấn đề Phật Học.Chẳng hạn như Đàn Pháp về Giác Ngộ, Đàn Pháp về Luân Hồi, Đàn Pháp về Tái Sanh...

    Trong truyền thống Kim Cang Thừa (Vijrayana) hay Mật Điển (Secret Mantra), thế giới được trình bày qua 3 phạm vi khác nhau: thọ uẩn, sắc uẩn và thức uẩn. Thế giới của thọ uẩn tương quan với chúng ta được gọi là "Ngoại Đàn Pháp"; tương quan với thế giới sắc uẩn thì gọi là "Nội Đàn Pháp"; tương quan với thế giới thức uẩn thì gọi là "Mật Đàn Pháp" hay "Đàn Pháp bí mật".

    Hình thể Về hình thể trình bày, theo cách phân chia trong Kinh Đại Nhật,Đàn Pháp thể hiện hình thức bằng 4 loại khác nhau: - Đàn Pháp hình tròn- Đàn Pháp hình vuông - Đàn Pháp hình tam giác - Đàn Pháp hình bán nguyệt Nhưng trong Kim Cang Đảnh thì lại phân chia qua 5 hình thức: - Đàn Pháp hình tròn- Đàn Pháp hình vuông - Đàn Pháp hình tam giác - Đàn Pháp hình hoa sen- Đàn Pháp Kim Cang.

    Theo lý giải của Kinh nầy, thì Đàn Pháp hình tròn tượng trưng cho Thủy Đại; đàn pháp hình vuông tượng trưng cho Địa Đại; Đàn Pháp hình tam giác tượng trưng cho Hỏa Đại; đàn pháp hình bán nguyệt tương trưng cho Phong Đại. Đất, nước, gió, lửa là Tứ Đại. Để khai triển thêm ý nghĩa của những Đàn Pháp nầy, Kinh Đại Nhật còn giải lý thêm: - Đàn Pháp hình vuông: tượng trưng cho sự bình đẳng của chúng sanh trong mọi cảnh giới. Đàn Pháp hình tròn: có nghĩa là viên mãn, trọn vẹn, vì hư không và nước thường được thể hiện bằng hình tròn. - Đàn Pháp hình tam giác: có nghĩa là hàng phục, vì tướng của lửahiện ra với hình tam giác. Đàn Pháp bán nguyệt: có nghĩa là diệt trừ những tai nạn thường xẩy ra, vì gió thường xô ngả các vật.

    Căn cứ theo những ý nghĩa trên, các Mạn Đà La được thể hiện qua các hình dáng đó. Mật Giáo Tây Tạng cũng đưa ra những thể tướng về Đàn Pháp khácnhau nữa. Thông thường, những Mạn Đà La của Mật Tông thường được tạo dáng bằng những hạt cát được nhuộm màu, gọi là "Sa Mạn Đà la" (Sand Mandala). Giải thích về việc dùng cát trong Mạn Đà La, kinh"Pháp Giới Quán" viết: "Chúng sanh trong bốn cõi là hằng hà sa số; Cát lại mang ý nghĩa về thể Kim Cương Bất Hoại và tính Bình Đẳngcủa chúnh sanh". Cũng có những loại Mạn Đà La được kết lập bằng hình tượng chư Phật và Bồ Tát, Tứ đại Thiên Vương, Hộ Pháp. Màu sắc trên Đàn Pháp phải là: vàng, trắng, đỏ đen, xanh. 5 màu nầy diễn tả Ngũ đại: đất nước, lửa, gió và hư không.

    Phân loại Đàn Pháp
    Về cách phân chia Đàn Pháp, những kinh điển trình bày không thống nhất. Căn cứ theo Đà Ra Ni Kinh, Thần Biến Sớ, Chơn Ngôn Nghi Quỷ, thì Đàn Pháp được phân làm 5 loại chính:- Tức Tai Đàn Pháp- Tăng Ích Đàn Pháp- Kính Ái Đàn Pháp- Hàng Phục Đàn Pháp- Xuất Thế Gian Đàn Pháp Mỗi loại Đàn Pháp được sử dụng trong mục đích riêng, hành giả phải ngồi theo phương hướng riêng, quán tưởng theo màu sắc riêng. Tức Tai Đàn Pháp Đàn Pháp nầy được dùng để giải trừ ác nghiệp, trọng tội và phiền não chướng (theo Đà Ra Ni Kinh). Ngoài ra còn dùng để vượt qua được những tai nạn, những quỷ mị sở trước, ác tinh lăng bức (theo Thần Biến Sớ). Hành giả ngồi về hướng Bắc, tréo gót chân, ngồi thẳng. Tượng Chuẩn Đề xoay về hướng Nam, trước tượng của Ngài có đặt chiếc kính đàn. Khi quán tưởng để tụng Thần chú, phải liên tưởng đến màu trắng.

    Chỉ có thể hành lễ nầy vào ngày mồng một và ngày mồng tám (âm lịch) trong mỗi tháng. Trước khi hành lễ phải tắm gội, thức ăn thì dùng "Tam bạch thức" nghĩa là: sữa, tấm và cháo. Trì tụng chú Chuẩn Đề 108 biến. Bài chú gồm có 8 chữ: Án, Chiết, Lệ, Chủ, Lệ, Chuẩn, Đề (đọc tên của mình hay người nào muốn giải nạn), Ta Bà (đọc chung), Ha. Trong Kinh "Chơn Ngôn Nghi Quỷ" có đoạn viết về công năng phi thường của cách ứng dụng Đàn Pháp nầy như sau:- "Đại phàm, hành giả nào trì tụng Tức Tai Đàn Pháp, với lòng thành khẩn nhất, đầy đủ nghi thức nhất, trong những ngày giờ quy định, chẳng những bệnh tật tiêu trừ, viễn ly khổ ách, thường hoạch cát tường, lại còn thăng tiến tinh thần, thân tâm thường an lạc; chẳng những lợi lộc chính bản thân mình mà còn giúp ích cho thân nhân của mình nữa. Quan trọng là dốc lòng thành kính. Trì tụng 108 biến hay nhiều hơn nữa càng hay..." (chương Luận Pháp).

    Tăng Ích Đàn Pháp: Như tên gọi của Đàn Pháp, hành giả thường xuyên trì tụng Thần Chú nầy trong nhiều ngày sẽ gia tăng ích lợi về tinh thần cũng như về vật chất. Những vấn đề được đắc dụng nhất trong Tăng Ích Đàn Pháp là: gia tăng vinh quang, tăng trưởng thọ mạng (sống lâu, giải bệnh), cầu phước đức gia đình, tiền tài phong thạnh, phục tàng bảo châu. Khi trì tụng thì hành giả hướng về phương Đông, ngồi kiết già hay bán già. Bức tượng hình đức Chuẩn Đề hướng về phương Tây, trước tượng có đặt chiếc kính đàn (kính hình tròn). Khi quán tưởng thì nghĩ đến màu vàng.

    Hương dụng trong lễ vật gồm có: bạch đàn, uất kim hương, thắp đèn dầu mè (ma du). Mỗi tháng, trì tụng từ ngày mồng 9 cho đến ngày 15 âm lịch, vào lúc mặt trời mọc. Đọc chú Chuẩn Đề như sau: Án, Chiết, Kệ, Chủ, Lệ, Chuẩn, Đề, (nêu tên mình hay người cần được gia tăng ích lợi), Ta Bà, Ha. Khi quán tưởng,thì nghĩ đến màu vàng. Đà Ra Ni Kinh có đoạn: "Thường nhật, trì tụng Thần Chú Tăng Ích Đàn Pháp với chơn tâm, thì phước đức trùng lai, vận hạn hanh thông, thân tâm an lạc".

    Kính Ái Đàn Pháp "Kính" là đền đáp ơn cha mẹ; "Ái" là tình thương anh chị em, vợ chồng, gia đình hai bên nội ngoại. Công năng của Đàn Pháp nầylà: Cầu Thánh Hiền gia hộ, Thiên Long, Bát Bộ hoan hỷ, ngôn âm hoà nhã, người nghe hoan hỷ, mọi người ái kính, bạn hữu kết thân thêm, oan gia giải toả, trở nên hoà thuận.

    Hành giả xây mặt về hướng Tây, ngồi theo thế kiết già hay bán già (có thể ngồi tự nhiên) lưng thẳng đứng, bức tượng Chuẩn Đề Bồ Tát thì xoay về hướng Đông, trước tượng có đặt kính đàn (hình tròn). Quán tưởng đến màu đỏ. Bài tụng chú Chuẩn Đề như trên. Hương dụng là Uất Kim Hương và Tô Hạp Hương. Trì tụng từ 16 đến 23 âm lịch trong mỗi tháng. Tụng vào lúc hoàng hôn.

    Hàng Phục Đàn Pháp Đàn Pháp nầy được gọi là Tối Cao Đàn Pháp, nếu so với những thể loại Đàn Pháp khác. Mục đích chính yếu là hàng phục chúng ma, ácquỷ, giải trừ sự nhiễu loạn của tâm trí, chống lại những kẻ bội phản. Trong các trường hợp như thế thì trì tụng "Vận Đại Từ Đại Bi Thần Chú" mới ứng nghiệm. Hành giả hướng mặt về phương Nam, ngồi theo lối Tôn Cư Tọa (ngồi chồm hổm, bàn chân bên tả áp qua bàn chân bên hữu). Mặt tượng Chuẩn Đề Bồ Tát thì hướng về phương Bắc. Trước tượng có đặt chiế ckính đàn hình tròn.Đàn tràng dùng trong lễ nầy hình tam giác hay hình bán nguyệt đắc dụng hơn loại hình tròn hay hình vuông. Quán tưởng đức Chuẩn Đề màu xanh lam.Tụng vào những ngày cuối tháng (từ ngày 25 đến 30 âm lịch) vào lúc nửa đêm, 108 biến.

    Xuất Thế Gian Đàn Pháp Đàn tràng nầy chỉ giành riêng cho những vị sống trong các hang động, mật thất tĩnh tu nên được gọi là "xuất thế gian". Kinh Đà Ra Ni viết rằng: "Hành giả ở núi rậm, hang sâu, hang cốc thăm thẳm thù thắng, già lam thanh tịnh. Đem hết lòng đại bi của mình đểtrì tụng thì lợi lộc vô biên cho thế giới hữu tình... "Thời gian trì tụng chú Chuẩn Đề nầy kéo dài 4 tháng 4 ngày không bao giờ gián đoạn, không liên hệ với thế giới bên ngoài. Các vị danh sư thường dùng đến Đàn Pháp nầy để cứu vớt chúng sanh. Hành giả ngồi nhiều hướng, tuy nhiên tốt hơn hết là hướng Đông. Mặt tượng Chuẩn Đề Bồ Tát thì hướng về phía Tây, trước tượng Bồ tát Chuẩn Đề có đặt kính đàn hình tròn. Hành giả quán tưởng đến Kim Cang Địa trải đều hoa sen, có vô lượng Thánh Chúng vi nhiễu (ngồi vây quanh để hộ trì Tam Bảo).

    Bài trì tụng vẫn là "Cửu Thánh Phạm Tự Đàn" (bài chú 9 chữ như trên). Quán tưởng nhiều màu sắc nhưng tốt nhất là màu vàng. Trong thời gian nầy, có thể trì tụng đến hàng chục vạn biến bà ichú trên.Trong 5 loại Đàn Pháp kể trên sau khi trì tụng gần xong thì hành giả tụng bài Chuẩn Đề Công Đức:

    "Tịch tịch tâm thường tụng, Nhất thiết chư đại nạn Vô năng xâm thị nhân Thiên thượng cập nhân gian Thọ phước như Phật đẳng Ngộ thử như ý châu Định hoạch vô đẳng đẳng."

    Trong Mật Giáo, tất cả những Nghi Quỷ Thần Bí của lễ Điểm Đạo và Đàn Pháp đều nhắm vào việc mang lại cho hành giả những điều ước mơ, hoài vọng của mình trên đường tu tập cũng như trong đời sống hàng ngày của mình và gia đình thân quyến. Trong hai nghi lễ nầy, thường phải nhờ đến công năng của Gia Trì Lực (Adhistana). Gia Trì Lực là "năng lực phi thường, bất biến, vô ngại của chư Phật, chư Bồ Tát hộ trì cho hành giả tiến tu thuận lợi. Đại nguyện hộ trì của chưPhật và chư Bồ Tát đều hướng về lòng từ bi, hỷ xã, thanh tịnh, cho nên trong khi hành lễ, quán tưởng đến chư vị nầy sẽ đạt đượcý nguyện theo sở đắc" (theo Choegyam Trungpa).

    Đà Ra Ni Mật Chú (Mantras)

    Mật chú nầy có nghĩa là "Tổng trì" có khả năng lớn lao và bảo vệ giữ gìn tất cả những khả năng tu tập của hành giả. Khả năng nầybảo vệ thiện duyên, khuyến khích làm điều lành, tạo thiện niệm,giữ gìn 3 mặt: thân, khẩu, ý luôn luôn thanh tịnh, loại bỏ nhữngtạp niệm thường hay gây nhiễu loạn trên con đường tu hành. Các vịChân sư, Lạt Ma thường hay quán tưởng trì tụng Chú Đà Ra Ni nầytrong mỗi giờ, mỗi ngày, tạo được khả năng hùng mạnh, gọi là "KimCương Lực".Mật Chú Đà Ra Ni còn được gọi là "Chơn Ngôn" tức là những ngôn ngữ vi diệu, sâu sắc nhất của chư Phật và chư Bồ Tát trong nguyện độ chúng sanh. Đã là Mật ngữ, thì không thể nào giải lý được và phân tách ra được.

    Khi trì tụng, bất cứ ngôn ngữ nào cũng dùng nguyên văn của Mật Ngữ nầy, thì mới thu được kết quả. Tánh chất "bất khả tư nghị" của Mật Chú càng gia tăng thêm sức mạnh của ngôn ngữ bùa chú.Theo Đại Nhật Kinh thì "Khi trì tụng Đà Ra Ni Kinh, tất cả tà ma, ngoại đạo đều lánh xa, lo sợ và hàng phục. Những ác niệm trong tâm của hành giả cũng tiêu tan. Những tham vọng của con người được dập tắt ngay từ khi khởi động.

    Vì vậy, được gọi là pháp thuật vô biên".Trong Kinh "Lầu Cát" có đoạn viết: "Tất cả chư Phật đều do Đà Ra Ni sinh ra. Chơn ngôn chính là mẹ của chư Phật, thành chủng tư của chư Phật. Nếu không có Chơn Ngôn thì sẽ không thành Chánh Giác được. Chơn Ngôn có sức mạnh vô biên, vô tận, vô ngại. Tất cảTam Tạng Kinh Điển đều được khởi phát từ Đà Ra Ni mà ra cả. Thành thử trong Kinh "Tối Thượng Đại Thừa Bảo Vương" có nói đến bốn thừa: 1- Thanh Văn Thừa 2- Duyên Giác Thừa 3- Phương Quảng Đại Thừa. 4- Tối thượng Kim Cang Thừa. Thừa sau nầy chính là Đà Ra Ni Tạng vậy. Tất cả các pháp đều do KimCương Thừa lưu xuất.

    Trong Kinh "Thần Biến Sao" có đoạn nói rằng: "Trong tất cả cácgiáo phái Phật Giáo đều phát khởi từ 2 ngọn núi Tích Thạch vàCôn Lôn; cũng như muôn hạnh nguyện thì đều do Đà Ra Ni mà racả..."

    Dùng cho Thân Trung Ấm (khi chết)

    Trong Kinh "Quan Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Thần Chú" có đoạn viết: "Nếu có người trì tụng Thần Chú, bất cứ trong truờng hợp nào, kểcả lúc lâm chung, đều được thành tựu hết thảy. Những người trì chú chẳng những có công năng lợi lạc hữu tình, lại còn có thể cứu thoát được u linh". Kinh "Thiên Thủ Thiên Nhãn Đà Ra Ni" cũng viết: "Bất luận người nào trì chú, thuờng tránh được những trường hợp bị ác tử như sau đây: 1- Trì chú sẽ không bị chết do đói khát, khốn khổ gây ra, có thể thoát nguy nhanh chóng, do chuyển lực và sự hộ trì của Tam Bảo. 2- Trì chú có thể tránh không bị chết do tra khảo, đánh đập của những thế lực bạo tàn hành hạ. 3- Trì chú sẽ không bị oan gia tương báo, không do những cuộc trảthù mà chết. 4- Trì chú sẽ không bị chết trong khi lâm trận, đối mặt với quân thù trực tiếp hay gián tiếp. 5- Trì chú sẽ không bị chết do những loài ác thú, những âm mưu thâm độc do kẻ khác ám toán. 6- Trì chú sẽ tránh được cái chết do những nọc độc của rắn rít,trùng độc, thú độc, cây độc do vô ý gây nên. 7- Trì chú sẽ không bị chết do nước trôi, lửa cháy, tai trời, ách nước, thiên tai, thủy họa.8- Trì chú sẽ không bị chết do âm mưu ám toán bằng những khí cụ hay ám khí. Chất độc thường được hóa giải dễ dàng.9- Trì chú sẽ tránh được cái chết do cuồng tâm loạn trí. Những trường hợp đó có thể an định tâm trí dễ dàng, loại trừ những khủng hoảng xẩy ra, nhiếp tâm trở về với an lạc.10- Trì chú sẽ tránh được cái chết do tà thần, ác quỷ, nộ khí,tiểu nhân, độc môn, tà đạo.11- Trì chú sẽ không do mình tự hại mình, trong những trường hợpkhông ổn định tâm trí. Không có trường hợp tự sát, tự hại. Khôngrơi vào tình trạng ác tâm, yếm tâm, mị tâm".

    Trong Kinh "Bất Không Quyến Thầm Chú Tâm" có nói thêm về việc trì tụng trong lúc lâm chung như sau: 1- Khi mạng lâm chung, nếu trì tụng sẽ thù thắng được đức Quan Thế Âm Bồ Tát thị hiện tướng Tỳ Kheo đến trước mặt để an ủi và dẫn độ. 2- Có trì tụng trong lúc đó, thì mạng chung sẽ được yên ổn, khônggây đau đớn, thác loạn, không trải qua những thống khổ dằn vặttrong giây phút cuối cùng cuả kiếp người. 3- Lúc lâm chung, nếu biết trì tụng, thì mắt không trợn lớn lên khủng khiếp, miệng không hả méo mó, tay buông thong thả, thong dong, chân duổi ngay ngắn, không phản tiết ra những chất dơ ứđọng trong thân thể. 4- Lúc lâm chung, biết trì tụng, sẽ được an trú theo chánh niệm,ý không loạn tưởng, hóa thân, tái sanh cũng được dễ dàng, nhanh chóng và thích ứng. 5- Lúc lâm chung, trì tụng chú Chuẩn Đề, sắc mặt vẫn ung dung, thoải mái, không bị dằn vặt, đau đớn. 6- Khi lâm chung, còn trì tụng, thì tùy theo nguyện sanh, sẽ về cõi Tịnh Độ. 7- Trì tụng trong lúc nầy, sẽ thấy hiện ra hình ảnh của chư Phật,chư Bồ Tát, Hộ Pháp bảo vệ.

    Phóng tâm và nhiếp tâm
    Trong Đại Phật Kinh, đức Phật dạy ngài Ananda rằng:- "Này Ananda! Hãy nên ghi nhớ điều nầy. Nếu không có hình tướng thì không có Pháp; nếu không có những thức ăn, thức uống, thì không có Pháp; nếu không có y phục, những vật che thân, thì không có Pháp; như vậy, hãy giữ gìn cơ thể của ông để phục vụ Pháp". Thành thử, trong truyền thống Mật Tông, sự liên hệ giữa các hìnhtướng vô cùng quan trọng, nhưng không phải vì vậy, mà chúng tabiến nó thành những cuộc phiêu lưu mãi trong hình hướng đó. Hình tướng là giả, Phật tâm là thật; không thể theo hình tướng mà bỏ Phật Tâm đi được".

    Chúng ta có thể trở thành những người ăn chay trường, nhưng không vì thế mà chê bai, chỉ trích những người ăn mặn được. Chúng ta có hể chỉ mặc toàn đồ vải bông, nhưng không vì thế mà chỉ trích những người dùng da thú.Bất cứ trong lối sống nào ta chọn cũng đều trở thành thái quá. Ngài Milarepa nói:-" Nếu có người ăn chay trường sẽ thôi không dùng thịt nữa, nhưng anh ta vẫn có thể khoan khoái ăn một trái chuối hay nấu một quảcà với con tâm khát máu, thì vẫn tìm trong hương vị chay đó hình ảnh của miếng thịt mở béo ngậy. Như thế chẳng lợi lộc gì, mà còn gây phiền não trong tu tập. Phải hướng tâm vào đường thiện.Ngài Choegyam Trungpa viết rằng: "Thế giới nầy có đủ các loại thân và những trạng thái của thân, tùy theo từng trường hợp: câm, điếc, đui, bại liệt hay mạnh khoẻ. Nhưng tất cả chúng sanh đều có một cảm giác căn bản giống nhau. Đó là cảm giác về thân, cái cảm giác của thực tế trong một cấp bậc vô cùng đơn giản." Chiêm nghiệm về bản thể sự vật, phá bỏ vọng tưởng, mới thấy đượccon đường đi dần đến Giải Thoát vậy.

    Lục Tự Đại Minh
    Trong Mật Chú Tây Tạng, Lục Tự Đại Minh (OM MANI PADME HUM = Án Ma Ni Bát Di Hồng) thuờng được xem là phầnKhai Ngộ quan trọng trong mọi lễ thức. Đã là Mật Ngữ, thì không thể và không được giải thích với người giới tử.

    Về những biểu hiện của Lục Tự Đại Minh (6 chữ toả ánh sáng) có thể nhận định tổng quát như sau:

    OM: biểu trưng cho sự hoà hợp của Trí Tuệ vào Thân, Khẩu, Ý đã được giác ngộ.

    MANI: là Ngọc Như Ý, viên ngọc quý nhất nằm trong tay của vị Bồ Tát, biểu trưng cho sự Thanh Tịnh tuyệt đối.

    PADME: Hoa sen, biểu trưng cho giải thoát. Cũng là hình ảnh tự tại, thoát ra ngoài vòng sinh tử, luân hồi. Hoa sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Vị Đại Bồ Tát không còn bị ràng buộc do nghiệp báo và sinh tử. Ngài đã tự tại ra hẳn ngoài vòng sinh tử, luân hồi, nhưng vẫn trở lại cuộc đời để cứu vớt chúng sanh theo đúng hạnh nguyện.

    HUM: tượng trưng cho Trí Tuệ sáng suốt. Đây là thành tựu lớn lao của chư Phật. Khả năng thành tựu này vô cùng mạnh mẽ, xoá tan được những phiền não trên con đường tu tập.

    Gọi là "gia đình", có nghĩa là liên hệ thân thiết. Một hành động Tantra (Mật) không đơn thuần là những nhận định tổng quát về thế giới, khu vực trước mọi diễn biến, mà quán triệt mọi hiện hữu liên kết với nhau. Đây là những nguyên lý giải đáp liên hệ của năm vị Phật. Đó là - Kim Cang (Vajra) - Bảo Vương (Ratna) - Liên Hoa (Patma) - Nghiệp (Karma) - Phật (Bouddha)

    Theo truyền thống Mật Tông, chúng ta thường giao tiếp với nhiều hạng người trong những gia đình Phật. Mỗi gia đình Phật thường có2 khía cạnh: (a) Khía cạnh tiêu cực thuộc về bệnh hoạn; (b) Khía cạnh tích cực về ánh sáng trí tuệ hay giác ngộ. Biết những tâmbệnh để giải trừ xa lánh; Phát triển ánh sáng trí tuệ để nâng cao đạo hạnh, đó là mục đích của tu trì .

    1- Kim Cang: Gia đình đầu tiên là Kim Cang. Kim Cang có nghĩa là gia đình bền vững, hội tụ và hoà hợp với nhau trong bất cứ hoàn cảnh nào đi chăng nữa. Biểu hiện của gia đình nầy là viên Kim Cương, cótánh bền chắc không thể nào huỷ hoại được. Chiếc chày Kim Cương trong Mật Tông có 5 cạnh, biểu tượng cho sự cảm thọ là: sân, kiêu hãnh, tham dục, ganh ghét và bất cần đời. Thiện niệm của gia đình nầy có nghĩa là sáng suốt tiếp cận với mọi sự vật một cách vững chắc. Trong khi đó, bệnh tâm của gia đình nầy là tánh hay sân hận và chấp thủ. Phải biết tăng trưởng thiện niệm và đồng thời trấn áp bệnh tâm. Muốn được như vậy phải trì dụng đức Thường Tinh Tấn Bồ Tát. Khi trì tụng thì mặt hướng về phương bắc.

    2- Bảo Vương Gia đình thứ nhì là Bảo Vương. Bảo Vương có nghĩa là quý giá, trang trọng. Biểu hiện của gia đình nầy là sự giàu sang, độ lượng. Thiện niệm của gia đình nầy đức từ bi Trong khi đó, bệnh tâm của gia đình nầy là ích kỷ, tự tư tự lợi. Phải biết tăng trưởng thiện niệmvà đồng thời trấn áp bệnh tâm. Muốn được như vậy phải trì dụng đức Quán Thế Âm Bồ tát. Khi trì tụng thì mặt hướng về phương nam.

    3- Liên Hoa Gia đình thứ ba là Liên Hoa. Liên Hoa có nghĩa là hoa sen, mùi thơm ngào ngạt. Biểu hiện của gia đình nầy là sự tinh khiết. Thiện niệm của gia đình nầy tinhlọc, sáng suốt trong mọi nhận định. Trong khi đó, bệnh tâm của gia đình nầy là mù quáng, mê mờPhải biết tăng trưởng thiện niệm và đồng thời trấn áp bệnh tâm. Muốn được như vậy phải trì tụng đức Đưong Lai Hạ Sanh Di lặc Tôn Phật. Khi trì tụng thì mặt hướng về phương đông.

    4- Nghiệp Gia đình thứ tư là Nghiệp. Nghiệp có nghĩa là những nghiệp báo và nghiệp quả, tức là hậu quả gây nên do sự tu hành trong kiếp trước. Biểu hiện của gia đình nầy là trí tuệ viêm mãn (Thành Sở Tác Trí). Thiện niệm của gia đình nầy xác định tánh vô thường ganh ghét,hờn giận, khong hoán cải được. Trong khi đó, bệnh tâm của giađình nầy là tham vọng muốn nắm nhiều quyền hành. Phải biết tăng trưởng thiện niệm và đồng thời trấn áp bệnh tâm. Muốn được như vậy phải trì tụng đức Phật A Di Đà. Khi trì tụng thìmặt hướng về phương tây.

    5- Phật Gia đình thứ năm là Phật. Phật trong phạm vi nầy có nghĩa là giải thoát. Biểu hiện của gia đình nầy là vòng tròn viên mãn. Thiện niệm của gia đình nầy đi vào chánh niệm. Trong khi đó, bệnh tâm của gia đình nầy là mê mờ, vô minh, đầy tham vọng. Phải biết tăng trưởng thiện niệm và đồng thời trấn áp bệnh tâm. Muốn được như vậy phảitrì tụng đức Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật.Khi trì tụng thì mặt hướng về trung ương.

    Nội Ngoại Đàn Pháp
    Như đã trình bày trong phần trên, Nội Ngoại Đàn Pháp là sự tương quan giữa chúng ta với thế giới thọ uẩn. Trong sinh hoạt bình thường của con người, lúc nào cũng tiếp xúc với thế giới của lục trần(Ayatanas), tức là: sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp. Những trần cấu nầy tương quan với 6 giác quan (lục căn): nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Theo nhận định vật lý thế gian, chỉ có "ngũ quan"; còn "ý" (suy nghĩ) được loại ra, đưa vào phần nội tâm. Những trong luận lý học Phật Giáo, thì sự suy nghĩ (ý) lại được ghép vào một trong "lục căn", vì chính sự suy nghĩ nầy đã điều chỉnh 5 giác quan kia. Những nhận thức của chúng ta luôn luôn thay đổi và thích ứng trong những điều kiện khác biệt nhau, cho nên được cả 2 sắp xếp như một Đàn Pháp.



    https://www.tuvienquangduc.com.au/ma...62mandala.html





  15. #5975
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

  16. #5976
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

  17. #5977
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định





    què

    zhēn

    yán
    Dhāraṇī Memperbaiki Kesalahan dan Kelalaian
    nán mó hē luō dá nà duō luō yè yé
    南 謨 喝 囉 怛 那 , 哆 囉 夜 耶 。
    qū luō qū luō jù zhù jù zhù mó luō
    佉 囉 佉 囉 。 俱 住 俱 住 。 摩 囉
    mó luō hǔ luō hōng hè hè sū
    摩 囉 。 虎 囉 , 吽 。 賀 賀 , 蘇
    dá ná hōng pō mǒ ná suō pó hē
    怛 拏 , 吽 。 潑 抹 拏 , 娑 婆 訶
    NAMO RATNA TRAYĀYA OṂ KHARA KHARA KUCU KUCU MALA MALA HURA HŪṂ
    HA HA SUDĀNA HŪṂ PHAṬ VARṆA SVĀHĀ




    biàn

    shí

    zhēn

    yán
    Mantra Transformasi Makanan
    nán mo sà wa dá tā yé duō wa lū
    南 無 薩 嚩 。 怛 他 誐 多 。 嚩 嚕
    zhǐ dì ǎn sān bá luō sān bá luō hong
    枳 帝 。 唵 。 三 跋 囉 。 三 跋 囉 。 哞 。
    NAMAḤ SARVA-TATHĀGATĀVALOKITE OṂ SAMBHARA SAMBHARA HŪṂ!

    gān



    shuǐ

    zhēn

    yán
    Mantra Air Amṛta
    nán mo sū lū pó yé dá tā yé duō yé
    南 無 蘇 嚕 婆 耶 。 怛 他 哦 哆 耶 。
    dá dié ta ǎn sū lū sū lū bō luō
    怛 垤 他 。 唵 。 蘇 嚕 囌 嚕 鉢 囉 。
    sū lū bō luō sū lū suō pó hē
    蘇 嚕 。 鉢 囉 蘇 嚕 。 娑 婆 訶 。
    NAMAḤ SURŪPĀYA TATHĀGATĀYA TADYATHĀ OṂ SURU SURU PRA SURU PRA
    SURU SVĀHĀ!






    tiān

    chú

    zàn
    Pujian Dapur Surgawi
    tiān chú miào gōng chán yuè sū tuó hù ǎn
    天 廚 妙 供 。 禪 悅 酥 酡 。 戶 唵
    sū lū sà lǐ mó dá tā ā é duō
    蘇 嚕 薩 哩 嚩 。 怛 他 阿 誐 多 。
    dá nǐ yě tā sū lū suō mó hē
    怛 你 也 他 。 蘇 嚕 娑 嚩 訶 。
    Persembahan yang luar biasa dari dapur surgawi ini adalah mentega dari kebahagiaan dhyāna.
    OṂ SURU-SARVA TATHĀGATA TADYATHA SURU SVĀHĀ




    https://cdnc.heyzine.com/files/uploa...427b8cbf99.pdf








  18. #5978
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định



    ĐÔNG MẬT THẬP TAM PHẬT CHÂN NGÔN ĐÀ LA NI

    (Mật Nghiêm Đại Hải Thập Tam Tôn Như Lai Thánh Chúng Chân Ngôn)


    Hán Văn: Không rõ tác giả
    Phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH





    1_Nam mô Bất Động Minh Vương Tôn
    Chú là: “Nam mô tam mạn đạt ngõa cập lạt nam_ hám”
    *)NAMO SAMANTA-VAJRĀṆĀṂ_ HĀṂ



    2_Nam mô Thích Ca Ma Ni (?Mâu Ni) Như Lai
    Chú là: “Nam mô tam mạn đạt bố đắc đả nam_ Bà”
    *)NAMO SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ BHAḤ



    3_Nam mô Văn Thù Bồ Tát
    Chú là: “A lạp bạc hiệp na”
    *)A RA PA CA NA



    4_Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát
    Chú là: “Sa mã da, sa tháp mạn”
    *)SAMAYA STVAṂ



    5_Nam mô Địa Tạng Bồ Tát
    Chú là: “Nam mô tam mạn đạt bố đích đả nam_Ha ha ha, tô đặc nô, tư phạp
    cáp”
    *)NAMO SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ HA HA HA SUTANU SVĀHĀ



    6_Nam mô Di Lặc Bồ Tát
    Chú là: “Nam mô muội thản lợi da, tư phạp cáp”
    *)NAMO MAITREYA SVĀHĀ



    7_Nam mô Dược Sư Như Lai
    Chú là: “Ông, bài sái cập da, bài sái cập da, bài sái cập nha, tam mộ ca thiếp,
    tư phạp cáp”
    *)OṂ_ BHAIṢAJYE BHAIṢAJYE BHAIṢAJYA SAMUDGATE SVĀHĀ



    8_Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
    Chú là: “Ông, ma ni bối miết hồng”
    *)OṂ MAṆI PADME HŪṂ



    9_Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát
    Chú là: “Nam mô tam mạn đạt bố đích đả nam_Tưởng tưởng, sa ha, tư phạp
    cáp”
    *)NAMO SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ JAṂ JAṂ SAḤ HAḤ SVĀHĀ



    10_Nam mô A Di Đà Như Lai
    Chú là: “Nam mô a mật lợi đả, thiếp gia, ha lạp, hồng”
    *)OṂ_ AMṚTA TEJE HARA HŪṂ



    11_Nam mô A Súc Như Lai
    Chú là: “Nam mô oa cập lạp nương nam, hồng”
    *)NAMO VAJRA-JÑĀNAṂ HŪṂ



    12_Nam mô Đại Nhật Như Lai
    Chú là: “Nam mô oa cập lạp đà đô, mạn”
    *)NAMO VAJRA-DHĀTU_ VAṂ



    13_Nam mô Hư Không Tạng Bồ Tát
    Chú là: “Nam mô oa cập lạp, lạp đặc na, hồng”
    *)NAMO VAJRA-RATNA HŪṂ




    +)Phụ chú: Chữ chủng tử của 13 Phật Bồ Tát



    _Hàng trên cùng là: Đại Nhật Như Lai (Vairocana tathāgata): ĀṂḤ (hay AṂ
    ĀḤ)


    _Hàng dọc bên trái từ trên xuống dưới là:

    .)Dược Sư Như Lai (Bhaiṣajya tathāgata): BHAI

    .)Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara bodhisattva): SA

    .)Đại Thế Chí Bồ Tát (Sthāma-prāpta bodhisattva): SAḤ

    .)A Đi Đà Như Lai (Amitābha tathāgata): HRĪḤ

    .)Bất Động Như Lai (Akṣobhya-tathāgata): HUṂ

    .)Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśa-garbha-bodhisattva): TRĀḤ

    _Hàng bên phải từ trên xuồng dưới là:

    .)Bất Động Minh Vương (Acala vidya-rāja): HĀṂ

    .)Thích Ca Mâu Ni Như Lai (Śākya-muṇi tathāgata): BHAḤ

    .)Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Maṃjuśrī bodhisattva): MAṂ

    .)Phổ Hiền Bồ Tát (Samanta-bhadra bodhisattva): AṂ

    .)Địa Tạng Bồ Tát (Kṣiti-garbha bodhisattva): HA

    .)Di Lặc Bồ Tát (Maitreya bodhisattva): YU




    https://daitangkinh.truyenphatgiao.c...-ngon-tong.pdf






    Last edited by phoquang; 15-12-2025 at 04:32 PM.

  19. #5979
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

    Mặc định


    Nghi Thức Trì Chú Đại Bi Thủ Nhãn Ấn Pháp



    https://fr.scribd.com/document/68603...E1%BA%A4n-Phap






  20. #5980
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    32,516

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 3 users browsing this thread. (0 members and 3 guests)

Similar Threads

  1. TẠI SAO CÁC NƯỚC CÓ BÙA CHÚ PHÁP THUẬT CAO TRONG QUÁ KHỨ ĐẢ BỊ THUA KHI C
    By ÁNH SÁNG -T2- ÚC CHÂU in forum Thế Giới Bùa Ngải
    Trả lời: 41
    Bài mới gởi: 29-03-2017, 11:59 PM
  2. Đàm đạo các vấn đề pháp thuật & đạo thuật trong bíkiếp ThấtBộ TrầnKỹ
    By ÁNH SÁNG -T2- ÚC CHÂU in forum Đạo Giáo ( Lão giáo, Khổng giáo, Nho giáo )
    Trả lời: 242
    Bài mới gởi: 11-03-2011, 08:54 AM
  3. Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 30-08-2010, 10:32 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •