B-Hanh-Le-Cac-Nghi-Thuc.pdf - Diệu Pháp
https://dieuphap.vn/image/catalog/PD...-Nghi-Thuc.pdf
B-Hanh-Le-Cac-Nghi-Thuc.pdf - Diệu Pháp
https://dieuphap.vn/image/catalog/PD...-Nghi-Thuc.pdf
Last edited by phoquang; 12-12-2025 at 11:59 AM.
The Vajra Prajna Paramita Sutra
金 剛 般 若 波 羅 蜜 經
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh
長堤聖寺
http://www.longbeachmonastery.org › The Vajra ...
L: 0LD: 1,02KI: n/awhoissourceRank: 1,13M
oṃ śuri śuri mahā śuri śuśuri svāhā. 唵 nān án. 修 唎 修 唎 xiū lì xiū lì tu ... Maha Prajna Paramita. 摩訶般若波羅蜜多 mó hē bō rě bō luó mì duō. Ma Ha ...
http://www.longbeachmonastery.org/Th...ta%20Sutra.pdf
Prajna, Prajnaparamita, 智慧, 般若, 般若佛母, 般若波罗蜜多, Wisdom
[[Mantra_iast]]
oṃ āḥ dhīḥ hūṃ svāhā ||1||
oṃ namo bhagavatyai ārya-prajñāpāramitāyai ||2||
[[Mantra_txt]]
(1) Om Ah Dhih Hum Swaha.
(2) Om Namo Bhagavatye Arya Prajñaparamitaye
http://www.hartwaking.com/Buddha_chants/M0021.html
https://motherofthebuddhas.blogspot.com/p/mantras.html
Collection of Mantras by Taiwan
https://fr.scribd.com/document/32263...E3NjEwNjA0ODE.
Last edited by phoquang; 12-12-2025 at 12:56 PM.
CÁC BÀI KHẤN NGUYỆN
*Đức Huỳnh Giáo Chủ ( PGHH ), đã dạy rằng:
-Bàn thờ Phật tượng trưng cho Đạo Phật ( Từ, Bi, Hỷ, Xã ).
-Bàn Thờ Ông Bà ( Cửu Huyền Thầt Tổ ) tượng trưng cho Đạo Nho ( Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín ).
-Bàn Thiên tượng trưng cho Đạo Tiên.
*Hòa Thượng Thích Phổ Ứng ( Hệ Phái Đại Sư Huệ Nhựt, Khất Sĩ Bắc Tông Đại Thừa ), đã dạy rằng:
Người Phật từ tại gia không nên thờ cúng quá nhiều ( Ta Bà thế giới ). Việc thờ cúng quá nhiều sẽ làm cho trong nhà trở nên xáo trộn và tốn kém. Chỉ nên thờ Phật, Ông Bà ( Cửu Huyền ) và bàn Thiên là đủ rồi ( Khi chúng ta quy y Phật mà Phật là Thầy của Chúng Trời Người, do dó suốt đời ta không được quy y Thiên Thần Quỷ Vật. Đối với các vị Thiên-Thần, mặc dù chúng ta không quy y họ cũng không nên phỉ báng họ, phải tỏ thái độ khiêm cung giữ lễ giao hòa trước họ là được ).
1.Bài Khần Nguyện trước Bàn thờ Ông Bà - Cửu Huyền Thất Tổ ( Do Đức Huỳnh Giáo Chủ truyền dạy lại cho chúng ta ):
*Cầm hương xá 3 xá, quỳ xuống chắp tay đưa lên trán nguyện:
Cúi kính dâng hương trước Cửu-Huyền.
Cầu trên Thất-Tổ chứng lòng thiềng.
Nay con tỉnh ngộ quy-y Phật.
Chỉ dốc tu hiền tạo phước duyên.
*Cắm hương rồi đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp:
Cúi đầu lạy tạ Tổ-Tông.
Báo ơn sanh-dưỡng dày công nhoc nhằn.
Rày con xin giữ Đạo hằng.
Tu cầu Tông-Tổ siêu thăng Phật-đài.
Nguyện làm cho đẹp mặt mày.
Thoát nơi khổ hải Liên-đài được lên.
Mong nhờ Đức Cả bề trên.
Độ con yên ổn vững bền cội tu.
( lạy 4 lạy )
2.Bài Khấn Nguyện trước Bàn thờ Phật ( Do Ngài Từ Vân Sám Chủ truyền dạy cho chùng ta ):
-Vào buổi sáng sớm ( Công việc rãnh , sau khi đã súc miệng, đánh răng, rửa mặt và mặc quần áo sạch sẽ ).
-Nếu có bàn Phật thì đến trước lễ 3 lạy ( Nếu không có thì xoay mặt về hướng Tây, xá 3 xá ).
-Đứng thẳng, mắt nhắm, chắp tay trước ngực, hít 1 hơi thật sâu rồi ngưng lại, miệng niệm ra tiếng câu " NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ", hết 1 hơi tính là 1 niệm ( Hơi theo tiếng mà ra ). Cứ như vậy niệm cho đủ 10 hơi ( Tùy hơi ngắn dài không ép, ép thì lao hơi, chỉ đủ 10 niệm, nếu hơn cũng lao hơi ).
-Sau khi niệm đủ 10 hơi như trên. Tiếp đọc bài Kệ Phát Nguyện " Con nguyện cùng người niệm Phật. Lâm chung thấy Phật. Vãng sanh Cực Lạc. Như Phật độ tất cả ", sau đó lễ Phật 3 lạy rồi lui ra làm việc ( Hoặc nếu không có bàn Phật thì xá 3 xá ).
Đây là phép Thập Niệm Kí Số do Ngài Từ Vân Sám Chủ lập ra cho vua quan vì bận việc triều chính không có đủ thời giờ tu niệm. Do dó, chúng ta là người trong thời buổi hiện nay, nếu không có nhiều thời giờ tu niệm thì cứ việc giữ y pháp này mà tu niệm. Ngay cả chính bản thân tôi và tất cả mọi người cùng áp dụng cách tu niệm này, không hình thức, không lễ nghi cầu kỳ, chỉ việc giữ cho liên tục là được ( Có 1 bà cụ thường niệm Phật mà không Phát Nguyện cụ thể. Khi bà gặp tôi , tôi đã chỉ cho bà bài Phát Nguyện ngắn gọn ở trên mà Chư Tổ đã truyền lại. Khoảng thời gian sau đó bà mất, theo lời Chư Tăng và các đạo hữu đã xác nhận là bà đã vãng sanh. Vì lúc bà trút hơi thở cuối cúng thì tâm bà vẫn bình tĩnh không xao động, miệng vẫn luôn niệm Phật không lơi. khi chết sắc mặt bà vẫn tươi hồng mặc dù trước đó bà bệnh lao, và miệng bà vẫn nở một nụ cười đầy mãn nguyện. Các đạo hữu thỉnh thoảng vẫn nghe tiếng niệm Phật của bà vang vẳng bên tai khi ở trong chính điện ). Phép này tuy số niệm có ít, do đó phải giữ liên tục không cho gián đoạn ( Dù không niệm vào buổi sáng được thì có thể niệm vào các thời gian khác trong ngày, nên giữ cho đúng vào buổi sáng là tốt hơn hết nên nhớ đừng quên ), công đức sâu dày của phép niệm Phật này sẽ là hành tranh đưa chúng ta vãng sanh Cực Lạc. Kính mong quí vị và các ban thự hành phép niệm Phật đơn giản, mạnh khỏe và đầy sự mầu nhiệm này.
3.Bài Khấn Nguyện trước Bàn Thiên ( Do Đức Diêu Trì Tây Vương Mẫu truyền dạy cho vị nữ đệ tử của Ngài từ thuở trước ):
Cầu nguyện bàn Phật xong, nếu có ít thời giờ thì ra ngoài Trời chỗ Bàn Thông Thiên, nguyện vái bài này:
Nam mô Đại Đức Phật Thiên Hoàng.
Nam mô Đại Đức Phật Địa Mẫu Hoàng.
Nam mô Các Đại Đức thiêng liêng.
Đêm 5 canh có 5 ông tuần vảng, ngày 6 khắc có các ông du Thánh xét soi, đồng cảm ứng chứng minh cho đệ tử... Cầu nguyện dân an quốc thới, xứ xứ đều hòa phục, đẳng nguyện giao do phước tho trường và bá tánh bá gia cùng nội bửu quyến, con cháu lớn nhỏ xa gần tai qua nạn khỏi, tật bệnh tiêu trừ, viễn cận đàn na tăng duyên phước thọ.
( Lạy 4 hướng mỗi hướng 3 lạy, lạy đứng hay lạy quỳ tùy theo lúc mạnh yếu, nếu không lạy được thì xá 4 hướng mỗi hướng 3 xá ).
Ngưỡng mong Tam Bảo chứng minh tiếp độ và gia hộ cho toàn thể chúng con.
Nam mô Nho-Thích-Đạo Tam Giáo Giác Thế Đại Thiên Tôn.
http://tuvilyso.net/diendan/forum_po...TID=9313&PN=28
NHẬP THẤT
( Kiết Thất )
I.Dẫn nhập:
Nhập Thất hay còn gọi là bế quan ( đóng cửa ). Danh từ này không có ở Ấn Độ, ở Trung Quốc mãi đến sau đời nhà Nguyên, thậm chí đến đời nhà Minh mới thấy có ghi phương thức tu hành đó. có thể bắt nguồn từ việc tu luyện lâu dài ở trong hang động của Phật giáo Tây Tạng. Rồi khi Lạt Ma giáo từ triều vua Mông Cổ truyền vào nội địa Trung Quốc thì phương thức đóng cửa mới dần dần được thịnh hành.
Nếu nhân duyên cho phép, nếu cần thiết thì đóng cửa cũng là một trong những phương thức tu hành tối ưu để loại bỏ những sự việc phức tạp, đoạn tuyệt với ngoại duyên. Nhập thất là một phương pháp rốt ráo nhất, để cho chúng ta tu tập theo ngồi thiền, niệm Phật, hay trì chú... Nhiều người tu tập theo pháp môn này hay pháp môn khác chưa có hiệu quả, ấy là vì sự tu tập còn dãi đãi, chưa được tích cực, xưa nay nhiều vị chân tu vẫn thường áp dụng phương pháp nhập thất này.
II.Thất:
-Ngày xưa, cái Thất của Ngài Tịnh Danh vuông vức 1 trượng nhưng có thể dung nạp 3000 toà sư tử ( Ngài Tịnh Danh tức Ngài Duy Ma Cật. Ngày xưa là 1 vị cổ Phật thị hiện làm thân cư sĩ mà vì tứ chúng thuyết pháp ở Ấn Độ ).
-Ở Việt Nam, Người ta cất 1 cái cốc tức 1 căn nhà nhỏ ước chừng bề ngang 2thước bề rộng 2 thước nằm riêng biệt nhưng không hoàn toàn thiếu ánh sáng. Trên nóc có đục 1 lỗ hổng để cho ánh sáng có thể rọi vào bên trong, căn nhà này rộng vừa đủ để ta có thể đi đứng hoặc cử động cho giản gân cốt. Nếu nhà nào có lầu nên dùng riêng một tầng để nhập thất.
-Ở Mỹ, chúng ta có thể dọn một căn phòng để dùng vào việc kiết thất, phòng này không nên để gì cả, tiện nghi luôn luôn tối thiểu, ngăn cách được với đời sống hàng ngày bên ngoài.
Căn phòng nhập thất được khoá lại ở bên trong chứ không phải bên ngoài. Sở dĩ nó được khoá ở trong để người ngoài khỏi làm phiền nhiễu, nhưng dĩ nhiên ở bên trong ta có thể mở cửa đi ra ngoài bất cứ lúc nào ta muốn và sự liên hệ giữa bên trong và bên ngoài thông qua một lỗ hổng vừa đủ để đưa thực phẩm và nước uống vào.
III.Các vật dụng cần sắm:
Khi nhập thất một mình, nên sắm bốn thứ để ăn: cơm khô ( cơm phơi khô ) hoặc bánh mì phơi xấy khô, trái cây, gừng sống, dầu mè; tám thứ để dùng: lư hương, đèn dầu, bồ đoàn ( đồ để ngồi thiền ), ghế dựa, áo bông ( đồ ấm ), khăn hay mũ, thùng vệ sinh, giấy vệ sinh ( giấy sút ). Ngoài 12 thứ đó, không để một thứ gì cả. Những thứ cần dùng phải sắm đủ, để khỏi phải bận tâm, không móng nghĩ , hoặc nhờ dỏi người ngoài, hầu yên tâm tu tập.
IV.Trong Thất:
Trong Thất chỉ cúng 1 tượng Phật hoặc ảnh Phật, 1 quyển kinh để đọc và 1 lư hương. Ngay giữa phòng ta có thể kê 1 cái bàn sát tường ngang 5 tấc, dài 1 thước, chân chỉ cao 2 tấc, một ảnh Phật lộng kiếng ngang độ 8 tấc, cao chừng 1 thước 2 tấc, treo vào tường, ngay giữa bàn chỉ có 1 bát nhang, trên bát nhang mỗi lần chỉ cắm 3 cây nhang. Bàn Phật này cũng hết sức đơn giản, khi ngồi thiền, ảnh hơi cao hơn người ngồi một chút, cũng là một bàn Phật trang nghiêm. Nên giữ Đèn hương trên bàn Phật nối luôn không cho tắt.
Ngoài ra trong Thất còn có giường nằm, một cái bỉnh đựng nước uống, chén đĩa dùng để ăn và uống, một cái chăn để đắp và một cái mùng để tránh muỗi, mỗi thối cái, nên phải giản tiện tối đa, không nên để nhiều vật khác. Lúc nào cũng phải quét dọn sach sẽ, để cho khi đi kinh hành khỏi bị trở ngại.
V.Kiết giới:
*Trước khi nhập thất, chúng ta phải trai giới thân tâm, 7 ngày trước. Phải làm phép kiết giới, có nghĩa là chia giới hạn thiện ác, mê ngộ. Có nhiều cách kiết giới, nhưng cách giản dị nhất là phép kiết giới trong Chuẩn Đề.
*Cách kiết giới nên làm như sau:
+Thiết một hương án (đặt một cái bàn có bát nhang, hoa quả, nước cúng, nến).
+Lấy một cái chén mới, đựng nước (thường dùng nước mưa hứng ngoài trời hay múc giữa sông, để được tinh khiết), bỏ vào chén nước vài thứ hoa thơm.
+Để cái chén ấy trước mặt chỗ ngồi của mình trước hương án, lên nhang đèn rồi ngồi kiết già ( chân trái gác trên vế chân mặt, chân mặt gác lên vế chân trái ) , hai tay kiết ấn Chuẩn Đề ( Kiết Ấn Chuẩn Đề: lấy ngón áp út và ngón út bên mặt cùng bên trái xỏ lộn với nhau vào trong hai lòng bàn tay, dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ vịn vào lóng đầu của hai ngón tay giữa; còn hai ngón tay cái thì đè lên lóng giữa của ngón tay áp út bên mặt ), rồi để ngang ngực, chuyên chú một lòng ngó chén nước ấy, niệm chú Chuẩn Đề: Nam Mô Tát Ða Nẫm Tam Miệu Tam Bồ Ðề Cu Chi Nẫm, Ðát Ðiệt Tha. Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Ta Bà Ha Bộ Lâm ( tụng 21 lần ) . Nên tụng từ chữ Án trở xuống Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Ta Bà Ha Bộ Lâm.
+Rồi đem chén nước ấy rãi mười phương: đông, tây, nam, băc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên, dưới, để cho chỗ kiết thất được thanh tịnh.
VI.Nhập Thất:
+Từ khi kiết giới, đối với người tu theo pháp môn niệm Phật, tập tưởng niệm Đức Phật A Di Đà, đến ngày nhập thất, cầu nguyện Ngài giáng xuống chứng đạo tràng, rồi lạy 100 lạy hay 50 lạy, qùy trước hương án, phát nguyện đem hết tâm chí thành niệm Phật trong 7 ngày, không để khởi một tư tưởng nào của thế gian. Sau đó thì luôn luôn niệm Phật khi đi, đứng , nằm, ngồi, ban ngày không ngủ, ban đêm chỉ ngủ chừng 2 giờ mà thôi. Khi niệm Phật, tiếng niệm không huởn mà cũng không gấp, tâm niệm không được lảng, cũng không được mê, làm thế nào cho tâm niệm luôn luôn được rõ ràng, minh bạch.
+Đối với người tu thiền, phát nguyện mười phương chư Phật, lịch đại tổ sư thiền, trong 7 ngày nhập thất, giữ tâm thanh tịnh, không để tâm buông lung tưỡng nghĩ đến việc trần thế. Sau mỗi khi ngồi thiền xong, xả thiền thì thiền hành chừng nửa giờ, lại ngồi thiền trở lại.
Đều cần yếu là làm sao cho tâm mình không vướng một mảy trần, dứt bặt muôn diều lo nghĩ, rỗng rang trong sáng, không biết có thân, có đời, cũng không biết hành động của mình hôm nay là việc tu hành. Được như thế là cùng với đạo ngày một gần hơn. Trong thời gian này, ta không nên nói chuyện với bất cứ ai( Tịnh Khẩu ); khi cầu nguyện thì thì mở mắt nhìn chăm chú vào tượng Phật hoặc tưởng chân dung của Phật mà niệm-nguyện, lúc này chỉ nghe được tiếng vọng của chính mình thì tạp niệm mới mau dứt thì trí tuệ mới bừng khởi. Khi đã quyết định nhập thất, thì đừng để ngoại sự chi phối, rồi nửa chừng dở thất, nếu chưa hết kỳ mà vội mở cửa, thì thật là chua! Nên biết rằng: người tu, càng tu nhiều ma càng khảo nhiều, nên không thể lơ mơ được, bởi thế nên phải hiểu và phải nhận định kỹ trước khi làm, không thể thua cuộc mà hỏng việc, lại để cười cho kẻ bàng quan.
VII.Thời gian Nhập Thất:
Nhập Thất là thời gian tu hành có định kỳ và thời khoá nhất định . Ví như tu 1 pháp môn nào đó trong 7 ngày, 21 ngày, 49 ngày, 90 ngày, 100 ngày( 3 tháng 10 ngày ), chuyên tâm dụng công tu hành, khắc kỳ thủ chứng để mong chứng ngộ . Nếu hoàn cảnh cho phép, nếu cần thiết thì học kỳ có thể kéo dài 1 năm, 3 năm, 3 năm 3 tháng 3 ngày, cho đến 6 năm, 9 năm, mười mấy năm, mấy mươi năm, không hạn cuộc. Có khi cả quảng đời còn lại nhất là các vị Đại Lạt Ma Trưởng Lão bên Tây Tạng không rời khỏi tu viện bao giờ. Đời sống tu hành không phải một kỷ luật cứng nhắc áp dụng cho tất cả, nhưng là một lối sống cho đúng ý nghĩa với sự sống để thoát ra khỏi sanh tử luân hồi. Việc nhập thất cũng thế, vấn đề thời gian không hề được đặt ra và ta hoàn toàn tự do rời bỏ căn phòng nhập thất theo ý muốn của mình với điều kiện mỗi khi rời phòng thờ Phật, ta phải lễ Phật xin phép, tự hẹn thời gian bao lâu sẽ trở vào, khi vào cũng lễ Phật thưa trình như thờ Đức Thầy nghiêm không dám sai trễ.
Nhập Thất không có nghĩa là nhất định tu học 1 mình. Thí dụ như trong Kiết hạ an cư ở thời đại Phật Thích Ca, thời kỳ tu thiền có 2 mùa là mùa đông và mùa hạ. Trên lục địa Trung Quốc, có rất nhiều người tu tập nhau lại để tu hành. Các tổ sư phái Thiên Thai đặt ra các phương thức sám hối, nghi thức và tất cả đều cùng kết hợp với 6 người, 7 người, mười mấy người để tu hành. Trong thời kỳ kiết hạ an cư, lúc Đức Phật còn tại thế, người ta cũng tiến hành tu hành trong khuôn khổ phạm vi nhất định hoặc ở dưới cây hoặc ở trong hang động, hoặc trong những căn nhà trống không của các cư sĩ nhưng tất cả đều không phải như phương thức tu hành đóng cửa như hiện nay.
VIII.Vấn đề ăn uống:
Khi nhập thất 1 mình, thì ta nên dùng những thực phẩm và nước uống mà ta đã dự trữ sẵn trước đó. Nếu có thể chỉ nên ăn ngọ ( 11 giờ sáng đến 1 giờ trưa ) mà thôi, hoặc nếu cần cũng chỉ ăn vào buổi sáng và ngọ. Nếu có người giúp đỡ, nhờ người đem thức ăn đến cho ta hằng ngày. Nếu có 5 hoặc 6 người đồng phát tâm nhập thất thời ta phải thỉnh 1 vị hộ thất, lập quy điều cho nghiêm chỉnh dán ttrước cửa; tất cả mọi cử động, ăn uống, hương hoa đăng quả đều do vị hộ thất cung cấp đầy đủ, thời để những người đồng thất yên tâm mà tu tập. Ngoài ra, nếu có thể được thì mỗi lần nhập thất ta không ăn, mà chỉ uống nước lọc suốt thời gian nhập thất ( Đây là phương pháp Tịnh Thuỷ ).
IX.Vấn đề vệ sinh:
Ta nên giải quyết tất cả mọi vấn đề cũng như tắm giặt tại nhà vệ sinh. Nên cất nhà vệ sinh kế bên thất hoặc bên trong thất để thuận tiện. Trường hợp nếu nhà vệ sinh ở cách xa thất, ta nên đi ra khỏi thất vào buổi tối-đêm để mọi người không trông thấy.
X.Kết luận:
Nếu còn hạn cuộc trong tình chấp buộc ràng, chưa biết những điều lợi hại của việc tu hành, thì đừng nên sớm khinh suất mà nhập thất. Nhập Thất là lập thế trốn khách khứa bạn bè, trốn bao nhiêu công chuyện ngoài đời, để mà yên tâm tu tập vậy.
Đã nhập thất tức là cắt đứt mọi liên lạc với xã-hội, gia-đình để chuyên tâm tu tập ngồi thiền, trì chú hay niệm Phật nhất tâm bất loạn. Nhiều người có kinh nghiệm, ngoài việc chuyên chú tu tập đó, chúng ta phải có nguyện lực vững chắc, bởi vì kiếp này, nhiều năm nọ tháng kia, chúng ta đã sống trong xã hội, nay ta tách rời nó, nhiều chướng ngại ta sẽ gặp phải, sẽ có nhiều trường hợp nó thúc bách ta phải xả thất, không thể tiếp tục, đó là những ma chướng ngại mà chúng ta cần phải vượt qua, đề phòng những trường hợp này, chúng ta phải giải quyết mọi chuyện cho xong trước khi nhập thất, để nó khỏi lôi kéo, réo gọi chúng ta.
Chúng ta nhớ rằng ở Việt Nam, nhiều khi chúng ta đi thập tự (viếng mười cảnh chùa), hoặc khi chúng ta đi viếng một ngôi chùa nào đó, chư tăng, ni hay người trong chùa cho biết vị trụ trì đã nhập thất rồi, đương nhiên là vị ấy chẳng bao giờ ra khỏi thất cho chúng ta gặp.
Thọ Bát Quán Trai đã là tích cực rồi, nhưng mà nhập thất là một phương pháp rốt ráo nhất, chư tăng, ni ngoài an cư kiết hạ ra, những vị này cũng dùng phương pháp kiết thất, để cho việc tu học của họ được trang nghiêm, thanh tịnh, chóng đạt được chứng đắc pháp môn của họ tu, cho nên hàng cư sĩ tại gia chúng ta có điều kiện nên kiết thất, tùy hoàn cảnh không nhất thiết phải 7 ngày đêm, có thể 1 ngày, 2 ngày lần lần tiến lên đến 7 ngày, công hạnh thành tựu nhanh hơn hết.
Nguyên cầu Tam Bảo gia hộ cho toàn thể chúng con. Nguyện cho chúng con sớm liễu nhập Phật Tánh và sớm nhận ra bản lai diện mục của chính mình. Nguyện cho tất cả mọi chúng sanh sớm nhập thất tu hành chứng thành đạo quả thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Nam mô Giác Đạo Khổ Hạnh Y Sư Bồ Tát Ma Ha Tát, Tác Đại Chứng Minh.
http://tuvilyso.net/diendan/forum_po...TID=9483&PN=32
Last edited by phoquang; 13-12-2025 at 01:49 AM.
DƯỢC SƯ PHÁP BẢO
I.Tổng Quan Về Kinh Dược Sư:
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bản Nguyện Công Đức Kinh, tức là Kinh nói về công đức Bản Nguyện của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
Tôn Giả Ananda chép lời Phật nói bằng chữ Phạm ( Brahma Ấn Độ )
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua Đường ( Trung Hoa ) dịch ra chữ Hán.
Bồ Tát Giới Tuệ Nhuận dịch ra chữ Việt Nam.
II.Tổng Quan Về Chú Dược Sư:
Dược Sư Quán Đảnh Chơn Ngôn trích ở bổn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện.
Kinh Dược Sư chép rằng: Đức Thích Ca Như Lai bảo với Mạn Thù Thất Lợi để nhắc tích rằng: “ Bấy giờ, Đức Thế Tôn kia vào định Tam-ma-địa tên là Dứt Trừ Tội Khổ Cho Chúng Sanh. Phật đã nhập thiền định ấy rồi, tại nơi đảnh nhục-kế phóng ra hào quang lớn, trong hào quang diễn nói ra bài Đà La Ni Dược Sư Quán Đảnh Chơn Ngôn. Trong hào quang thuyết thần chú ấy rồi, thì khắp mặt trái đất đều rung động. Đức Phật lại phóng hào quang nữa, khiến cho tất cả chúng sanh đều dứt hết các khổ “.
*Quán Đảnh: có 2 nghĩa:
1.Vì thần chú này do từ trên đảnh đầu của Phật phóng hào quang, trong hào quang nói ra.
2.Nếu người có Thân-Khẩu-Ý thanh tịnh tương đương nhau, chuyên tâm trì tụng thần chú này liền được hào quang của Phật chiếu đến như rót nước ngay vào đảnh môn của mình.
III.Dược Sư Quán Đảnh Chơn Ngôn:
*Phạn Ngữ:
Namo ( Quy y kính theo ) Bhagavai ( Thế Tôn, tôn quý nhất đời ) Bhaisajyaguru ( Dược Sư, thầy thuốc ) Vaidurya ( Ngọc lưu ly màu xanh biếc da trời ) Prabhasaya ( Quang, ánh sáng ). Tathagataya ( Như Lai ) Arhat ( Ứng ) Samyaksambuddhaya (Chánh Đẳng Giác ).
Tadyatha (Tức thuyết chú viết, liền nói thần chú rằng ): Om ( Tam thân, là ba thân của Phật và mọi Pháp, đọc là A-ôm-mờ ) Bhaisasya Bhaisasya Bhaisajya ( Chữa cho, chữa cho, chữa thuốc cho ) Sammugat ( Chữa cho hết thảy ) Svaha (Mau chóng thành công ).
*Phạn âm:
Nam-mô Phá-ga-va-tê Phai-sai-di-a Gu-ru Vai-tu-ri-da Pờ-ra-pha-ra-da-dá. Tát-tha-gát-ta-da A-ra-há-tê Sam-dắc-sam-bút-đa-dá.
Tát-dá-tha: Om Phai-sai-dí-ê Phai-sai-dí-ê Phai-sai-dí-a Sa-mút-ga-tê Xoa-ha.
*Tạng Ngữ:
OM NA-MO BA-GA-VA-TE BE-KAN-DE GU-RU VAI-TU-RY-A PRA-BA RA-CHA-YA. TA-THA-GA-TA-YA A-HA-TE SAM-YAK-SAM-BU-DA-YA.
TA-YA-THA: OM BE-KAN-DE BE-KAN-DE MA-HA BE-KAN-DE RA-CHA SA-MU-GAT-TE SOA-HA.
*Hán Việt:
Nam-mô Bạc-già-phạt-đế, bệ-sát-xã, lũ-lô-thích-lưu-ly, bác-lặc-bà, hắc-ra-xà-giả. Đát-tha yết-đa-gia, a-ra-hắc-đế. Tam-miệu tam-bột-đà-gia, đát-điệt-tha.
Án bệ-sát-thệ, bệ-sát-thệ, bệ-sát-xã, tam-một yết-đế xoá-ha.
IV.Tổng Quan Về Các Vị Đại Tướng Dược Xoa:
Dược-Xoa: Nguyên tiếng Phạm kà Yaksa: thần rất mạnh, đại lực quỷ thần, có hạng đi trên trời hay đi trên không, có hạng ở dưới đất, có hạng hung ác làm hại người, có hạng nhân từ cứu độ và ủng hộ Phật, Pháp, Chư Phật và Bồ Tát thường hiện thân làm Dược-Xoa để độ sinh, 12 vị Đại Tướng Dược-Xoa đây tức là 12 đại nguyện của Phật Dược Sư ứng hiện ra.
Thập nhị thần tướng ( Thập nhị Thần-Minh-Vương ):
1.Cung-tỳ-La đại tướng: Kumb-Hùa, Di Lặc Bồ Tát, giờ Tý.
2.Phạt-chiết-La đại tướng: Vajra, Thế Chí Bồ Tát, giờ Sửu
3.Mê-súy-La đại tướng: Mihira, Di Đà Như Lai, giờ Dần.
4.An-Ðể-La đại tướng: Andira, Quán Âm, giờ Mão.
5.Át Nể La đại tướng: Anila, Như Ý Luân Quán Âm, giờ Thìn.
6.San để La đại tướng: Sandila, Hư Không Tạng Bồ Tát, giờ Tỵ.
7.Nhơn-Ðạt-La đại tướng: Indra, Địa Tạng Bồ Tát, giờ Ngọ.
8.Ba-di-La đại tướng: Pajra, Văn Thù Bồ Tát, giờ Mùi.
9.Ma-hổ-La đại tướng: Mahoraga, Đại Uy Đức Minh Vương, giờ Thân.
10.Chơn-đạt-La đại tướng: Kinnara, Phổ Hiền Bồ Tát, giờ Dậu.
11.Chiêu-đỗ-La đại tướng: Catura, Đại Nhật Như Lai, giờ Tuất.
12.Tỳ-yết-La đại tướng: Vicarala, Thích Ca Như Lai, giờ Hợi.
Ứng với 12 đại nguyện, bảo hộ đêm ngày 12 giờ. Mỗi Đại Tướng có 3 phụ tướng: mạnh, trọng, quý, thành 36 thứ chim lại dối 7 giác, mỗi giác đủ 1000 như, thành 7000 quyến thuộc. 12 Thần-tướng có 7000; thành 84.000 thần Hộ Pháp, chuyển 84.000 phiền-não của hết thảy chúng sanh, thành 84.000 Bồ-Đề ( Trí-Tuệ ). Đó là những pháp đại thiện xảo phương tiện của Ngài Dược Sư, Y Vưong, đem thuốc chữa bệnh Sắc-Thân và Pháp-Thân cho hết thảy các loài hữu tình.
V.Các Điểm Trọng Yếu Trong Kinh Dược Sư:
1.Phương Pháp Chữa Bệnh:
Nếu có người nào mắc bệnh nan y, thì hãy niệm trì Dược Sư thần chú trăm lẻ tám biến, vào trong nước sạch, không có vi trùng, cho bệnh nhân dùng, liền được khoẻ mạnh, lại thêm sống lâu, sở nguyện tuỳ tâm, cát tường như ý. Cõi Phật Lưu Ly, an vui hạnh phúc, đến khi nghiệp hết, liền được sinh về, Bồ-tát đề huề, phóng quang tiếp dẫn, không còn thối chuyển trong cõi luân hồi, dần dần chứng đắc vô thượng chánh giác.
2.Phương Pháp Diên Thọ:
Bồ-tát Cứu Thoát chắp tay bạch Phật: “Bạch đức Thế tôn, trong thời tượng pháp, có nhiều chúng sinh, khốn khổ hoạn nạn, bệnh tật triền miên, đi đứng không yên, thân thể yếu ớt, mắt mờ tai điếc, uống ăn không được, môi cổ khô ran, tướng chết hiện ra, thân quyến mẹ cha, buồn thương lệ đổ. Thân tuy nằm liệt, thức thần nhớ hết việc làm thiện ác; những gì đã tạo trong thời gian qua, quyết định tội phước, khổ đau hạnh phúc, thành bại trong đời. Lúc đó thân nhân nên quy y Phật, tụng kinh Dược Sư, đốt đèn bảy từng, treo phan tục mạng, suốt bảy ngày đêm, cho đến bảy tuần. Nhờ công đức này, thần thức người bệnh như tỉnh chiêm bao, hiểu rõ nghiệp báo, nhân quả thiện ác. Từ đó về sau, dẫu cho có được tiền tài danh vọng, cũng không dám tạo những nghiệp ác nữa.”
Tôn giả A-nan hỏi ngài Cứu Thoát: “Phải làm thế nào để được sống lâu?”
Bồ-tát Cứu Thoát liền đáp lời rằng: “Những ai đau bệnh, muốn được bình an thì những người thân giữ gìn tám giới, trong suốt một tuần, sắm sanh vật dụng, cúng dường chư tăng, làm việc từ thiện, ngày đêm sáu thời, đốt bảy ngọn đèn, dâng lên cúng dường bảy đức Dược Sư, lễ bái thọ trì danh hiệu của Phật, phóng sanh thả vật, bảo vệ môi trường, thì những tai ương, thảy đều dứt sạch, những nạn chết ngang không thể nhiễu hại.”
3.Mưa Hoà Gió Thuận:
Lại nữa A-nan, những bậc vua chúa làm lễ quán đảnh, gặp lúc có nạn, nước khác xâm lăng, hoặc bị nội loạn, nhật thực nguyệt thực, mưa gió trái mùa, hạn hán không mưa, hoặc lũ ngập tràn, nạn dịch lan truyền, trăm điều khổ sở. Lúc ấy quốc vương phải khởi từ bi, thương xót mọi loài, ân xá người tội, trợ giúp dân lành, thành khẩn ân cần, lập đàn cúng Phật Dược Sư Lưu Ly; nhờ sức gia trì, nước an dân mạnh, mưa hoà gió thuận, nông nghiệp được mùa, tất cả tai ương thảy đều biến mất. Nhờ vậy, quốc vương sống lâu trăm tuổi, tại vị lâu dài, nhân dân vui vẻ trong cảnh thái bình.
VI.Thích Nghĩa Những Điểm Dễ Nhầm Lẫn Trong Kinh Dược Sư:
*Đức Thích Ca Như Lai dạy: " Lại nữa Văn Thù, nếu có tỳ-kheo, hoặc tỳ-kheo-ni, thiện nam tín nữ, giữ gìn giới hạnh, làm nhân vãng sanh thế giới an lành A-di-đà Phật, mà chưa nhất tâm, đến lúc mạng chung nên niệm danh hiệu đức Phật Dược Sư, thì tám Bồ-tát: Văn Thù Sư Lợi, đức Quán Thế Âm, đức Đại Thế Chí, đức Vô Tận Ý, đức Bảo Đàn Hoa, Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Dược Vương, và đức Dược Thượng, đến bên tiếp dẫn, đưa đường chỉ lối, khiến cho hoá sanh, bằng hoa sen báu, về cảnh an lành, Tây Phương Cực Lạc ".
Đoạn văn này dễ làm cho người đọc ngờ rằng Văn thù sư Lợi sẽ đến chỉ đường, với Mạn Thù Thất Lợi Đồng-tử đang ngồi nghe Phật nói đây, là 2 người khác nhau, vì rằng nếu là một thì sao Phật lại nói thành 2 tên, và làm sao không thấy chỗ nào Phật nói rõ là Mạn Thù Thất Lợi Đồng-tử sẽ đến chỉ đường. Thế có phải là văn tối nghĩa và hụt lý không? Ta nên biết rằng không khi nào các vị Đại-đức dịch kinh lại làm mờ tối như thế. Theo chỗ nghiên cứu tinh tường của các nhà bác học thì nguyên nhân như sau này: mỗi một bộ Kinh Phật nói thường bao hàm nhiều Pháp-môn. Các nhà tu chuyên môn lựa chọn lấy những chỗ cốt yếu biên riêng vào một tập để dùng, bỏ bớt những chỗ không cần và những chỗ trùng điệp. Bản Kinh Dược Sư do Ngài Huyền Trang dịch ra đây chính là một tập biên riêng, trích ở bộ Kinh Đại Quán Đỉnh là kinh nói nhiều về pháp-môn bí mật thần chú và thần thông. Bản Dược Sư chỉ trích những chỗ nói chuyện về một môn " Nhân Sinh Tịnh Độ ". Còn những chỗ nói về danh hiệu 8 vị Bồ Tát dùng thần thông đi trên không đến chỉ đường và những chỗ Đức Phật và các Hộ Pháp nói thần chú cứu bệnh đều đã bỏ bớt đi; về sau có người nào đó lại lấy ở bộ Kinh Quán Đỉnh ra mà biên thêm vào làm cho văn dịch mất liên lạc, thành ra tối nghĩa; thự ra Mạn Thù Thất Lợi Đồng-tử và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát CHỈ LÀ MỘT NGƯỜI, nguyên tiếng Phạm là Manjusri Bodhisattwya. Bởi vì 2 người dịch cho nên 1 danh hiệu mà dịch ra 2 lối khác nhau; vả chăng chữ Mạn và chữ Văn người Tàu đều đọc là Man, còn chữ Thất và chữ Sư thì đọc là Sất và Sứ thì cũng hơi giống nhau; đến như chữ Bồ Tát thì là dịch âm và rút ngắn, đáng lẽ đủ ra thì là Bồ-đề-tát-đoả ( Bodhisattwya ); còn chữ Đồng-tử thì là dịch nghĩa ở chữ Bồ Tát ra, còn nhiều nghĩa nữa như là: Đồng Chân, Đại Sĩ, Khai Sĩ, Giác Hữu Tình. Còn như có chỗ Phật Ngài Mạn Thù đến dẫn đường cho chúng sanh hay không thì xem ở bộ Kinh Quán Đỉnh mới rõ. Nay lấy ý mà xét bản kinh Dược Sư này chính Ngài Mạn Thù thỉnh Phật nói cho nghe danh hiệu của Chư Phật và cũng chính Ngài lại phát nguyện đem danh hiệu ấy đi giác ngộ cho chúng sanh nghe, thế thì lẽ tất nhiên là Ngài đến dẫn đường cho chúng sanh là phải.
*Tôn giả A-nan hỏi ngài Cứu Thoát: “Phải làm thế nào để được sống lâu?”
Bồ-tát Cứu Thoát liền đáp lời rằng: “Những ai đau bệnh, muốn được bình an thì những người thân giữ gìn tám giới, trong suốt một tuần, sắm sanh vật dụng, cúng dường chư tăng, làm việc từ thiện, ngày đêm sáu thời, đốt bảy ngọn đèn, dâng lên cúng dường bảy đức Dược Sư, lễ bái thọ trì danh hiệu của Phật, phóng sanh thả vật, bảo vệ môi trường, thì những tai ương, thảy đều dứt sạch, những nạn chết ngang không thể nhiễu hại.”
Lại ở chỗ này, Ngài Cứu Thoát Bồ Tát nói về phép cúng giàng bảo phải tạo 7 hình tượng Phật, cũng khó hiểu lắm: Có 1 vị Phật Dược Sư làm sao phải tạo những 7 hình tượng Phật ? chỗ này tại người chọn lọc bỏ bớt đi nhiều những đoạn văn tương tự và trùng điệp thành ra hụt nghĩa. Nguyên Ngài Mạn Thù Đồng-tử thỉnh Thế Tôn nói cho nghe nhiều danh hiệu của Chư Phật, chứ không phải chỉ nói 1 Phật; chính ở Quán Đỉnh Kinh Đức Thế Tôn nói cho nghe những 7 vị Phật ở phương Đông, mà Đức Dược Sư là vị thứ 7; còn 6 vị nữa kinh này đều lược bỏ, vì theo phép tu Tịnh-Độ chỉ niệm 1 danh hiệu Phật cũng đủ hết thảy Chư Phật thì mà chỗ cúng dàng thì lại để nguyên cả 7 vị Phật, đó là một điều sơ ý làm cho khó hiểu. Nay xin kể rõ cả danh hiệu của 6 vị Phật kia:
1.Thiện Danh Xưng Cát Tường Vương Như Lai, ở thế giới Quang Thắng.
2. Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai, ở thế giới Diệu Bảo.
3.Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai, ở thế giới Viên Mãn Hương Tích.
4.Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai, ở thế giới Vô Ưu.
5.Pháp Hải Lôi Âm Như Lai, ở thế giới Pháp Tràng.
6.Pháp Hải Thắng Tuệ Du Hí Thần Thông Như Lai, ở thế giới Thiện Trụ Bảo Hải.
Trong 6 vị thì vị thứ 1 và thứ 2, mỗi vị đều phát 8 điều nguyện lớn; 4 vị còn lại mỗi vị đều phát có 4 nguyện lớn. Mỗi vị lần lượt ở cách xa thế giới này nhiều Phật độ, lần lượt mỗi vị ở một thế giới xa hơn. Vị thứ 1 ở xa nhiều bằng 4 số cát sông Hằng, vị thứ 2 ở xa bằng 5; vị thứ 3 bằng 6; vị thứ 4 bằng 7; vị thứ 5 bằng 8; vị thứ 6 bằng 9; vị thứ 7 xa bằng 10, tức là Đức Dược Sư Ngài đã phát ra 2 nguyện lớn. Ấy toàn bộ Kinh Dược Sư phải có đủ 7 vị Phật như thế, gọi là Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bản Nguyện Công Đức. Bản Kinh Này chỉ có 1 Phật, nên bỏ chữ Thất Phật thay chữ Như Lai vào vậy.
http://tuvilyso.net/diendan/forum_po...ID=10332&PN=26
Last edited by phoquang; 13-12-2025 at 02:00 AM.
PHỔ ĐÀ SƠN
( Potalaka )
Phổ-Đà-Lạc đạo ngự non châu.
Cửu khúc trùng trùng thủy vạn tận.
Cúc nở nhị bông ve véo-vắt.
Đờn ngâm suối đá.
Trên Quán-Âm Phật ngự long cung giá.
Dưới Phổ-Đà cảnh hảo vô-biên.
Trên thông reo gió thổi tự nhiên.
Dưới rồng chầu phụng múa.
Mây áng hồng lồ lộ.
Mấy thứ lá nhụy nở hây hây.
Đào đơm bông cúc nở thơm cây.
Nghe vắng vẻ tiếng người gìn giữ.
Trên Đức Phật Từ-Bi quảng đại.
Dưới rồng chầu phụng múa tiêu thiều.
Cảnh Thiên Thai vàng chuộng báu yêu.
Cõi Tây-Trước vang-ly chầu-chực.
Nam mô lấy san-hô làm cột.
Lấy hổ-phách làm sườn.
Lược đồi-mồi làm ngói che sương.
Bông sen nở làm thuyền Bát-Nhã.
Bình tịnh thủy rưới qua Tây-Hớn.
Nước cam lồ dành để cứu dân.
Máy thiên-địa có giao lân.
Trời có sanh có dưỡng ( tiếng chuông ).
Chuông Nam-tào khởi động thành tây.
Trống Bắc-Đẩu tiền đồ phóng xả.
Điểm thất tin như càng long mã.
Hổn-độn sơ khai Đẩu-Xuất tam cung.
Lấy bát-quái lập làm tứ-trụ.
Ấn đà ra đế dạ bà ha.
Thỉnh Quán-Âm Phật ngự thông tra.
Án hồng rị hồng rị thông hồng tá ha.
Nam mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Uy Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam mô Phổ Đà Sơn Lưu Ly Thế Gíới, Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam mô Nhất Niệm Tâm Vô Quái Ngại, Quán Âm Như Lai, Thường Cư Nam Hải Nguyện.
PHỤ CHÚ:
* Phổ Đà Sơn, Phổ Đà Lạc Già, Phổ Đà Lạc Ca( tiếng Phạn Potalaka ), tức núi Phổ Đà, dịch là Quang-Minh-Sơn tên một tòa núi hình bát giác về hải đảo phía nam xứ Ấn Độ, Ngài Quán Thế Âm trụ tích nơi đây. Nay ngon núi này nằm trong biển Đông thuộc huyện Định Hải, tỉnh Chiết Giang Trung Quốc; còn gọi là núi Bổn Đà, núi Mai Sầm tương truyền đó là lấy theo Đạo sĩ Mai Phúc.
*Theo Phổ Đà Sơn chí,q.1: " Núi có tên là Bổ Đà. Kinh Hoa Nghiêm lại gọi là Bổ-đát-lạc-già-sơn, đó là gọi theo tiếng Phạn. Tiếng Trung Hoa gọi là Tiểu Bạch Hoa. Vì trên
núi ấy có nở một loài hoa Tiểu Bạch. Trong vùng này có một cung điện được kiến tạo trong hang đá gọi là Từ Ái Cung đó là chỗ cung điện trú hiện của Đức Quán Thế Âm, bên trong giống như Thiên cung của Diệu Trang Nghiêm vậy, nó được làm bằng thất bảo( vàng, bạc, lưu ly, pha lê, san hô, xà cừ, hổ phách ), nhưng không dẽ ai đến được nơi này. Đây là nơi Thiện Tài Đồng Tử nghe Đức Quán Âm thuyết pháp lần thứ 28. Cũng gọi là rừng Chiên Đàn trúc tía ở phía Tây biển Đông nay ở phía đông huyện Định Hải và cách huyện này hơn 100 dặm, sừng sững giữ biển ".
*Theo Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni cũng chính nơi đây, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên bảo tòa sư tử, ngự nơi Đạo tràng Bảo-Trang-Nghiêm,trong cung điện của Đức Quán Thế Âm để diễn nói pháp môn Đại Tổng Trì Đà La Ni và Đức Quán Thế Âm Bồ Tát đã tuyên thuyết Thần Chú Đại Bi trước mặt Đức Bổn Sư và toàn thể Đại Chúng trong Pháp Hội tại nơi đây vậy.
*Các nước thuộc Nam Hải: Trung Quốc gồm các tỉnh Phúc Kiến, tỉnh Quảng Đông thì biển Nam Hải thuộc về phía Nam của 2 tỉnh ở cận biển đó; Đài Loan (Eo biển Đài Loan ) thì biển Nam Hải thuộc về Tây Nam của Đài Loan; Còn Việt Nam thì biển Nam Hải thuộc về phía Đông của Việt Nam; Còn Bán Đảo Mã Lai ( phía Nam của biển Nam Hải ).
*Trên núi Phổ Đà có ngôi chùa lớn, Tăng đồ tranh nhau dâng lễ. Núi này sánh ngang hàng với núi Ngũ Đài ( Văn Thù ), núi Nga Mi( Phổ Hiền ), núi Cửu Hoa ( Địa Tạng ) là 4 ngọn Đại Danh Sơn ( Tứ Đại Danh Sơn ) nổi tiếng của Phật Giáo Trung Quốc cũng là nơi Thánh Địa của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ( Về sau này, có người chủ trương đưa núi Phụng Sơn là nơi Thánh Địa của Đức Di Lặc vậy ). Người ta thường nói đất nước Trung Quốc là xứ sở của các vị Bồ Tát .
BÀI TÁN ĐỨC QUÁN ÂM
Quán Âm Bồ Tát diệu khó bàn.
Thanh tịnh trang nghiêm ức kiếp tu.
Sen hồng tợ biển an chân tựa.
Đôi mày vòng nguyệt biển trăng thu.
Bình nước cam lồ thường rưới khắp.
Cành dương tay rảy chẳng kể năm.
Ngàn xứ cầu ngàn xứ ứng.
Biển khổ thường du độ chúng sanh.
Nam mô Hiệu Viên Thông, Danh Tự Tại, Quán Âm Như Lai, Quảng Phát Hoằng Thệ Nguyện.
================
PHỔ ĐÀ SƠN
Núi Phổ Đà nguyên tên là Tiểu Bạch Hoa, tiếng Phạn gọi là Bố Đà Lạc Già, lại có tên là Mai Sầm Sơn (tương truyền kỷ niệm Mai Phước triều Hán mà thành tên), vì vị trí ở trong biển Đông Nam huyện Định Hải tỉnh Chiết Giang, cách núi Chu Sơn sáu dặm, truyền Ký gọi là Nam Hải. Ngọn núi cơi bên ngọn nước, quanh co chập chùng dài mười hai dặm, rộng sáu dặm rưỡi, chu vi hơn bốn mươi dặm, phía đông dẫn đến Nhật Bản, phía bắc tiếp với Đăng Lai, phía nam trông về Mân Việt, phía tây thông với Ngô Hội, cách mực nước biển hơn một ngàn thước, khí hậu ôn hòa, phong cảnh u nhã đặc biệt, là Thánh địa Phật Giáo Trưng Quốc. Ngọn núi nầy cùng với Nga Mi Sơn của Tứ Xuyên, Ngũ Đài Sơn của Sơn Tây và Cửu Hoa Sơn của An Huy hợp lại xưng là Tứ Đại Danh Sơn.
Núi Phổ Đà vốn có danh xưng là “Hải Thiên Phật Quốc” là thắng địa đạo tràng của đức Quán Âm Đại Sĩ, căn cứ theo Phổ Đà Bi Ký có ghi rằng : “Bên trong cõi Thần Châu có bai Đại Tiên Sơn là nước Phật Chấn Đàn, thứ nhất là Nga Mi, thứ hai là Ngũ Đài, thứ ba là Lạc Giá”. Dân gian Trung Quốc vốn phụng thờ “Quán Âm Thần Phật”, do vì một hạng thiện nam tín nữ thâm tín đối với việc Quán Âm Đại Sĩ hiển hiện cảnh giới Chân Thánh, nhơn đây mà tham vọng của Phổ Đà ở đời sau ở trên cả Nga Mi, Ngũ Đài và Cửu Hoa. Nhưng nếu lấy cảnh sắc mà nói thì nó chẳng bì kịp cái đẹp của Nga Mi, cái hùng của Ngũ Đài, cái lạ của Cửu Hoa !
Phổ Đà mở núi xây chùa vào những năm đầu đời Ngũ Đại xa xưa, cứ theo “Phổ Đà Sơn Chí” thì : “Vào thời Ngũ Đại Châu Lưu, có Đại sư Tuệ Ngạc phụng thỉnh tượng đồng đức Quán Âm từ Ngũ Đài về Đông Kinh (Nhật Bản), đến đây thuyền mắc cạn chẳng di động, ngài mới bắt đầu đi khai sơn”. Vị Tăng người Nhật bản là Tuệ Ngạc Đại sư xây dựng ngôi “Bất Khẳng Khứ Quán Âm Đường” tại đây, nền pháp bắt đầu mở ra.
Năm đầu niên hiệu Thiệu Hưng đời Tống Cao Tông, vị Tăng tên là Chân Hiết xây dựng chỗ bờ biển Cô Tuyệt, đổi luật là thiền, ngư dân làm nghề ở các vùng núi biển có hơn bảy trăm hộ nghe lời giáo âm đều bỏ đi, từ đây Phổ Đà Sơn trở thành vùng đất tịnh (Tịnh Độ) của nhân gian, mặc cho đạo tràng danh sơn nào u viễn thanh tịnh đều cũng chẳng bì kịp Phổ Đà. Trên núi chẳng nuôi dưỡng heo, gà, vịt, v.. v… để ăn thịt và cấm thịt cá lên bờ, động cơ sát không còn, tanh tao trừ khử vĩnh viễn, không nấu rượu, không giết mổ, ăn mặn, uống rượu chẳng còn nghe, sai trái cõi trần đều dứt tuyệt, nuôi trâu là để cày ruộng làm ra lúa gạo, nó già yếu thì nuôi dưỡng trọn đời, đến khi chết thì chôn cất.
Núi Phổ Đà lớn nhỏ hơn ba trăm ngôi chùa, mười hai tháp Phật. Trong số ấy thì chùa Phổ Tế, chùa Pháp Vũ, Tuệ Tế Thiền Viền là trứ danh hơn cả. Những am viện lợp tranh kết cỏ khác thì phân biệt do chùa Phổ Tế núi trước, chùa Pháp Vũ núi sau, Tuệ Tế Thiền Viện núi Phật Đỉnh quản hạt, đó đây liền nhau mạch lạc, trông nom tương trợ, hợp lực trong phạm vi phòng bị, trật tự rành mạch. Du khách quyên góp, hiến dâng được thống nhất phân phối, tuyệt không có ý tranh nhau.
Mỗi năm thuyền khách hành hương đông đúc vào tháng Hai nông lịch (âm lịch), khí trời lúc ấy tạnh ráo ôn hòa, du khách kéo đến như vậy, thật là nước triều dâng tràn núi, các chùa đều phải gặp nạn đầy khách. Người đi Nam hải dâng hương, hơn một nửa là từ Thượng Hải hoặc Ninh Ba thuyền đi qua Thẩm Gia Môn, từ đây đi về phái Đông đến thẳng Phổ Đà, ở trên thuyền đã có thể trông thấy từ xa núi xanh chập chùng trùng điệp, hơi biếc vây quanh như giải lụa xanh điểm hồng, núi báu lập rừng chùa viện. Đến được chân núi liền theo bến đò Đoản Cô lên đất liền.
Bến Đoản Cô nguyên là bến đò thiên nhiên. Về cái tên Đoản Cô, thì lại có một đoạn lịch sử truyền thuyết : Thuở xưa có một thiếu nữ tên là Đoản Cô, cùng gia nhân đến Phổ Đà chầu hầu núi, ở trong thuyền bỗng nhiên nàng đến kỳ kinh nguyệt, nhân vì tấm thân chẳng thanh khiết, sợ làm nhục núi linh, nên chẳng dám theo gia nhân lên bờ. Nàng một mình ngồi trên thuyền lặng lẽ cầu nguyện, chưa bao lâu nước triều dâng tràn ngập đường đi, kinh hoàng vạn trạng, Quán Âm Đại Sĩ hiển thánh đích thân mang đồ ăn cho nàng. Về sau, cuối cùng nàng bay lên cõi Phật, hiện tại am Từ Vân ở bến đò biển cũng có pho tượng đắp của Đoản Cô.
Bến đò thiên nhiên nào gặp nước triều dâng lên thì người đi nhất định phải lội nước nên cảm thấy chẳng tiện lắm. Đến năm Quang Tự thứ ba mươi mốt nhà Thanh, hai vị Tăng là Liễu Dư và Liên Thuyền vân du hóa độ, trở về lấy đá lớn xây dựng cao rộng ra thêm. Năm Dân Quốc thứ tám, Trần Tích Chu ở Vô Tích cho xây dựng một tòa Bài Phường rất là tráng lệ tại bến đò, có nhiều danh nhân soạn đối đề chữ. Trong số ấy có Nam Hải thắng cảnh của Vương Nhân Văn ở Trân Nam. “Đồng Đăng Bỉ Ngạn” của “Từ Thế Xương ở Đông Hải, Bào Phiệt Mê Tân” của Phùng Quốc Chương ở Hà Nam, “Kim Thằng Giác Lộ” của Lê Nguyên Hồng ở Hoàng Pha ; cho đến câu liễng đối hay của Phùng Thứ.
“Hữu cảm tức thông, thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt.
Vô cơ bất bỉ, vạn lý vô vân vạn lý thiên”.
(Có cảm liền thông, ngàn sông có nước, ngàn sông trăng.
Không cơ chẳng thiết, muôn dặm không mây, muôn dặm trời).
Sau khi lên đất liền thì chỉ có con đường lát đá rộng rãi hơn hai thước, đi thông suốt quanh chùa viện toàn núi, hai bên đường cây cỏ thưa thớt, đường quanh co thanh u, người đi chầu hầu núi chỉ có đi như bò lên từng bước một !
Chùa Phổ Tế : Chùa ở tại chân núi Linh Thứu đầu phía Nam của đỉnh Bạch Hoa, là ngôi “Chủ sát” phụng thờ Quán Âm Đại Sĩ của toàn núi, là nơi xây dụng đầu tiên của Tuệ Ngạc đại sư lúc khai sơn, nguyên gọi là “Bất Khẳng Khứ Quán Âm Đường” ; đến năm Nguyên Phong thứ ba đời Tống Thần Tông, vua ban tên là “Bảo Đà Quan Âm Viện”. Chánh điện của các chùa ở Phổ Đà đều thờ Quán Âm Đại Sĩ. Đại điện nhất luật đều gọi là Viên Thông Bảo Điện, các triều Minh, Thanh luôn có tu sửa, luôn có mở rộng thêm, rường chạm cột vẽ, khí tượng mới lạ.
Viện trước có ba đạo sơn môn, khoảng giữa dự bị sẵn một tòa mà chẳng sử dụng, quanh năm đóng cửa, khách hành hương đều theo hai bên cửa đều theo hai bên cửa lớn mà ra vào. Bên trong có mười ngôi điện, trong số ấy, điện Viên Thông lớn nhất, có thể dung chứa năm sáu ngàn người đồng lúc dâng hương. Văn Xương Các cao quá, lầu bốn tầng kiểu Tây Dương, rộng chín lần chín tám mươi mốt gian, vốn được gọi là “Tông Khản Thần Vận Điện”, ở trung đường (nhà giữa) có câu đối dài do Cổ Đại Dung ở Giang Tây soạn và viết chữ :
*.- Hàng hải triều Phổ Đà, biến thị trai cúng thiên tăng, mông lão Tỳ kheo, thí ngã cổ đồng Thánh Tượng, tưởng thị ứng chơn A La Hán.
*.- Thê sơn lễ Đại Sĩ, hỉ du trì lưỡng danh sát, xu phạm Âm động , khan tha diệu tướng phân bình, lộ xuất phu tọa tử kim thân.
Tạm dịch là :
-. Hàng hải chầu Phổ Đà, thiết cơm chay cúng ngàn Tăng, Tỳ kheo già trẻ, cho ta tượng thánh đồng xưa, tưởng là ứng chơn A La Hán.
-. Lên núi lễ Đại Sĩ, mừng dong chơi hai danh sát, đến động Phạm Âm, xem phân thân diệu tướng ngài, lộ thân ngồi kiết già vàng tía. (Tuệ Khai dịch).
Trong viện chẳng những chỉ có cái nồi lớn nấu chay cúng dường một ngàn vị tăng, trước điện còn có cái chuông đồng nặng hơn bảy ngàn cân, tiếng truyền xa trăm dặm, được đúc vào năm Gia Khánh thứ mười ba đời Thanh, đầu đỉnh chuông chỉ buộc bằng dây cò, tương truyền là thần tích.
Trước chùa có một ngôi đền, xưa thuộc Yên Hà Quán nay đổi là Tứ Giám Từ, cạnh đền có thánh tích “Hải Ấn Trì” trứ danh về phía Đông không xa, đứng sừng sững một tòa tháp đá Thái Hồ (tục gọi là tháp Thái tử), bên ngoài có tường vây, bên trong có chánh đìện gồm năn tầng, cao đến chín trượng sáu thước, thế tháp cao ngất vướn vào mây xanh.
Chùa Pháp Vũ : Chùa ở trên ngọn núi Quang Hi, bên trái đỉnh Bạch Hoa, cách Am Duyệt Lĩnh gần hơn, men theo đường đều xây đá xanh theo thế núi khúc chiết quanh co, hai bên đường cổ thụ ngất trời, um tùm xanh biết, bóng rợp cả vùng, tuy trời nóng nực mà người vẫn cảm thấy mát mẽ !.
Ngôi chùa ấy sáng lập vào năm Vạn Lịch thứ tám đời Minh, có vị tăng Ma Thành là Đại Trí từ Tây Xuyên đến đây kết lều tu hành, mỗi ngày cầu đảo ở Thiên Bộ Sa, nước triều biển lên vừa một đốt gậy trúc, liền gọi tên nơi ấy là “Hải Triều Am”. Về sau định Hải quận thủ Ngô An Quốc đề là “Hải Triều Tự”. Ngôi đền trải qua bao lần hưng phế, đến năm Khang Hy thứ hai mươi ba đời Thanh, trụ trì là ngài Minh Ích Thiền Sư, một mình đi đến Phúc Châu, trải qua thời gian ba năm quyên mộ được hơn một ngàn súc gỗ sam (cây thông) mà xây dựng mở rộng hai ngôi điện Viên Thông và Đại Hùng để phụng thờ Đức Quán Âm và Chư Phật, đổi danh xưng là Pháp Vũ Tự ; điện đường lầu các so cùng với chùa Phổ Tế đẹp ngang nhau.
Trước chùa có ao sen Thủy tinh ngày mùa Hạ hoa nở rộ, trời xanh biên biếc, hương thơm ngào ngạt bốn bề. Bên trong sơn môn là điện Thiên Vương với biển ngạch “Từ Trúc Thanh Phong” treo vắt ngang. Tiếp theo là Viên Thông Bảo Điện, hòa kính trang nghiêm. Hai bên lan can gấp khúc chạm nổi, gác vẽ mây bay, nóc điện khắc chín con rồng vàng, dáng chập chờn như muốn bay lên, tục gọi là điện Cửu Long. Viện sao có điện Ngọc Phật, phụng thờ một pho tượng Phật bằng ngọc cao một thước, màu trắng thanh khiết thật đáng yêu. Ngôi điện sau cùng cao đến sáu trượng với pho tượng đắp của Đại Sĩ cao đến một tượng tám thước, theo truyền thuyết là chỗ Đức Quán Âm hiển linh. Trong điện có một liên đối :
*.- Cẩm bình lâm hải Lãng
*.- Pháp Vũ phi thiên hoa”.
Tạm dịch là :
-. Chẳng bình phong gấm ngăn sóng biển.
-. Mưa pháp bay hoa trời
của Khang Hữu Vi soạn và viết chữ, có thể gọi là vừa hợp tình hợp cảnh.
Tuệ Tế thiền viện : Viện ở phía Thây Bắc đỉnh Bạch Hoa, tục gọi là Phật Đỉnh Sơn. Từ chân núi đến đỉnh núi ước chừng hơn hai ngàn cấp, hai bên đường bậc đá có làm lan can để vịn, vì đường gấp khúc rất nhiều, có lúc vách đứng cheo leo, có lúc hang tối suối sâu, núi cao chập chùng, gập ghềnh quanh co ! Được cái là một khi lên đến đỉnh núi thì lại bằng phẳng như thường, ngoái trông lại những ngọn núi thì y như những bức hình phong la liệt, trông ra xa biển cả thì mênh mông không bờ bến, nước xanh liền trời, bóng buồm lấm chấm, nổi chìm ở trong muôn ngàn sóng bạc.
Con đường bậc đá nhỏ ấy thường là chỗ vách sườn núi đứng cheo leo, phần nhiều có chữ lớn khắc vào vách, như ở chân núi có “Từ Hàng Phổ Độ”, lưng núi có “Hải Thiên Phật Quốc”, đỉnh núi có “Thiên Đăng Cương”, Chư Tăng trong các chùa, mỗi đêm đều có thắp đèn để làm mục tiêu cho thuyền bè đi biển được biết, đây là tháp đèn (hải đăng) thời cổ Trung Quốc.
Tuệ Tế Thiền Viện nằm sâu trong cốc, bốn bề núi lạ bao quanh, trúc tre che kín mít, sơn môn viết chữ lớn “Phật Đỉnh Danh Sơn”, quy mô to rộng, cấu trúc tân kỳ cổ nhã, hành lang vây quanh, lầu gác xen lẫn, cao tiếp tầng mây, cùng với hai chùa Phổ Tế và Pháp Vũ tạo thành thế cục đứng chân vạc.
Bên trong chùa có Tàng kinh các và Duyệt Kinh Lâu. Toàn núi hiện giữ năm bộ Khâm Tứ Long Tạng được phân đặt như sau : Chùa trước hai bộ, Nam cất một bộ, Bắc cất một bộ, núi Phật đỉnh một bộ, gác ấy thiết bị hoàn thiện, pháp quy nghiêm mật, chuyên cung ứng cho người yêu thích Phật học tiến tu, tất cả việc ăn ở đều do Duyệt Tàng Lâu cung cấp, tức là Tăng chúng của chùa cũng chẳng được tự tiện vào. Nhân vì hoàn cảnh u nhã nên đa số pháp sư trong nước đi nghiên cứu đọc tụng Phật điển, mỗi lần đến đây trụ lại vài năm.
Thiện Bộ Kim Sa : Đây là thắng cảnh đặc thù của Linh Sơn, từ chùa Pháp Vũ về phía Đông có biết bao ngọn núi báu dài hơn ba dặm, men theo biển toàn là “Thiên Bộ Kim sa”, cát mịn đẹp, là nơi Phổ Đà ngắm trông cảnh biển. Gió lớn kích động, sóng bạc xốc lên trời, từng đợt, từng đợt nối gót nhau, đợt trước ngã đợt sau tiếp tục, thế như vạn con ngựa lướt nhanh, sấm ầm ầm, tuyết vọt trào, inh tai mờ mắt, rồi bỗng nhiên mà núi xanh trăm thước, đứng thẳng trong biển rồi bỗng nhiên mà sen trắng từng đóa, từng đóa vọt lên không, rồi đổ xuống, phản phất ảo ảnh lầu các của sò thần biến hóa.
Tam Đại Thiên Môn : Đó tức là Nam Thiên, Tây Thiên, Đông Thiên, Nam Thiên môn ở tại Nam Sơn, có cây cầu nhỏ có thể thông qua , bên trong có Phạm Vũ (chùa), vào cửa có tảng đá lớn ngũ sắc, bên trên để bốn chữ “Sơn Hải Đại Quan”. Tây Thiên Môn ở tại phía Tây hang Kim Cương, hai tảng đá đứng đối nhau như cái cửa, búa thần thợ quỷ phải ganh tài, bên trên viết “Tây Thiên Pháp Giới”. Đông Thiên Môn có hai chỗ, một là ở tại bên phải ngọn núi Quang Hi, một nửa là ở tại đỉnh động Pháp Hoa. Ảnh hưởng cảnh sắc của Tam Đại Thiên môn chẳng phải đồng với thường tình, nhìn chung toàn thể du khách được nhìn thấy là sướng khoái rồi.
Mười bảy động Phổ Đà : Có hai động Triều Âm và Phạm Âm là hơn cả. Động Phạm Âm ở tại Thanh Cổ Lũy, cùng với động Triều Âm đứng đối nhau ở đông nam. Theo truyền thuyết, vào thời Tống-Nguyên, là chỗ khấu kiến Đại Sĩ hiện chân thân. Vách đá lởm chởm miệng động đứng cao ngất, cao đến vài mươi trượng, hai bờ cao chót vót tách ra như cái cửa, cách bờ vực cheo leo chẳng xa có ngôi đài xây bằng đá chạm trổ, bên dưới đài là hang khúc khuỷu thông ra biển. Như muốn thăm viếng động, nhất định trước tiên phải đến đỉnh bờ vực, rồi theo đường bậc đá quanh co mà xuống, trải qua hơn hai trăm cấp mới đến nơi, người có duyên mà hết lòng thành kính diện bích quỳ dài mà lạy thì tự nhiên có thể thấy Chân Thân (đức Quán Âm).
Theo sách Phổ Đà Sơn Chí ghi chép : “Năm Chí Nguyên thứ mười ba đời Nguyên Thế Tổ, khi thừa tướng Bá Nhan định Giang Nam, bộ tướng soái là Hạt Lạp Bá đến thăm viếng dưới động, tra xét không thấy gì, nổi giận giương cung lắp tên mà bắn vào động rồi trở về. Đến khi lên thuyền, ông bỗng thấy hoa sen đầy biển, kinh dị phi thường, liền quay trở lại động phù làm lễ cầu đảo thì từ từ thấy Bạch Y Đại Sĩ với Thiện Tài đồng tử qua qua lại lại, ông liền cho xây điện ở đây …
“Dũng Tràng tiểu Phẩm” của Chu Quốc Trịnh đời Minh cũng nói rằng : “Năm Triệu Hưng thứ mười lăm (Tống Cao Tông – 1131), Thứ sử Vương Đạo trấn đất Việt đưa quan tại Dư Diêu (tỉnh Chiết Giang) về giữ Xuyên Quốc để trông coi muối. Nhân ngày rằm tháng ba, vị quan ấy cùng với Trình Lâm Phủ ở Bà Dương từ thẩm gia môn thả thuyền xuôi đến Phổ Đà Sơn. Sáng sớm Phủ đi đến động Triều Âm ở Thiện Tài Nham, nơi đức Quán Âm hóa thân, thì lặng yên không có gì, ông đốt hương nấu trà dâng cúng, nhưng chỉ thấy mặt chén hiện hoa nổi mà thôi. Quá buổi trưa, ông lại đến, đỉnh núi có cái lỗ mà có thể nhân đó nhìn xuống. Ông theo cái lỗ ấy vịn níu mà leo lên, bỗng nhiên thấy đại sĩ toàn thân màu trắng, chiếu sáng động phủ, mày mắt sáng ngời, răng trắng như tuyết ngọc”.
Năm dân quốc thứ năm, quốc phụ Tôn Trung Sơn tiên sinh khi đi du lãm núi Phổ Đà đã từng thấy Phật tại chùa Tuệ Tế, đã đích thân đề tấm biển ngang là : “Dữ Phật Hữu Duyên” ở đó. Những người đi theo Quốc phụ du lãm Phổ Đà trở về có vị nguyên lão Quốc Dân đảng là Đặng Gia Ngạn (Mạnh Thạc, người Quế Lâm, năm trước đã mất tại Đài Loan), theo Đặng Tiên Sinh thì vào năm Dân Quốc thứ bốn mươi bốn ông đã từng viết một bài về “Quốc Phụ Du Phổ Đà Sơn Thuật Dị”, có một đoạn văn nói rằng :
“Mùa Hạ năm Bính Thìn (năm Dân Quốc thứ năm, năm 1916 Tây lịch), quân hộ quốc báo trình, Viên Thế Khải mất đột ngột. Lê Nguyên Hồng lên kế nhiệm chức Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, cách mạng đảng ta có ra một bài tuyên cáo. Lúc đóc Quốc Phụ đang ở tại Hỗ Tân (Thượng Hải) bùi ngùi nói rằng : “Lẽ Công ra, thiên hạ định vậy. Bọn quân phiệt Bắc Dương sẽ còn tìm cách kích động, chúng ta còn thời gian dạo chơi sơn thủy, lặng lẽ xem sự biến đổi của tình thế được vậy”. Chưa bao lâu, suất cho những người trong đảng như Hồ Hán Dân, Đặng Gia Ngạn, Phùng Tự Do, Đán Đảo, Tái Thiên Cửu, Chu Trác Văn, Châu Bội Châm v.. v… dong chơi đó đây vùng Chiết Giang. Đô đốc Chiết Giang Lữ Công Vọng, Trương Lạc thiết yến để nghinh tiếp. Thiên Cửu uống rượu quá nhiều say mềm, ngày mai hắng chưa thể du ngoạn Tây Hồ. Hai ông Phùng và Đán cũng do vướng bận công việc ở đất Hàng, Quốc phụ mới gọi các ông Hồ, Đặng, Chu, Châu đi theo. Có Trần Khứ Bệnh bí thư Dân Chính sảnh Chiết Giang (gọi là Chánh văn phòng tỉnh ngày nay - Lời của dịch giả) do Lại Gia Ngạn giới thiệu cùng đi vậy. Từ đó qua Tào Nga, thăm dò Võ Huyệt, lặn lội đến Ninh Ba, Trấn Hải mà trèo lên Phổ Đà. Núi Phổ Đà là thắng địa của Nam Hải vậy. Non nước thanh u, cây cỏ sum sê, dạo chơi nơi ấy thư thái nhẹ nhàng có cảm tưởng như là thoát khỏi cuộc đời sống độc lập. Đến như việc thần sò biến hóa thiên hình vạn trạng, thánh linh, vật lạ truyền nghe bất nhất mà đầy đủ, kẻ nhìn thấy tận mắt thì lại nói ra rành rọt.
Ngày đó, Quốc phụ ngồi xe trước, thứ đến là Hán Dân, thứ đến nữa là Gia Ngạn, Trác Văn, Bội Châm, Khứ Bệnh và hạm trưởng Nhậm Quang Vũ. Còn cách Quan Âm Đường (tức là chùa Tuệ Tế của núi Phật Đình) một dặm, đến một tòng lâm, Quốc phụ chợt liếc qua thấy ngần nào là Tăng lữ hợp làm toàn vẹn trạng huống hoan nghênh, ở không trung những bảo phan theo gió kéo đến trưng bày, lờ mờ (hơi rõ chút ít) có người xúm lại nâng một vị tôn thần ở phía sau. Quốc phụ trố mắt nhìn kỹ thì tất cả đều huyễn không, không dấu vết ấn tượng. Quốc phụ rất kinh dị. Vừa đến Quan Âm Đường, Quốc phụ theo thứ lớp gọi kẻ tùy tùng hỏi rằng : “Các ông có thấy Chúng Tăng tập họp trong Tòng Lâm tạo tác đạo tràng đấy ư ? Bên trên ngôi Tòng Lâm ấy bảo phan bay phất phới, rất giống, được treo cao trên ngôi chùa ấy”.
Quốc phụ miệng giảng giải, ta chỉ trỏ, mắt sáng quắc ngoái nhìn lại chẳng thôi. Mọi người đồng hành đều trợn mắt đớ lưỡi, chẳng biết gì đáp. Giây lát, Hán Dân, . . . ngăn nhau lại không tuyên dương, sợ để lại cái cớ vin vào đó mà nói. Từ đó về sau cũng không khinh xuất dám bình luận bàn đến việc ấy.
Năm Dân quốc thứ mười bốn, Quốc phụ mất, tôi vừa ở tại Bắc Kinh, mọi người đều truyền là sinh tiền Quốc phụ được thộng suốt với Thiên Cổ Phật, viện dẫn ăn khớp với việc lạ thấy Phật ở Phổ Đà Sơn. Chưa bao lâu thì một tạp chí nọ tiết lộ bài bút thuật Phổ Đà Du Ký của Trần Khứ Bệnh. Khi việc ấy qua cảnh dời đổi, cũng chưa truy cứu việc viết lách của họ Trần. Bất đồ gần đây lại phát hiện di cảo của Quốc phụ. Ô hô ! Lạ vậy ! Bút tích của Quốc phụ cả cõi thế biết hết, bài ấy chẳng phải thật, chắc chắng chẳng đợi nói, huống là Trần Khứ Bệnh giao lưu văn chương với tôi (Tiêu Mộ Ca), chữ ông ấy bắt chước Đông Pha, trông qua là biết ; tôi dám quả quyết rằng : Đồ giả vậy ! Hoặc nói rằng : Quốc phụ lệnh cho bí thư chấp bút thì cũng chẳng những đã làm ra rồi. Tôi nói : Chẳng đúng ! Nếu đúng như lời nói đó thì nên có đích thân viết tên ký vào giống như những sổ sách khác của ngài. Nay đã không có điều đó mà việc ấy lại lưu bố nhơn gian sau khi Quốc phụ mất. Đâu có người chết nào có thể sai bí thư chấp bút vậy ? Tôi hạ một lời quyết đoán rằng : Quốc phụ thấy chuyện lạ quả thật là có, còn riêng việc ghi chép thuật lại thì chẳng phải là di cảo của ngài vậy !”
Đọc đoạn văn nầy của họ Trịnh thì việc Quốc phụ du sơn thấy Phật là ngàn lần chân thật, vạn lần xác đáng.
Triều Âm động : Động ở tại đình Thiện Tài trên lãnh Vân Trụ, vị trí ở khoảng cách bờ cheo leo, cách chùa Phổ Tế chừng ba dặm, nhân vì đá núi nứt toạc ra mà thành, có hai cửa trên và dưới, hình dáng như con sư tử há miệng, u ám lạ thường, sâu thẳm khó dò, nước biển từ dưới vọt mạnh vào, mù trắng mênh mang, tiếng như sấm chạy, khi nước triều lên, đất động núi lay, nhiếp lấy hồn phách con người. Nhưng động nầy không có đường vào, du khách phần nhiều đến đình động để nghỉ ngơi, một mặt lắng nghe triều âm, một mặt ngắm trông mây trời, khiến cho họ thoải mái, mọi trần lự đều tiêu tan.
Vương An Thạch, tể tướng triều Tống, khi du ngoạn Phổ Đà Sơn, sau cùng đến thăm chỗ nầy, ở trong Vân Hải Triều Âm đã bùi ngùi ngâm rằng :
Sơn thế dục áp hái,
Thiền cung hướng thử khai,
Ngư long tinh bất đáo,
Nhật nguyệt ảnh tiên lai.
Thụ sắc thu kình xuất,
Chung thanh lảng đáp hồi.
Hà kỳ thừa sứ dịch,
Tạm thử phất trần ai.
Tạm dịch :
Thế núi muôn đè biển,
Thiền cung mở hướng nầy,
Cá rồng tanh chẳng đến,
Bóng nhật nguyệt tới đây.
Sắc cây thu xuất hiện,
Tiếng chuông sóng đáp hồi.
Bao giờ xong việc nước,
Tạm phải bụi chốn nầy.
Tuệ Khai dịch
Phật quốc thắng địa do đây có thể thấy một phần.
http://tuvilyso.net/diendan/forum_po...?TID=9451&PN=8
Bí Pháp Đồng Khí Tương Cầu
Lời Phi Lộ
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính lạy Bồ Tát Quảng Đức nơi cõi Tây Phương an lành giải thoát!
Kính thưa các bậc Thiện Hữu Tri Thức!
Mùa Phật Đản đã qua, Ngày Đại Lễ Kỷ Niệm lại đến. Cũng như bao mọi năm trong lòng thành kính tri ân Bồ Tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân nhằm trương cao ngọn cờ chân lý Phật Pháp vĩnh hằng vẫn luôn sáng mãi trong lòng người con phật, chúng ta hãy thành tâm kính lễ tri ân Ngài với tất cả lòng thành của mà kính mình dâng lên Ngài.
Thật hổ thẹn cho con giờ này lại viết nên những lời này, vì bí pháp năm nào mà Ngài đã phó chúc truyền trao cho Thầy chúng con mà Thầy chúng con lại phó chúc lại cho toàn thể chúng con nhằm đem pháp nhủ của Ngài phổ truyền cho khắp muôn loài biết đến " Bản Thông Điệp Tình Người " thế mà bao năm qua vẫn chưa phổ truyền được hết tất cả và chưa làm tròn lời tâm nguyện để đền đáp ân đức Ngài đã ban rãi cho chúng con, thất đáng hổ thẹn làm sao.
" ...Thầy đà vượt cõi trăng sau
Con còn ở lại lặn vào bùn nhơ..."
Nhân ngày Đại Lễ này, toàn thể môn đồ pháp quyến của Ngài, Thầy con cùng toàn thể chúng con xin phát lời thệ nguyện " Con nguyện mến thương muôn loài " và xin cố noi gương Ngài mà phổ truyền bí pháp đồng khí tương cầu hầu để nhân loại ân triêm công đức lợi lạc.
Nguyện Tam Bảo chứng minh tiếp độ, nguyện xin Chư Bồ Tát, Phạm Thiên, Đế Thích, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, cùng Chư Thiên Long Bát Bộ Hộ Pháp Chư Tôn. Ngưỡng nguyện kính mong các Ngài sớm phổ truyền " Bản Thông Điệp Tình Người " này rộng khắp cõi nhơn gian cùng cõi Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới để muôn loài sống trong cảnh an lành tự tại giải thoát.
Nam mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát, Tác Đại Chứng Minh.
Phổ Quảng
Kính bái
=========
DIỄN VĂN TRỌNG YẾU
ĐẠI LỄ KỶ NIỆM NGÀY BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
tự thiêu
HT.Thích Thông Bửu
Trưởng tử Bồ Tát Quảng Đức
Trụ trì Chùa Quán Thế Âm
Kiêm trưởng ban tổ chức
Tuyên đọc tại lễ đàn
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
kính bạch Chư Tôn Đức,
Kính thưa liệt quý vị,
Thấm thoát bốn mươi mấy năm đã trôi qua! Nếu so với chuỗi thời gian thì quá ngắn, mà so với tuổi con người thì khá dài!!! Nhưng cũng lắm người chưa liễu ngộ nguyên lý này, nên đã để thời gian trôi qua một cách lãng phí! Không tận hưởng trọn vẹn những mầu nhiệm của thiên nhiên và những tinh tuý truyền lưu của một vị Bồ Tát lâm phàm.
"...Thế giới ba ngàn, phút giây ngơ ngát
"Từ cõi vô minh
"Hướng về Cực Lạc
"Vần điệu của thi nhân chỉ còn là rơm rác
"Và cũng chỉ nguyện được là rơm rác..." ( Vũ Hoàng Chương )
Trong giây phút linh thiêng ấy, chẳng riêng Việt Nam, chẳng riêng thế giới loài người mà cả ba ngàn đại thiên thế giới đều hướng về Việt Nam, ngơ ngác! bàng hoàng! Kính ngưỡng một người...Người ấy là Ngài Quảng Đức! Xin thưa thêm: " Không chỉ là một người, mà còn là một vị Bồ Tát lâm phàm, đúng hơn là một vị Bồ Tát Tòng Địa Dõng Xuất ". Hạnh nguyện của Bồ Tát là thực hành phương tiện độ sanh; cứu cánh thành Phật. Ngài Quảng Đức viên thành phương tiện độ sanh, trước khi đạt cứu cánh thành Phật, Ngài nương thần lực Tam Bảo, và hộ lực Chư Thiên, Chư Thần, nhất là Chư Tăng, Ni, Phật tử, cùng các quần chúng. Ngài mượn xăng, lửa và cả thân thể của chính mình, đốt sáng thành ngọn đèn lớn, ngọn đại hồng đăng, ngọn đại minh đăng, ngọn vô tận đăng hầu làm phương tiện độ sanh.
CỨU NGUY ĐẠO PHÁP
" Đệ tử hôm nay nguyện đốt mình
Làm đèn soi sáng nẻo vô minh
Khói thơm cảnh tỉnh bao người ác
Tro trắng phẳng san hố bất bình..." ( Thơ Kệ của Bồ Tát Quảng Đức )
Ngọn lửa " Đại hùng bi lực " từ thân Ngài vừa bừng cháy, thì hố bất bình từ từ được san phẳng.
Và ảnh hưởng của ngọn lửa thiêng không chỉ phạm vi trong nước, trong quả đất loài người, mà còn lan rộng khắp các thiên hà, thức tỉnh lương tâm bất cứ ai, còn đắm chìm trong bóng tối.
SỰ MẦU NHIỆM
Ánh lửa Quảng Đức, thẩm sâu vào lòng người, làm " Nhân " hoá giải chiến tranh, ngời sáng hoà bình; và chẳng những riêng quả dất, mà còn ảnh hưởng sâu rộng bao la. Lửa Quảng Đức làm nhịp cầu thiện cảm, đối với các hành tinh ngoài địa cầu .
SỰ HIỆN HỮU CỦA NGÀI
Thời gian thấm thoát qua nhanh. Nhưng với tinh thần " Nhứt Niệm Qúan Chiếu " thì nó mãi hằng hữu ở ngay trước mặt chúng ta. Ánh lửa Bồ Tát Quảng Đức mãi sáng trong lòng dân tộc, trong sự vĩnh hằng của đạo pháp; sáng mãi giữa pháp giới, chưa một lần tối tăm. Nếu dùng mắt phàm phu, vô minh tham vọng như nghiệp cảm của chúng sanh thì có tối tăm, có thời gian. Nhưng pháp giới vĩnh hằng của Bồ Tát thì không bao giờ có tối tăm. Ánh lửa vị pháp thiêu thân của Bồ Tát Quảng Đức, là ánh lửa của pháp giới vĩnh hằng của Chư Bồ Tát. Cho nên, không hề có sự tối tăm, hoặc lâu mau. Đây là ánh sáng của Đại Trí Tuệ, ánh sáng của giải thoát. Bởi vì dưới tầm nhìn của Tuệ Nhãn thì thấy rõ pháp " Bất Sanh Diệt ", ngay trên mọi hiện tượng sanh diệt.
Nhứt thiết pháp bất sanh
Nhứt thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền.
( Tinh thần Hoa Nghiêm Kinh )
Nhưng thôi, nếu cứ đem giáo lý mà trình bày thì chẳng khác nào một gã lữ hành lội qua sông, rồi tả lại cho cả nhà cùng nghe cái đẹp của dòng sông. Nghe để mà nghe vậy thôi ư? Phải biết cách biến đổi dòng sông thành thực dụng để đem lại những gì tốt đẹp nhất cho mọi người, đó mới là điều đáng quan tâm chứ.
SỰ HIỆP NHỨT
Ngài nhắc nhở Tăng, Ni, Phật tử, chẳng những đoàn kết về mặt hình thể bên ngoài, mà còn đòi hỏi phải " Nhất Trí " về mặt tư tưởng lẫn tâm linh. Đời Ngài là bài pháp, không bằng ngôn từ, mà bằng việc làm hiện thực. Ngài hành đạo tại Cao Miên, cất Chùa trên đất Miên và tụng Kinh bằng chữ Miên để rộng độ người bản xứ
Đây là sự minh chứng cụ thể nhất. Ngài thẩm sâu Kinh Pali ( Pa-Ly ), hầu xoá tan cái quan niệm cách biệt giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa, Ngài thực hành lời Đức Phật dạy " Không có giai cấp trong máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn ".
Phương pháp sống Lục Hoà, tức sống đoàn kết. Không phân biệt địa phương! Không chia rẽ giữa giáo phái này với giáo phái khác, giữa dân tộc này với dân tộc khác.
Giáo phái nào cũng thấy Ngài rất gần gũi, rất là " Người nhà ". Bởi vì Ngài là người của tất cả các giáo phái. Ngài dung hợp cả Tiều Thừa lẫn Đại Thừa Phật Giáo; hoài hoà cả Trung, Nam, Bắc. Sự hoài hoà của Ngài là Nhu Hoà, chứ không phải là nhu nhược.
Ngài đến đâu, như đoá sen chỉ toả hương thơm, phơi nhuỵ và lưu lại thành quả cho đời. Ngài đến bằng nụ cười, khi ra đi cũng bằng nụ cười và mãi mãi đậm nét nụ cười an lạc.
PHÁP MÔN NGÀI TU LUYỆN
Kỷ niệm ngày tự thiêu của Ngài, nên chúng ta ôn lại một số nét đại cương về pháp môn của Ngài thì thật là thiếu sót!
"Thưa Ngài! Ngài tu pháp chi?
An nhiên giữa lửa, chẳng ly chẳng dời.
Tuyệt thay là đạo nhập đời
Pháp môn bất nhiễm rạng ngời Việt Nam ". ( Thơ T.B )
Pháp môn Ngài tu là những lời dạy của Đừc Phật, suốt thời gian 49 năm, và siêu thời gian 49 năm.
Thời gian 49 năm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phương tiện chia giáo pháp thành 2 tông: Pháp Tướng và Pháp Tành. Nhưng sao khi giáo pháp truyền sang Trung Hoa thì Chư Tổ lại phương tiện chia làm 10 Tông. Đến thời kỳ Phật Pháp suy vi ( Thời kỳ Tần Thuỷ Hoàng, thời kỳ Hàn Dũ ), Đạo Phật tại đây mất dần hết 9 Tông, chỉ còn lưu lại một Tông, đó là Thiền Tông.
Bàn tay chặt hết 9 ngón, chỉ còn 1 ngón! Thời kỳ này là thời kỳ bất hạnh nhất của Đạo Phật tại xứ Trung Hoa!
Bồ Tát Quảng Đức dạy rằng: " Nếu ai cố chấp tông này, bài bác tông khác, thì kẻ ấy là người huỷ báng Đức Phật "
Chủ trương của Ngài là chẳng ly Kinh, mà cũng chẳng y Kinh. Không THỦ mà cũng không XÃ. Chẳng những gồm trọn cả 10 Tông, mà pahỉ bao trùm giáo pháp, thẩm sâu chân lý, chứng đắc giải thoát. Chẳng những chú trọng đến 10 ngón tay, mà pahỉ bao gồm cả bàn tay, cánh tay và toàn thân người.
Pháp môn tu của Ngài là gồm thâu các Tông phái. thời công phu khuya, không bao giờ Ngài bỏ, Gìơ Thiền Định nửa khuya, không bao giờ Ngài rời, kể cả những ngày đau bệnh. Thời trì Chú và Niệm Phật đầu hôm Ngài không hề xao lãng ( Bài thơ Xuất Kệ Vân của Ngài đã đủ chứng minh ). Ngài chuyên thọ trì Kinh Pháp Hoa. Nếp sống hằng ngày của Ngài thường thể hiện Hạnh Đại Hùng Bi Lực, nhất là Hạnh Hỷ Xã. Bình nhật nụ cười không rời vành môi của Ngài. Đời sống giới đức và vị tha của Ngài, biết bút mực nào tả hết. Chỉ tóm lược trong một câu là: Ngài áp dụng pháp môn phương tiện độ sanh, cứu cánh giải thoát và nhập trần không nhiễm trần.
LỜI DẠY CỦA BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
Ngài dạy: Người tu học Phật, khi mới bước vào tu học, phải lấy Giới làm gốc. Không chỉ riêng phần giới Tướng , mà phải thẩm sâu vào giới Tánh. Không chỉ ôm giữ nơi phần luật nghi, mà phải nhuần nhuyễn 84 ngàn oai nghi tế hạnh. Chẳng riêng hàng xuất gia, mà còn phải áp dụng cho hàng cư sĩ tại gia.
Khi giới luật đã vững nền móng, Ngài mới cho bước vào thềm duy thức. Tu luyện đạt duy thức liền cấp tốc phá thức, để bước lên nhịp cầu " Vô Thức ", hầu chuyển sang trí, bừng tuệ, nhập tánh, minh tâm.
Ngài thường nhắc nhở rằng, giữa Thiền và Tịnh không hề có sự mâu thuẫn nhau. Bởi vì, chỉ trong một chớp nhoáng ( tia chớp ), tâm ý con người khởi sanh " 32 ngàn ức niệm " ( Nhị Khoá Hiệp Giải ). Mỗi niệm là một hình tướng. Tu luyện dừng bớt một niệm là xoá bớt một hình tướng. Xoá hết hình tướng nơi tâm ý, càng lâu chừng nào thì tâm ý trong sáng lâu chừng ấy. Niệm danh hiệu Phật A Di Đà là dẫn Tịnh Niệm về thay Vọng Niệm. Khi đạt được Tịnh thì liền dứt Niệm. Khi dứt Niệm Di Đà Tịnh Độ, thì Di Đà Tự Tánh bừng khai. Khi đó là chứng đắc Tịch Tịnh.
Thiền cũng vậy. Tịnh Độ là Niệm; Thiền là Quán. Quán Chiếu, Quán Niệm hay Chỉ Quán cũng chỉ là pháp môn phương tiện giúp người tuluyện dần dần dứt trừ vọng niệm, quy về Tịnh Niệm, hầu Kiến Tánh, Minh Tâm, đạt ngộ Tịch Tịnh.
Khi hàng đệ tử đạt được trình độ khả quan. Ngài Bồ Tát Quảng Đức mới khai mở tâm ý bằng " Sự sự vô ngại, lý sự viên dung " theo tinh thần Hoa Nghiêm.
Đặc sắc nhất trong lời dạy của Bồ Tát và chính cuộc sống hằng ngày của Ngài là Pháp Hoa và Mật Chú. Về Pháp Hoa, Ngài dạy những Mật nghĩa của Bộ Kinh Đại Thừa Pháp Hoa. Nổi bật hơn hết là Ngài chỉ rõ Mật nghĩa của câu " Thị Pháp Trụ Pháp Vị, Thế Gian Tướng thường Trụ ". Thế gian tướng làm sao thường trụ? Đó là cái gút bí hiểm của Kinh điển.
Về Mật Chú, chẳng những Ngài nhuần nhuyễn trong tư thế Ấn Quyết vào giờ Ngài ngồi trên pháp toà sám chủ, chuẩn tế cô hồn, mà Ngài vẫn còn chú tâm, lưu ý hằng ngày, hằng giờ cho chính Ngài. Và Ngài thường chỉ dạy, nhắc nhở hàng đệ tử không nên xa rời " Tỳ Ni Nhật Dụng ". Quan trọng hơn hết là trì niệm " Ngũ Bộ Chú " vào mỗi thời giữa khuya. Về quán Pháp Ấn thì Ngài thực hành Bát Diệp Liên Hoa Ấn, tức là Tối Mật Ấn của Bồ Tát Quán Thế Âm, với sự quán chiếu viên ngọc giữa lòng bàn tay, công thêm miệng đọc OM MANI PADME HUM.
Để khắc sâu hình ảnh này, hiện nay trên nóc bảo tháp chính điện Chùa Quán Thế Âm cao 36 m, bản tự đã thực hiện bàn tay Bát Diệp Liên Hoa Ấn ( Tồi Mật Ấn Liên Hoa ), về hình thức tay Ấn bằng vật liệu kiên cố, cao 1,9m . Gĩưa lòng Pháp Ấn này là viên ngọc thạch ( viên đá ngọc ), có đường kính gần 2 tấc; có gắn 108 viên kim cương ( hột xoàn ) để tượng trưng cho sự bền vững, kiên trì, bất nhiễm trần, chiếu sáng...Với hữu dụng phá màn vô minh dứt trừ 108 nghiệp chướng, phiền não...và chung quanh viên đá ngọc này, hơn 500 viên kim cương, tức đá loại saphia của Mỹ. Biểu tượng này giúp cho giới tu luyện dễ quán niệm và trợ lực như đài hoa sen ( ở Mạc Đỉnh Chi ) trợ lực cho máy truyền hình vậy.
Hình Bát Diệp Liên Hoa Ấn và HT.Thích Thông Bửu trụ trì Chùa Qu án Thế ẤM, 90 Thích Qu ảng Đức,F5,Q.PN,TP.HCM; Ngôi Chùa thứ 31, nơi di tích cuối cùng của Bồ Tát Quảng Đức
Ngài dạy: " Ai đã tự nhận mình là con trưởng Như Lai ( dạy riêng cho hàng xuất gia ) thì phải luôn luôn hằng thuận chúng sanh. Nhưng hằng thuận để đi đến mục đích giải thoát, chứ không phải hằng thuận để bị lôi kéo đắm chìm sa đoạ. Khi giáo huấn kẻ có trình độ thấp " Biến " thì dạy Biến. Nhưng dạy Biến để dẫn đến Hằng.
Thị pháp trụ pháp vị
Thế gian tướng thường trụ
*
NHƯ THỊ pháp tịch lặng
Tướng thế gian vĩnh hằng.
(Pháp Hoa Kinh )
Hãy giáo huấn cho người mê, được tỏ ngộ các pháp. Đạt đến chỗ " Mười Như Vậy ". Tướng Tánh...đều đạt đến chỗ " Như vậy " ( tức là đạt Thập Như Thị Pháp ), thì người tu sẽ liễu ngộ Thực Tướng của các pháp
*Thực Tướng của các pháp là " Hằng ".
*Giả Tướng của các pháp là " Biến ".
( Bốn câu thơ kệ Kinh Hoa Nghiêm và 2 câu thơ kệ Kinh Pháp Hoa nơi bài này đồng một lý ).
Khi nào mọi người đều liễu ngộ được Biến và Hằng của các pháp thì còn lo gì sự bừng khai Trí Tuệ. Lo gì không có thái bình lâu dài của dân tộc, nhân loại và muôn loài.
LỜI DẶN MẬT THIẾT CỦA NGÀI
Ngài dạy: " Muốn cho người người đều liễu nghĩa thực tướng của các pháp thì chính mình phải học, phải hành, phải tu, phải luyện. Khi nào liễu nghĩa thực tướng của các pháp, lúc đó mới hoằng truyền giáo pháp cho người khác, cũng cùng liễu nghĩa như mình. "
Ngài Bồ Tát Quảng Đức dạy rằng: Kỷ nguyên 21 là kỷ nguyên Liên Hành Tinh. Đạo Phật gọi là Long Hoa Tam Hội. Nếu loài người nơi quả đất không giao hảo thiện cảm với các hành tinh thuộc hệ thiên hà, hoặc ngoài thiên hà, thì con người sẽ gặp nhiều phiền toái. Muốn giao hảo thiện cảm, thì việc đồng thanh tương ứng theo quy pháp trì niệm, đọc tụng Kinh bằng tiếng Phạn âm vẫn chưa đủ, phải áp dụng qui pháp Đồng Khí Tương Cầu ( Cũng bằng Phạn âm ).
LỜI CỦA NGƯỜI THỪA TRUYỀN
Một niềm trăn trở nhất của người được thừa truyền tâm ấn, là chưa đủ nhân duyên, để hoằng truyền Pháp Môn Đồng Khí Tương Cầu của Bồ Tát Quảng Đức. Hiện nay nhân loại khắp trần gian, nhiều tôn giáo, nhiều hội sở, cá thể đã tu luyện đến trình độ Thần Giao Cách Cảm, hoặc đã Liên Hệ Được Các Thế Giới Thần Linh. Hoặc đã Dạo Chơi Các Hành Tinh Ngoài Quả Đất. Đặc biệt nhất là có rất nhiều nơi đã thành công về mặt " Đồng Thanh Tương Ứng ", kể cả các giàn nhạc giao hưởng, đại hoà tấu của cả hàng ngàn nhạc công, nhạc cụ, đầy đủ âm lượng, âm sắc, âm nhạc siêu thanh, vượt xa hơn âm thanh thường, nên cũng có thể đạt sự đồng thanh tương ứng với các hành tinh ngoài trái đất. Nhưng chưa có ai ở, hoặc nơi nào thành công về mặt " Đồng Khí Tương Cầu ". Đây là Bí Pháp dọn đường, bước vào liễu nghĩa Thực Tướng các pháp, và cũng là Bức Thông Điệp Tình Người màu xanh và vàng. Bức thông điệp này là tín hiệu thông tin cho toàn hệ mặt trời và khắp các thiên hà có sự liên quan mật thiết với quả đất. Bí Pháp Đồng Khí Tương Cầu, không chỉ dành cho việc Tu Chứng, mà còn là bí pháp nhập trần; không những phục vụ hoà bình tạm bợ, mà đem đến sự thái bình dài lâu, cho nhiều hành tinh liên quan cùng trái đất.
Muốn phóng phi thuyền, hay thuyền một thông điệp, ra ngoài trái đất, phải có giàn phóng, phải sử dụng khí chất để đẩy phi thuyền vượt khỏi khí quyển. Mặt vật thể như thế, mặt tư tưởng và tâm linh bắt buộc cũng phải theo qui pháp như thế, Phải Đồng Khí Mới Tương Cầu. Phải có hàng vạn người cùng chung một địa điểm, cùng đồng một giờ, cùng đọc một âm ngữ, quan trọng là cùng chung một hơi thở, thì mới đủ lực tuyến, hầu truyền thông bản thông điệp xanh, thông điệp Hoà Bình, giao hảo, thiện cảm của loài người, đến khắp các hành tinh, thuộc dãy thiên hà có 72 tỷ mặt trời và các thiên hà lân cận.
Vì vậy hơn ai hết, những người con Phật , không phân biệt Tông Phái, trước sau, Tăng, tục, đệ tử chùa này hay chùa kia, tất cả cũng chỉ là MỘT.
Hãy đồng tâm hiệp lực hiệp sức, góp mặt, chung lòng hiển hưng chánh pháp, sớm hoàn thành Bí Pháp Đồng Khí Tương Cầu, hầu đem lại nền hoà bình, nói rõ hơn là đem lại sự thái bình cho liên hành tinh thuộc nhiều kỷ nguyên sắp đến.
"...Hãy quên bản ngã bỏ cái Ta
Gấp sửa thân tâm nhìn đại cuộc..."
Lời Ngài cách nay bốn mươi mấy năm, nhưng vẫn hiện hữu đang vang vọng nơi tiềm thức của chúng con.
PHÁT LỜI THỆ NGUYỆN
Hôm nay kỷ niệm ngày Đại Lễ, chúng con thành tâm xin phát lời thệ nguyện này:
*Con nguyện mến thương muôn loài.
*Con nguyện noi theo nếp sống và vâng theo lời dạy của Bồ Tát Quảng Đức.
*Con nguyện tu học và phổ truyền Bí Pháp Đồng Khí Tương Cầu, hầu làm vơi phần khổ đau cho nhân thế.
Kính lạy Tam Bảo chứng minh hộ độ.
Kính lạy Bồ Tát Quảng Đức thuỳ từ gia hộ.
Nguyện cầu Chư Thiên, Chư Thần, Chư Thiên Long Bát Bộ, hỷ tâm hộ niệm.
Ngưỡng mong Tam Bảo- Bồ Tát Quảng Đức và Chư Tôn Đức chứng giám hộ trì và từ bi gia hộ cho các pháp giới chúng sanh đồng được an vui giải thoát và gia hộ cho chúng con được sớm viên tròn lời thệ nguyện.
Kính mong Chư Tăng, Ni, Các Tôn Giáo Bạn, cùng quý vị thức giả hợp ý, đồng tâm. Tha thiết mong được toàn thể mọi người con Đức Phật, khắp mười phương, khởi tâm tuỳ hỷ và thự hành Bí Pháp " Đồng Khí Tương Cầu ". Muôn loài đang đợi, đang mong!
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát, Tác Đại Chứng Minh.
Nam mô Vị Pháp Thiêu Thân Quảng Đức Bồ Tát Ma Ha Tát, Tác Đại Chứng Minh.
BÍ PHÁP ĐỒNG KHÍ TƯƠNG CẦU
( Bồ Tát Quảng Đức truyền trao từ năm pháp nạn )
*Phương pháp tập luyện Đồng Khí Tương Cầu:
Ngồi theo tư thế hoa sen, hàng vạn người cũng cùng quay về một hướng. Tâm ý hàng vạn người đều tâm niệm bản Thông Điệp Xanh, thông điệp Hoà Bình. Miệng hàng vạn người cùng đọc một âm và hàng vạn người cùng thở một chiều. Nghĩa là, khi thở ra, hàng vạn người đồng thở ra; khi hít vào hàng vạn người đồng hít vào. Khắp mặt đất phải tạo hàng ngàn nơi Đạo Tràng như thế. Lúc đầu chia nhỏ để tập luyện và khổ luyện; khi thành tựu mới tập hợp tại một địa điểm để cùng nhau truyền bức Thông Điệp tình người.
*Phương pháp chi tiết:
Miệng đọc OM, mũi hít hơi vào thật sâu, phình bụng chứa hơi tối đa, thì vai tự động sẽ nâng lên.
Tiếp theo, miệng đọc MANI và 2 hàm răng phải cắn chặt lại; mũi thở hơi ra, thở cho hết hơi và tâm ý phải quán chiếu hơi thở ra cao vút, thì lúc này bụng sẽ xẹp xuống-vai cũng tự động hạ xuống.
Miệng đọc PADME, mũi hít hơi vào; tiếp theo thì miệng đọc chữ HUM và 2 hàm răng cắn chặt- lưỡi đưa lên nốc vọng, mũi thở hơi ra.
Cứ như thế tiếp theo đọc nhiều lần câu Mật Chú OM MANI PADME HUM. Sáu chữ này chỉ có 4 âm, tức là đọc OM hít hơi vào , MANI thở hơi ra; PADME hít hơi vào, HUM thở hơi ra. Hoặc đọc 14 âm ngũ Bộ Chú cũng y theo phương pháp này.
*Pháp ấn của câu Mật Chú OM MANI PADME HUM:
Bát Diệp Liên Hoa Ấn là một Ấn trong 40 pháp ấn thường thể hiện của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Mỗi một câu chú có một tay ấn riêng. Nhưng khi đọc câu chú OM MANI PADME HUM, muốn mau đạt sự linh nghiệm, thì hành giả phải đúng quy tắc là tay kiết Bát Diệp Liên Hoa Ấn song hành ; miệng đọc, tay kiết Tối Mật Ấn và tâm ý phải quán niệm viên ngọc " MANI " giữa 2 lòng bàn tay.
Bì Bát Diệp Liên Hoa Ấn vừa thông dụng, vừa mầu nhiệm, nên thường gọi pháp ấn này là Tối Mật Ấn, hoặc tối Mật Liên Hoa Ấn. Tại sao gọi là Tối Mật Ấn? Ấn này hình thức hoa sen 8 cánh thù diệu, quán tưởng viên ngọc báu biểu thị cho 8 phương hội tụ. Đắc Tam Muội Gia của Bổn Tôn, dụng pháp Đại Bi thanh tịnh giúp cho khắp thảy chúng hữu tình tự trực ngộ giác tánh tối thượng, vốn có sẵn nơi tâm của chính mình. Vì kiết Hiển Ấn như thế nên gọi là Tối Mật Ấn hoặc Tối Mật Liên Hoa Ấn.
+Tướng Pháp Ấn: Hai tay chắp, giữa trống. Hai ngón cái, 2 ngón út hợp nhau dựng đứng. Sáu ngón còn lại, bung duỗi thẳng như hình cánh sen nở ( Giữa lòng 2 bàn tay, tức là giữa Ấn, quán tưởng viên ngọc ).
*Mật Nghĩa:
OM là Trí Tuệ, có màu vàng tụ hội ở não bộ.
MANI là ngọc Ma Ni ở kháp toàn thân, nhất là cốt xương tuỷ.
PADME là Hoa Sen, ở huyệt Bách Hội, trên đỉnh đầu. Trăm dây thần kinh là một trăm cánh sen ; mỗi dây thần kinh trên đỉnh đầu, khi trì niệm như vậy thì toả sáng 10 luồng " Nhân Điện " giao thoa với " Thiên Nhiên Điện ", thành ra 1000 luồng sáng. HOA SEN NGÀN CÁNH NỞ thì đắc đạo.
HUM là Từ Bi, có màu xanh qui tụ ở nơi tim, Nên gọi là Thông điệp TÌNH NGƯỜI là Thông điệp xanh.
------------------------------------------------------------ -----
PHỤ CHÚ
*Phạn Ngữ: OM MANI PADME HUM
+Phạn âm: ÔM MA NI PÁT MÊ HÙM
+Hán Việt: ÁN MA NI BÁT MÊ HỒNG
+Việt: ÚM MA NI BÁT MÊ HỒNG
*Ngũ Bộ Chú
1.OM LAM
2.OM XỈ LÂM
3.OM MANI PADME HUM
4.OM CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA BÀ HA
5.BỘ LÂM
+Nếu đủ điều kiện niệm càng lớn càng tốt.
+Niệm nhiều ít tuỳ ý, nhưng ít nhất từ 7->21 lần.
+Trì niệm " Ngũ Bộ Chú " vào giữa khuya, tức là từ 11giờ 30 phút.
*Quý vị có thể xem hiệu năng của OM MANI PADME HUM và Ngũ Bộ Chú tại:
http://quangduc.com/ ( Mục Mật Tông- Bộ Mật Tông của TT. Thích Viên Đức )
http://tinhluattemple.org/ngubochu.html
------------------------------------------------------------ -----
VẦN THƠ OM HUM
Người xưa đang đợi bên sông
Dặn ta nhắn nhủ tin hồng cho ai!
Ai thôn Đông, ai thôn Đoài
Ai tròn nhật nguyệt luyện nhai thiên hà
Nơi Bách Hội nở ngàn hoa
Thì về mà nhận tinh ba giọt hồng
Một giọt thôi toả dung thông
Thông tròn hạt bụi sang sông gặp người
Vừa nhoẻn miệng hứng nụ cười
Nâng tay hiệp chưởng nhập mười phương xa
Thanh âm ngọt bản trường ca
Vang rung ngấn đọng ngân nga tình người
Giọt Ma-Ni-Ngọc thiên thư
Nương thư sen nở bởi từ bùn nhơ
Mênh mong trời đất lặng lờ
Gom thâu về một vần thơ OM-HUM.
Sa môn Thích Thông Bửu
-Trích từ thi phẩm Từng Giọt Ma Ni-
================
Ý NGHĨA BÀI KỆ TÁN HƯƠNG
Bài diễn giảng: Sa môn Thích Thông Bửu
Bài Kệ Tán Hương mở đầu khoá lễ tụng niệm. Sau khi khai chuông mõ vị chủ lễ khởi tụng, toàn thể Đại Chúng đồng tụng hoà âm. Nhưng tụng để mà tụng chứ có ai hiểu nghĩa câu kinh mình đang tụng bởi vì nguyên âm Trung Hoa
Lư hương xạ nhiệt
Pháp giới mong huân
Chư Phật hải hội tất diêu văn
Tuỳ xứ kiết tường vân
Thành ý phương ân
Chư Phật hiện toàn thân.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần )
*Dịch Nghĩa
Bách Hội đà bén chiên đàn
Khắp phương pháp giới ba ngàn toả xông
Khí hải nội lực viên thông
Mây từ tuỳ xứ hư không kết vầng
Thuần ý thẩm diệu triêm ân
Phật Lực thể nhập toàn thân nhiệm mầu.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần )
Nhiều người hiểu sai nghĩa câu " Lư hương xạ nhiệt " rằng:Trong chiếc độc lư bằng đồng, hoặc bằng sành sứ, có lửa đang nóng, ngún cháy những mảnh gỗ trầm, hoặc gỗ hương. Hiểu như thế thì đúng phần trực nghĩa thiếu hẳn phần ẩn nghĩa.
Để dễ thẩm nhập, xin dịch nghĩa câu này: " Bách Hội vừa bén chiên đàn ". Lư hương cũng có thể dịch là đỉnh hương. Nhưng muốn sát ẩn nghĩa thì phải đọc là Bách Hội. Bách Hội có nghĩa là 100 nơi hội tụ về 1 điểm tại đỉnh đầu. Tức là 100 dây thần kinh tụ về 1 điểm nơi đỉnh đầu của mỗi con người. Y học gọi nơi này là Huyệt Bá Hội.
Nếu chỉ nghĩ dùng trầm hoặc hương nơi đỉnh lư, đốt xông thành khói dâng cúng dường, thì tinh thần vọng ngoại, vay mượn ngoại vật, ngoại cảnh, bỏ quên mất cái nội tại, cái tự thân, cái chất xạ hương của chính mình. Loài vật, cây cỏ còn có xạ hương của chính nó, tại sao con người không biết tụ hội chất xạ hương nơi chính mình để dâng toả khắp mười phương?
Ngày xưa, Đức Phật tuyên thuyết Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm từ nơi đỉnh đầu, chứ không phải từ nơi cửa miệng của Ngài:
" Nhĩ thời Thế Tôn
Tùng nhục kế trung
Dõng bá bảo quang
Quang trung dõng xuất
Thiên diệp bảo liên
Hữu hoá Như Lai
Toạ bảo hoa trung
Đảnh phóng thập đạo
Bá bảo quang minh..."
Nghĩa là, bấy giờ từ nơi giữa nhục kế ( đỉnh đầu ) của Đức Phật, toả phóng 100 ánh hào quang nhỏ phụ. Công tất cả 1000 đạo hào quang sáng chiếu. Mỗi đạo hào quang sáng toả hình tợ như cánh sen, kết tròn sáng chiếu thành hình hoa sen 1000 cánh ( Thiên diệp bảo liên ). Trên giữa hoa sen báu ngàn cánh này, có 1 Đức Hoá Phật đang an toạ và thuyết Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm ( Đức Hoá Phật là do Đức Phật Thích Ca hoá hiện ), như vậy nghĩa là trên đỉnh đầu của Đức Phật Thích Ca, toả sáng hào quang hình hoa sen lớn cả 1000 cánh. Trên hoa sen lớn ấy có hoá hiện thêm 1 Đức Phật Thích Ca thứ 2, tuyên thuyết Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm.
Ai ai hễ là con người thì trên đỉnh đầu của chính mình đều có huyệt Bách Hội, và ai ai cũng có quyền khai mở huyệt Bách Hội.
Nói cách khác là ai ai cũng có khả năng khai mở huyệt Bách Hội của chính mình được toả sáng, nếu người đó chịu khó tu luyện.
Ai khai mở được 1000 ánh sáng nơi đỉnh đầu, thì vị ấy thành siêu nhân, thánh nhân. Nếu phóng toả ánh sáng ấy rộng xa ngàn vạn triệu tỷ cây số, thì vị ấy thành Bồ Tát. Nếu phóng toả rộng khắp cõi thiên hà, cả 3000 đại thiên thế giới và trùng trùng pháp giới bao la, thì vị ấy là Phật. Trái lại trên đỉnh đầu không tụ được ánh sáng, mà vẫn tối đen là phàm phu, tục tử, ham ăn, ham ngủ, ham mê dục lạc, đam mê đắm chìm mãi mãi nơi vùng đen tối.
Người con Phật quyết khai mở 100 tia ánh sáng lớn và 1000 tia ánh sáng nhỏ, nơi đỉnh đầu, nên phát nguyện tu luyện và gia công vận dụng cho dòng lửa " A HAM ", chhuyển lưu theo dòng " Lực Tuyến " ( trục xương sống ) chuyển thẳng lên " Huyệt Bách Hội " làm ngún cháy ( bắt đầu bén, bắt đầu cháy ). Cháy chất hương thơm nơi cơ thể của chính mình, hầu toả thơm khắp 3000 đại thiên thế giới và trùng trùng pháp giới bao la:
" Bách Hội vừa bén chiên đàn
Khắp phương pháp giới ba ngàn toả xông "
Muốn đạt đến phần pháp tướng như thế, thì phải biết cách chuyển hơi, tạo nội lực ( tu luyện pháp sổ tức ) bkhai thông huyệt khí hải ( dưới rún ).
Huyệt " Khí Hải " có lưu thông thì hơi mới toả kết thành vừng mây lành thẩm nhập vào không gian.
" Khí Hải " nội lực viên thông
Mây từ tuỳ xứ hư không kết vầng "
Muốn có mây từ kết thành vầng, thẩm vào không gian, thì chẳng những chỉ riêng cần có nội lực ở huyệt " Khí Hải " tròn đầy thông suốt, mà người tu niệm còn phải luyện cho ý mình thuần thục, thẩm diệu thì mới triêm ân, tức là ân đức trùm rộng bao la.
" Thuần ý thẩm diệu triêm ân "
Muốn ý thuần thục thì phải tu luyện mắt, tai mũi, lưỡi và thân cả 5 giác quan nhập ý. Tập luyện cho ý bỏ dứt chữ tục. Chỉ còn chữ thô ( thô tục ). Vượt thô chuyển sang tế. Chuyển tế nhập vi. Chuyển vi nhập diệu. Tức là trãi qua 5 giai đoạn. Lúc đầu bỏ tục còn thô, 4 giai đoạn sau là Thô-Tế-Vi-Diệu. Khi nào vầng mây ý " Vi " và " Diệu " -" Thuần ý thẩm diệu " và đạt đến chỗ triêm ân, thì " Phật lực mới thể nhập toàn thân nhiệm mầu ".
Tại sao gọi ý là vầng mây? khi ý có tập trung lên huyệt Bách Hội, thì đỉnh đầu mới tụ kết thành một vầng hơi mờ mờ giống như khói, như mây, nhưng nhẹ và mờ hơn mây, khói. Màu sắc của vầng mây ý là tuỳ sự tư duy. Nếu tư duy sáng suốt trong lành thì màu trắng và màu vàng, nếu tư duy hiền từ thì màu xanh, trái lại nghĩ buồn nãn, thì màu tím sậm, nghĩ độc ác thì màu bầm đen...
( Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn )
" Bi tâm răn như sấm
Từ ý diệu dường mây "
Ý đắc diệu thì ân đức mới thẩm nhập và rộng bao la, lúc bấy giờ Phật Lực mới thể nhập toàn thân nhiệm mầu.
Lực thì rất nhiều, nhưng tựu trung gồm có 2 " Diệu Hữu Lực " và " Chơn Không Lực ". " Phật Lực " gồm cả hai Diệu hữu và Chơn Không. Cả Diệu Hữu và Chơn Không thể nhập toàn thân thì mới có sự nhiệm mầu.
Tóm ghi vài nét đại cương giải nghĩa đơn lược bài Kệ Tán Hương. Muốn liễu nghĩa, cần phải học, phải tu, phải luyện. Học hiểu để thực hành, tu và luyện để chứng đắc từng phần mới liễu ngộ được những lời Phật dạy nơi Kinh điển, và từ từ chứng đắc đến thiểu phần, đa phần và toàn phần.
Đức Phật chứng đắc toàn phần chơn lý. Chúng ta đệ tử của Ngài phải tu học, hầu mới chứng đắc từng phần, để dần đạt đến từng phần. Có như thế mới xứng đáng là đệ tử Phật.
Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tác, Tác Đại Chứng Minh
***
http://tuvilyso.net/diendan/forum_po...ID=10769&PN=22
Last edited by phoquang; 13-12-2025 at 02:37 AM.
MẬT GIÁO CÁO THỊ
Trong đời hiện tại, kẻ xấu ác đầy dẫy, người thiện lại ít. Bệnh tật tràn lan khắp nơi, nhiều chứng bệnh nan y xãy ra không thuốc chữa. Người không thân bệnh thì tâm thần bất an, vì do nghiệp chướng xâu dầy chất chứa trong nhiều đời. Người thì bị chiếm xác do ma quỷ đói khát khắp nơi, chúng mong được nhập xác để an hưởng mùi vị thế gian và làm các việc hại cho nhân thế không thể kể xiết. Chúng đã xen lẫn vào các chỗ như am tự, nơi thờ phượng Phật Pháp của những người giả tu và tu thiếu đức chỉ biết mang lợi lộc cho cá nhân mình mà kể gì đến nhân sinh đang đau khổ, khao khát Chánh Pháp như chờ cơn mưa đầu mùa tưới mát ruộng đồng, cây cỏ, hoa trái. Chúng đã tìm bằng đủ mọi cách để hãm hại thanh danh của những người tu chân chính, giới hạnh đầy đủ và đang lần bước theo chân lý bất khả tư nghì của Đức Từ Phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni ngày trước.
Chúng tạo ra đồng cốt giả dạng, làm nhiều chuyện mê tín dị đoan như bói toán, dùng bùa ngãi, thư ếm, khiển âm binh để mua danh, chuộc lợi và lường gạt những người độn căn, nhẹ dạ tạo ra những chán nản, thất vọng, âu lo, hy vọng tương lai mờ ảo, viễn ảnh không thật và gây cho nhân sinh bị điên đảo. Chúng còn tạo ra những hình thức dùng điện âm, lấy lực của quần ma phô trương thanh thế, dùng tạp điển và quần ma điển để cứu người. Tội thay những nhân hiền không biết đã vô tình để chúng hút hết các lực dương khí trong người, bệnh tật mới đầu thấy bớt nhưng sau ngày càng tái phát và nặng thêm ra cho đến khi bỏ xác thì phần hồn phải phục tùng ma lệnh của chúng. Từ ngàn xưa, trời đất sanh ra con người thì cũng sanh ra muôn loài vạn cảnh. Bệnh tật thì có cỏ cây, linh chi, thảo mộc của đấng hóa công ban cho, từ đó lập thành các phương thức chữa trị theo kinh mạch, quy luật của âm dương và thời khí.
Người muốn tu hành thì có được các thiện duyên gặp các chơn sư hết lòng truyền chỉ, dùng cảnh vật, tận dụng thế gian pháp mà quán sự vô thường, phiền não, từ đó làm thước bậc tầm đường giác ngộ, hầu đạt được chân lý thâm sâu. Ngày nay, một số người tu thì tận trung, một lòng theo Thầy mà thủ đạo nhẫn nhục tu hành. Nhưng không may thay đời mạt pháp, học trò đời thì mắng chửi Thầy Cô và có khi làm tổn thương nếu không ưng ý các điều mong muốn, học trò đạo thì manh tâm giả dối, dùng nhiều thủ đoạn hãm hại Thầy, huynh, đệ, tỷ, muội của mình không chút đạo tâm. Họ chỉ tu miệng lưỡi, tu cao ngạo, tu tiền và đọc được vài ba quyển kinh của Phật đã tưởng mình đạt đạo cao siêu mà chẳng lo tu dưỡng tâm tánh, giữ gìn giới luật, lập công bồi đức, bề ngoài thì đạo mạo như người có đạo nhưng tâm vô đạo. Và nếu như không thỏa mãn những dục vọng thấp hèn của cái ta thì sau bức bình phong đã hành động ma quỷ không lường, dùng nhiều thủ đoạn ác độc hơn cả chiến tranh. Chúng đã dụng ác tâm như vậy làm cho màn đen ngày thêm che phủ thế giới hữu tình, khiến cho Tiên khóc, Thần sầu, và Chư Bồ Tát thương cảm khôn nguôi. Thật quả không sai lời tiên tri của Đức Từ Phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni lúc Ngài hiện tiền phổ độ chúng sanh.
Người thiện nhân thì luôn giữ luân lý, đạo đức, trọn đạo làm người. Nam thì phải thủ tín, nữ thì phải giữ gìn tiết hạnh, biết tu thân, xử kỷ làm cho đời thêm an lạc. Nhưng ngày nay những luân lý đó bị suy vong, nữ thì phá đi công, dung, ngôn, hạnh theo đời mới mà chê lời của tiền nhân để lại là sái thời, nam thì bất trung, bất nghĩa, bất tín. Vì vậy, từ trong gia đình cho đến bên ngoài xã hội phải điêu đứng do những khổ nạn như thế.
Nay vì thương cảm nhân sinh mà phải dùng thuyền từ độ chúng, trên thì mong luôn được tiếp độ huyền linh, dưới thì không ngừng cứu độ cho sanh linh được âm siêu, dương thới. Nhờ ân sâu nặng của Thầy Tổ, mà ta phải cất bước đi khắp nơi, mở đạo độ người và truyền khắp ra tứ hải, năm châu cho chúng hữu tình được tấu khúc đạo ca đời đời.
Mật Pháp Phật Mẫu Chuẩn Đề Vương là một pháp rất cao siêu, có khả năng tiêu trừ các chướng nghiệp nặng nề. Cho dù là người tại gia còn lệ thuộc các thứ bất tịnh trong cuộc sống hay người cư sĩ đang giữ giới tu học và cả người xuất gia tu hành đều sẽ được thành tựu theo các phẩm thấp cao do sự vi diệu của chân ngôn chuyển hóa. Riêng kẻ lầm đường lạc lối nếu biết quay đầu hướng thiện hành trì thì sẽ được thăng hoa tâm thức, và có khả năng giác ngộ hiện thời. Quan trọng hơn nữa là cho những người đang tu học Mật Pháp, thì đây là bước căn bản dễ dàng tiến vào con đường tinh thần mà không bị trở ngại như các đạo và phương pháp khác, đồng thời là nền tàng tu học vững chắc cho các Mật giả thành tựu các lĩnh vực đời cũng như đạo, được sở cầu như ý nguyện của ba đời khứ, lai,hiện tại. Thật, hạnh Mật thay Chánh Pháp được xiển dương, tỏ bày để cứu độ muôn loài sanh linh vượt qua cơn đồ thán.
Phật Giáo Mật Tông Thế Giới
Đàn Pháp Tông Tâm Mật Đà La Ni
Mật Chủ Pháp Vương Tử
Nhựt Quang
Padma Dojre
Last edited by phoquang; 13-12-2025 at 03:39 AM.
VĂN THÙ NHẤT TỰ CHÚ VƯƠNG
OM TRHYIM
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Chú Tạng Trung Nhất Tự Chú Vương
*Công Năng:
-Tất cả chướng ngại được tiêu trừ.
-Thành tựu tất cả sự nghiệp.
-Các sở cầu đều được viên mãn.
-Cầu tài, được giàu sang thịnh vượng.
-Tay sờ vào chỗ đau, bệnh liền được tuỳ ý.
-Bị Tà Quỷ-các Quỷ làm bệnh, Chú nơi tay 108 biến, rồi vuốt lên trên đầu bệnh người bệnh, các thứ bệnh đều lành.
-Đau mắt, lấy Muối chú 7 biến nhỏ vào Mắt.
-Đau răng, chú vào cây rau nhâm nhai, bệnh nhức răng hết.
-Giải trừ ếm, chú tự nơi mặt mình 108 biến, xong nhìn người bệnh, bệnh liền lành.
Tụng 1 biến, hộ được tự thần.
Tụng 2 biến, hộ được đồng bạn.
Tụng 3 biến, hộ được người trong nhà.
Tụng 4 biến, hộ được 1 thôn.
Tụng 5 biến, hộ được 1 thành.
-Tụng chú thường xa lìa ác, xa nơi dơ uế bất tịnh và rượu thịt ngũ tân.
***
http://tuvilyso.net/diendan/forum_po...TID=25378&PN=1
CHUẨN-ĐỀ PHÁP-KINH
Cư Sĩ HUYỀN THANH
https://kinh.viengiac.info/Huyen-Tha...-phap-kinh.pdf
Last edited by phoquang; 13-12-2025 at 09:29 PM.
CHUẨN-ĐỀ PHÁP-KINH
Cư Sĩ HUYỀN THANH
https://kinh.viengiac.info/Huyen-Tha...-phap-kinh.pdf
CÁC BÀI CHÚ TRONG
“DU GIÀ DIỆM KHẨU THÍ THỰC KHOA NGHI”
Phục hồi Phạn Chú: HUYỀN THANH
_Án, lam, tóa ha
OṂ RAṂ SVĀHĀ
_Án, chiết lệ, chủ lệ,chuẩn đề, ta bà ha
OṂ_ CALE CULE CUṄDHE SVĀHĀ
_Án, hộc rị
OṂ HRĪḤ
_Án, dà, hồng
OṂ ĀḤ HŪṂ
_ Án, lam, hộc rị
OṂ RAṂ HRĪḤ
_Chú Đại Bi:
Mahā kāruṇika citta dhāraṇī
Namo ratna-trayāya
Namaḥ ārya-avalokiteśvarāya bodhisatvāya mahā-satvāya mahākāruṇikāya
Oṃ sarva rabhaye śuddhanādaṣya namaskṛtva imaṃ ārya-avalokiteśvara
laṃtabha
Namo nīlakaṇṭha hṛ mahā-pataśami sarva-artha duśuphaṃ ajiyaṃ sarva
satva nama bhaga mā bhāti du
Tadyathā : Oṃ avaloki lokate kalati iheliḥ mahā-bodhisatva sarva sarva
mala mala masī masī hṛdayaṃ
Kuru kuru kamaṃ turu turu bhaṣiyati
Mahā-bhaṣiyati dhāra dhāra dhiriṇi iśvarāya
Cala cala mama vimala mukte
Ehyehi śina śina
Araṣiṃ bhala śari bhaṣā bhaṣiṃ bhara śaya
Hulu hulu pra hulu hulu śrī
Sara sara siri siri suru suru budhiya budhiya buddhāya buddhāya
Maitriya nīlakaṇṭha triśaraṇābhaya maṇa svāhā
Siddhiya svāhā
Mahā-siddhiya svāhā
Siddhā yogeśvarāya svāhā
Nīlakaṇṭha svāhā
Pravarāha mukhāya svāhā
Śrī siṃha mukhāya svāhā
Sarva mahā-muktāya svāhā
Cakrā yudhāya svāhā
Padma-hastaya svāhā
Nīlakaṇṭha śaṅkha-rāja svāhā
Mā vari śaṅkarāya svāhā
Namo ratna-trayāya
Namaḥ ārya-avalokiteśvarāya svāhā
Oṃ siddhyantu mantra padāya svāhā
_Chú Chuẩn Đề:
Nam mô tát đa nẩm, tam miệu tam bồ đà, cu chi nẩm, đát điệt tha. Án, chiết
lệ chủ lệ, chuẩn đề, ta bà ha
NAMO SAPTĀNĀṂ SAMYAKSAṂBUDDHA-KOṬĪNĀṂ
TADYATHĀ: OṂ CALE CULE CUṄDHE SVĀHĀ
_Hồng hồng, án, ma ni, hồng
HŪṂ HŪṂ OṂ MAṆI HŪṂ
_ Án, ma ni, hồng
OṂ MAṆI HŪṂ
_Hộ, án, tát lỵ cán, đát a nga đa, bố tư tất, độ tất, á lô kiết, can đích, nễ vĩ
đích, sa bố đáp, bố tả, minh cót, tam mồ đích la, tư phín ra nạp, tam ma da, á
hồng
HOḤ_ OṂ SARVA TATHĀGATA PUṢPE, DHŪPE, ĀLOKE, GANDHE,
NAIVEDYE, ŚABDA, PŪJA-MEGHA-SAMUDRA SPHARAṆA SAMAYE ĀḤ
HŪṂ
_Án lam, án lam, tóa ha
OṂ RAṂ_ OṂ RAṂ SVĀHĀ
_ Án, á mục cót, cheng ra, di ma nghinh, tô rô tô rô, tóa ha
OṂ_AMOGHA-JALA VIMAJJ SURU SURU SVĀHĀ
_ Án, cán tư ra, phổ minh, á hồng
OṂ VAJRA-BHŪMI ĀḤ HŪṂ
_ Án, cán tư ra, tát đát dà, hồng
OṂ VAJRA-SATYA HŪṂ
_ Án, hạ ra hạ ra hồng
OṂ_ HĀRA HĀRA HŪṂ
_ Án, da, đáp nghê ma, hê đô, phút ra ba cán, hê đôn, đích sơn, đáp tháp, cót
đáp yết cán đát, đích sơn, cheng đích, ni rô đát, da ban bác đế, ma cót thích ra,
ma nạp da, tóa ha
OṂ_ YE DHARMA HETU PRABHĀVA HETUN
TEṢĀṂ TATHĀGATO HYA VADATA
TEṢĀṂ CHAYO NIRODHA
EVAṂ VĀDI MAHĀ ŚRAMAṆAḤ YE SVĀHĀ
_Nại mồ cô rô tỳ da
Nại mồ bụt tháp da
Nại mồ đạt nhi ma da
Nại mồ tang khát da
NAMO GURUBHYAḤ
NAMO BUDDHĀYA
NAMO DHARMĀYA
NAMO SAṂGHĀYA
_ Án, lị lị, hạp hạp, hồng hồng, phín đát. Án, thất lị, ma hạp ca ra, hạp hạp,
hồng hồng, phín đát, tóa ha
OṂ_ RI RI, HĀ HĀ, HŪṂ HŪṂ PHAṬ
OṂ_ ŚRĪ MAHĀ-KĀLA, HĀ HĀ, HŪṂ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
_Án, cán tư ra, khán chi di, ra nạp, ra nạp, phút ra ra nạp, phút ra ra nạp,
tam phút ra ra nạp, tam phút ra ra nạp, tát lị cán, bụt tháp xích đích ra, phút ra,
cheng lị tháp ma cót, phút ra, nị nha, ba ra phiệt đáp na, đạt tốc ba vi, tát lị cán,
tháp lị ma, hộc rị, đạt da tán, đa sa nạp cót lị, hồng hồng, phín ra, tóa ha
OṂ VAJRA KĀŚĪ ME, RAṆA RAṆA, PRARAṆA, PRARAṆA,
SAṂPRARAṆA SAṂPRARAṆA_ SARVA BUDDHA SIDHRA, PRĀÑJALI
DHAMAKA PRAṆAYA, PRAVIDHĀNA, DHĀTU-BHĀVE_ SARVA DHARMA
HRĪḤ DHĀYAS, DHAṢAṆA-KARI_ HŪṂ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
_ Khiển Ma Chân Ngôn:
Án, cán tư ra, án cán tư ra, á di lị đạt, côn tra rị, cót nạp cót nạp, hồng hồng,
phín tra
OṂ VAJRA_ OṂ VAJRA-AMṚTA-KUṆḌALI HANA HANA HŪṂ
PHAṬ
_Phục Ma Chân Ngôn:
Án, cán tư ra, án cán tư ra, nha cáp, hồng
OṂ VAJRA _ OṂ VAJRA-JAVA HŪṂ
_ Án, cán tư ra, tả lật, á nại lật, cót nại, đáp cót, ba cheng, ma tháp, bang
cheng, ra nạp, hồng hồng, phín tra
OṂ_ VAJRĀCALA ANALA, HANA DAHA PACA MATHA PAṂCARAṆA HŪṂ HŪṂ PHAṬ
_ Án, tát lị cán, đáp tháp cót đạt ra, đích nại ma, cót mạn, đáp lật, bố cheng,
di khát, tát mồ đích ra, tư phín ra nạp, tam ma da, á hồng
OṂ_ SARVA TATHĀGATA-DHARMA KARMA-DHĀRA PŪJA-MEGHASAMUDRA SPHARAṆA SAMAYE, ĀḤ HŪṂ
_ Án, hoa thư ra, cheng giới ra, hồng, cheng, hồng, ban, hộc
OṂ_ VAJRA-JVALA HŪṂ_ JAḤ HŪṂ VAṂ HOḤ
_Hộ, án, tát lỵ cán, đát tha ha nga đa, bố tư tất, độ tất, á lô cát, can đích, nễ
vĩ đích, sa bố đáp, bố tả, minh hát, tam mồ đát ra, tát phạ lan noa, tam ma dệ,
hồng
HOḤ_ OṂ SARVA TATHĀGATA PUṢPE, DHŪPE, ĀLOKE, GANDHE,
NAIVEDYE, ŚABDA, PŪJA-MEGHA-SAMUDRA SPHARAṆA HŪṂ
_Án, cán tư ra, tháp ra ma, hộc rị
OṂ_ VAJRA-DHARMA HRĪḤ
_Hồng, đắt lam, hộc rị, a!
HŪṂ TRĀṂ HRĪḤ AḤ
_Phá Địa Ngục Chân Ngôn:
Nẵng mồ a sắc tra, a sắc tra, tiếp đế nẫm, tam miệu tam bụt tháp, câu đê
nẫm. Án, thoát lạc nạp, phạ bà tế, đề rị đề rị, hồng
NAMO AṢṬA-ŚITINĀṂ SAMYAKSAṂBUDDHA –KOṬĪNĀṂ
OṂ_ JÑĀNA AVABHĀSA_ DHIRI DHIRI HŪṂ
_Nam mô Bạc Già Phạt Đế (NAMO BHAGAVATE) …..
Án, tô nãnh tô nãnh (OṂ SŪNA SŪNA) đã vây quanh! Hộ, án tất tri, tất xả
tả nẵng, dệ hê dệ hê, tát lị cán, mẫu đà nẫm da, tóa ha (HOḤ_ OṂ PĪTA
PIŚĀCĀNAṂ_ EHI EHI, SARVA BUDDHA-NĀYA SVĀHĀ)
_Tả bạch thỉnh:
Mùa Thu rụng lá ngô đồng, đêm sầu muộn! Triệu thỉnh cô hồn kíp lai lâm!
Án, nương nhờ, nhờ đây, lên Liên Đài. Hộ, án, tất tri, tất xả tả nẵng, dệ hê dệ hê,
tát lị cán, mẫu đà nẫm da, tóa ha (HOḤ_ OṂ PĪTA PIŚĀCĀNAṂ_ EHI EHI,
SARVA BUDDHA-NĀYA SVĀHĀ)
_Hữu bạch thỉnh:
Đêm nay (kim nhật) đạo tràng mở Pháp Diên. An nhiên đến! Triệu thỉnh cô
hồn xin phú hội
Án tiêu lầu, tiêu lầu cổ giao tất. Hộ, án, tất tri, tất xả tả nẵng, dệ hê dệ hê, tát
lị cán, mẫu đà nẫm da, tóa ha (OṂ_ TURU TURU KU-JĪVIKA HOḤ_ OṂ PĪTA
PIŚĀCĀNĀṂ_ EHI EHI, SARVA BUDDHA-NĀYA SVĀHĀ)
_Án, bộ bộ đế rị, dà rị, đa rị, đát tha nga đa da
OṂ_ BHŪPUTERIKATARI TATHĀGATĀYA
_Chú Vãng Sinh:
Namo amitābhāya tathāgatāya
Tadyathā: amṛtodbhave, amṛta siddhaṃbhave, amṛta vikrānte
amṛta vikrānta gamine, gagana kīrtti kare svāhā
_Án, ta ma ra, ta ma ra, di ma nẳng, tát cáp ra, ma ha thích cáp ra, hồng
OṂ_ SMARA SMARA VIMANA-AKṢARA MAHĀ-CAKRA HŪṂ
_Án, cán tư ra, mục khất tra, mục
OṂ_ VAJRA-MOKṢA MUḤ
_Kim Cương Bách Tự Minh:
Án, cán tư ra tát đỏa tô, tát ma da ma nạp ba lạt da, cán tư ra tát đỏa, đế noa
bát đế sắc soán, đắc lý sừ, di phín ngỏa, tô độ thúc, di phín ngỏa, a noa ra ngật đô,
di phín ngỏa, tô bố tô, di phín ngỏa, tát lì cán mậu dề, di, bất ra ga trà, tát lì cán,
các lì ma, tô choen di tắc đạt, thích lì dương, cốt rô hồng, ha ha ha ha ha hộc, phín
cát loan, tát lì cán, đáp tháp cát đạt, cán tư ra, ma di môn choen, cán tư ra, phín
ngỏa, ma ha tát ma da, tát đỏa ha
[Ngàn hoa thư lai, tát đả tồ, tát mo de, mo nại bo lạt de, hoa thư lai, tát đỏa
tỳ, nô bốc tỳ sắc soán, thức lí thừ, mim phín ngỏa, tô nỗ thúc, min phín ngỏa, a nô
lai phíc tồ, min phín ngỏa, tô bố tô, min phín ngỏa, tát lỳ hoa xuật tì, min phút lai
de xà, tát lì hoa, đát lì mo, tô choen min mịt thạc, thít lý dòn, cót rô hồng, ho ho ho
ho ho hộc, phín co màn, tát lì hoa, hát tháp cót thạc, hoa thư lai, mo min mìn
choen, hoa thư lai, phín ngỏa, mo ho tát mo de, tát đỏa ha]
OṂ_ VAJRA-SATVA SAMAYAM ANUPĀLAYA_ VAJRA-SATVA
TVENA UPATIṢṬA DṚDO_ ME BHAVA SUTOṢYO_ ME BHAVA
SUPOṢYO_ ME BHAVA ANURAKTO_ ME BHAVA SARVA SIDDHIṂ_ ME
PRAYACCHA SARVA KARMASU CA ME CITTAṂ ŚRĪYAṂ KURU _
HŪṂ HA HA HA HA HOḤ_ BHAGAVAṂ SARVA TATHĀGATA-VAJRA
MĀ ME MUṂCA_ VARĪ BHAVA_ MAHĀ-SAMAYA-SATVA AḤ
19/12/2013
https://daitangkinh.truyenphatgiao.c...m-khau-chu.pdf
Last edited by phoquang; 13-12-2025 at 10:31 PM.
NGHI-THỨC-CĂN-BẢN-HÀNH-TRÌ-CHÂN-NGÔN
https://fr.scribd.com/document/75774...-TRI-CHAN-NGON
ཨོཾ་བཻ་ཤྲ་མ་ཎཱ་ཡ སྭཱ་ཧཱ། ཨོཾ་ཛམྦྷ་ལ་ཛ་ལེན ྲ་ཡ་སྭཱ་ཧཱ། ཨོཾ་བཱ་སུ་དྷཱ་རི ཎི་སྭཱ་ཧཱ།
om baishramanaya soha | om dzambhala dzalendraya soha | om basudharini soha
OṂ VAIŚRAVAṆĀYA SVĀHĀ | OṂ JAMBHALA JALENDRĀYA SVĀHĀ | OṂ VASUDHĀRIṆI SVĀHĀ
https://www.khyentsevision.org/stati...Wished_For.pdf
Phật Dược Sư
🌟 Lợi ích của việc tụng thần chú Phật Dược Sư.
1. Chữa Bệnh Thể Chất.
Giúp giảm bệnh thể chất
Hỗ trợ phục hồi trong quá trình điều trị bệnh.
Tạo ra những điều kiện tinh thần và cảm xúc tích cực để chữa lành vết thương.
2. Chữa lành tinh thần & cảm xúc.
Giảm nỗi sợ hãi, lo lắng, căng thẳng và trầm cảm.
Mang lại sự tĩnh lặng, sáng suốt, và bình yên
Giúp thanh lọc những suy nghĩ phiền phức.
3. Thanh lọc nghiệp tiêu cực.
Y Dược Phật được biết đến với việc thanh tẩy những hành động tiêu cực trong quá khứ
Giúp loại bỏ những chướng ngại do nghiệp chướng tạo ra.
4. Bảo vệ khỏi tác hại.
Bảo vệ khỏi tai nạn, ảnh hưởng xấu và những thế lực âm tính không nhìn thấy.
Tăng cường năng lượng và sự ổn định bên trong
5. Tăng lòng từ bi và trí tuệ.
Phát triển một trái tim từ bi
Nâng cao hiểu biết, nhận thức và cái nhìn sâu sắc về tinh thần.
6. Cầu phước cho những người đã chết và đã chết.
Tụng kinh gần người bị bệnh hoặc chết mang lại sự bình yên.
Giúp ý thức chuyển sang một sự tái sinh tốt hơn.
7. Tăng cường sức mạnh của Y học.
Phật tử tin rằng thuốc có tác dụng hiệu quả hơn khi được ban phước thần chú.
Bác sĩ, y tá, và người chăm sóc thường đọc nó để giúp đỡ bệnh nhân của họ.
8. Mang lại may mắn và thành công tốt đẹp.
Giúp loại bỏ những trở ngại cuộc sống.
Hỗ trợ quyết định rõ ràng và cơ hội tích cực.
9. Thanh lọc môi trường.
Tụng thần chú tạo ra sự rung động tích cực, chữa lành.
Cầu phước cho ngôi nhà và những người xung quanh bạn.
Long Mantra - ཨོཾ་ན་མོ་བྷ་ག་ཝ་ ེ། བྷཻ་ཥ་ཛྱཻ་གུ་རུ་ ཻཌཱུརྱཱ་པྲ་བྷ་རྭ ཛ་ཡ། ཏ་ཐཱ་ག་ཏ་ཡ། ཨརྷ་ཏེ་སཾ་མྱ་ཀ་ས ་བུདྡྷ་ཡ། ཏདྱ་ཐཱ། ཨོཾ་བྷཻ་ཥ་ཛྱཻ་བྷ ་ཥ་ཛྱེ། མ་ཧཱ་བྷཻ་ཥ་ཛྱཻ་བ ཻ་ཥ་ཛྱེ། རཱ་ཛ་ས་མུདྒ་ཏེ་ས ཱ་ཧཱ།
(OM NAMO BHAGAWATE BHEKANDZHE, GURU BAIDURYA PRABHA RAJAYA, TATHAGATAYA ARHATE, SAMYASAM BUDDHAYA, TAYATA OM BHEKANDZHE BHEKAMDZHE, MAHA BHEKAMDZHE, RANZA SAMUNGATE SOHA)
Short Mantra - ཏདྱ་ཐཱ། ཨོཾ་བྷཻ་ཥ་ཛྱེ་བྷ ་ཥ་ཛྱེ་མ་ཧཱ་བྷཻ་ ་ཛྱེ་རཱ་ཛ་ས་མུདྒ ་ཏེ་སྭཱ་ཧཱ། (TADYATHA OM BHEKANZE BHEKANZE MAHA BHEKANZE RADZA SAMUNDGATE SOHA)
https://www.facebook.com/share/p/14Qa3FjAWHQ/
Last edited by phoquang; 13-12-2025 at 11:04 PM.
KỲ TÍCH: CÔ GÁI CÂM NIỆM DANH HIỆU QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.
(Một câu chuyện có thật khiến hàng nghìn người xúc động tại Malaysia năm 1981).
Vào ngày 24 tháng 12 năm 1981, ngày thứ hai trong chuyến viếng thăm của đoàn đại học Pháp Giới tại thành phố Bintulu ở Mã Lai Á (Malaysia), nơi đoàn thăm viếng ở lại. Sự có mặt đông đảo những người mộ đạo đến tìm Hòa Thượng Tuyên Hóa đã làm cho Phật giáo đại sảnh đường, nơi đoàn thăm viếng ở lại, trở nên nhộn nhịp và phấn khởi.
Một nữ Phật tử tại gia ở độ tuổi trung niên dẫn theo người con gái vào khoảng 20 mấy tuổi, mong tìm gặp Hòa Thượng. Cô con gái có gương mặt hòa nhã, nhưng từ lúc 2 tuổi cô bị mất thính giác và không thể nói chuyện. Hòa Thượng quán xét thấy thiện căn của cô đã chín muồi, vì vậy Ngài chỉ dẫn cho hai mẹ con tham gia Pháp hội suốt buổi tối hôm đó. Đó là thời gian họ có thể nhờ vào công đức mọi người thành tâm hồi hướng để giúp cô giải trừ nghiệp chướng của mình.
Trong suốt buổi tối hôm đó, sau khi Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng Pháp xong, Ngài lập tức kêu mọi người đưa cô gái có tên Trang Ngọc Chi lên khán đài. Trước cái nhìn chăm chú theo dõi của hơn 2000 người, Hòa Thượng lấy một chiếc khăn tay màu trắng, đặt nó lên phía trên cổ họng của cô Trang Ngọc Chi và chú tâm hộ trì cho cô gái bị câm điếc ấy.
Trong khi đó, các Pháp sư tháp tùng theo phái đoàn đứng cùng cô gái để dạy cô niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Lúc đầu, cô gái phản ứng chậm và còn do dự vì cô có biểu hiện sự đãng trí. Tuy nhiên, chưa đầy 2 phút sau, cô gái nói không ra lời đó bắt đầu lẩm bẩm, cố gắng phát ra một vài âm thanh giản dị.
Vào lúc đó, Hòa Thượng bằng một giọng nói lớn và rõ ràng, được khuếch đại qua máy vi âm (microphone), hướng về đại chúng nói:
“Mọi người hãy cùng tham gia niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, với một lòng hồi hướng công đức đến cô gái trẻ này, để cô có thể tức thời nói được ngay.”
Phản ứng của những người đứng dưới khán đài giống như làn sóng thủy triều. Ngay lập tức, hơn 2000 người đồng thanh niệm vang:
“Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát! Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát!”
Tiếng hòa âm nhẹ nhàng nhưng vang dội, cùng chung nhịp điệu và theo trật tự. Sự cộng hưởng thánh hiệu này giống như những con sóng thủy triều: không ngừng nghỉ, lớp lớp nối tiếp nhau.
Nhờ sự thành tâm của tất cả mọi người, trong tích tắc, toàn bộ Phật giáo đại sảnh đường tiếng niệm rền vang như sấm, nơi tâm mỗi người được lấy khí thế từ âm thanh to lớn. Sự nhiệt tình và chân thành của mọi người không thể diễn tả, không thể hiểu được trừ phi người ta đích thân có mặt tại đó.
Lúc đó, có người đặt chiếc máy vi âm phía trước cô gái, và những âm thanh giản dị mà cô phát ra đã có nhịp điệu và được phát âm có âm tiết.
“Nam… mô… Quán… Thế… Âm… Bồ Tát!”
Lúc bắt đầu cô niệm với rất nhiều nỗ lực, mỗi một tiếng phải thúc ép đẩy ra từ cuối cổ họng. Cô phải dùng nỗ lực kinh khủng. Tuy nhiên, cô quyết tâm đến cùng, và mỗi tiếng được niệm càng lúc càng phấn khởi hơn.
Hòa Thượng tiếp tục hộ trì cho cô. Chưa đầy 10 phút, giọng nói của cô gái vượt qua cả tiếng niệm từ dưới khán đài khi cô lớn tiếng thốt ra từng tiếng:
“Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát!
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát!”
Mặc dù giọng nói cô ấy vẫn còn hơi cứng và sự phát âm chưa hoàn toàn chính xác, cô ta thật rõ ràng đã học được cách nói chuyện. Tín chúng phía dưới khán đài không thể không kinh ngạc khi nghe giọng của cô ta. Mọi người đều lấy làm kỳ lạ. Có những người đứng lên, nước mắt chảy trên mặt vì xúc động, họ tán thán đây là điều kỳ diệu trong những điều kỳ diệu.
Hòa Thượng giải thích:
“Trong kiếp trước, cô gái này là một vị đại quan có quyền chức. Thậm chí có kiếp, cô từng làm tướng. Thế nhưng cô lại tạo nghiệp chướng sát sanh nặng nề, đặc biệt là thích xử tử bằng cách treo cổ người, khiến cổ họng của tội phạm bị siết chặt đến chết vì nghẹt thở.
Hơn nữa, trong nhiều kiếp quá khứ, cô còn nhiều lần phỉ báng Tam Bảo và xúc phạm các vị xuất gia bằng lời nói. Vì vậy trong kiếp này cô bị câm. Khi cô hiện thân thuyết pháp, tất cả quý vị đều phải nhận thấy điều đó.
Nghiệp báo rất nặng và không bao giờ nên xem thường. Tất cả chúng ta phải chú ý điều này.”
(Hòa Thượng Tuyên Hóa).
__________________________________________________ ___
https://www.facebook.com/share/p/14QRAYidDDc/
================================================== =======================================
LỢI LẠC KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN CỦA DANH HIỆU “NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT” (P9)
Bạn được gì khi niệm danh hiệu Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát?
Bạn sẽ nhận được rất nhiều, nhiều hơn cả những gì bạn có thể hình dung. Tôi xin chia sẻ đôi dòng để bạn hiểu rõ hơn về những lợi lạc này.
Trong Phẩm Phổ Môn của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có dạy rằng, Quán Thế Âm Bồ Tát cứu 7 nạn, giải 3 độc và ứng 2 cầu.
Cứu 7 nạn gồm: Hỏa nạn (lửa), Thủy nạn (nước), Phong nạn (gió bão), Đao binh nạn (chiến tranh, vũ khí), Quỷ nạn (La-sát, ác quỷ), Ngục nạn (tù tội, gông cùm) và Tặc nạn (trộm cướp).
Giải 3 độc: Chính là hóa giải Tham, Sân, Si.
Ứng 2 cầu: Là cầu con trai và cầu con gái.
Bây giờ chúng ta hãy đặt một câu hỏi: Nếu như không gặp các hoạn nạn kể trên mà vẫn trì niệm thì hành giả sẽ được gì?
Thứ nhất, Bạn sẽ tích lũy được công đức và nội lực.
Mỗi khi bạn hành trì, từng câu niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ được tích lũy vào trong cơ thể và vầng hào quang của bạn. Người niệm với tâm chân thành, không tạp loạn, nhất tâm bất loạn thì chắc chắn dung mạo sẽ ngày càng rạng rỡ, tâm cảnh trở nên bình yên, phong thái thong dong và tự tại.
Thứ hai, khi lực niệm được tích lũy đầy đủ, vầng hào quang của bạn sẽ trở nên sáng ngời. Điều này khiến những người xung quanh khi tiếp xúc sẽ cảm thấy mến mộ, không còn tâm lý đề phòng hay lo sợ. Bạn sẽ rất dễ gặp được quý nhân ở bất cứ đâu, đồng thời tránh được nhiều tai nạn bất ngờ – những kiếp nạn mà có khi sau này nhìn lại, bạn mới biết mình đã may mắn vượt qua.
Thứ ba, vạn pháp đều do tâm sinh. Nếu trong tâm thức bạn không có những hạt giống chiêu cảm 7 nạn (đất, nước, gió, lửa, đao binh, cướp bóc...) thì bạn sẽ không bao giờ gặp phải chúng. Chính vì chúng ta có nghiệp duyên nên mới phải đối mặt.
Khi bạn trì niệm, các hạt giống của 7 nạn và 3 độc đó sẽ được chuyển hóa dần dần. Đến khi gặp chuyện dữ, sự việc sẽ tự nhiên tiêu tan hoặc hóa lành. Người ta thường nói Quán Thế Âm Bồ Tát cứu bạn, nhưng kỳ thực, nói đúng hơn là tự bạn cứu lấy chính mình. Nếu bạn không niệm thì Bồ Tát cũng khó lòng cứu giúp.
Điều này giống như trời nắng ấm bên ngoài, nếu bạn không bước ra sưởi nắng thì mặt trời cũng không thể sưởi ấm cho bạn được. Quán Thế Âm Bồ Tát như vầng thái dương, Ngài chiếu sáng bình đẳng, không phân biệt nhưng muốn nhận được ánh sáng ấy, bạn phải tự mình niệm danh hiệu Ngài. Không bao giờ có chuyện không gieo nhân mà lại gặt quả.
Tại sao tôi lại chọn danh hiệu Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát để chia sẻ trong giai đoạn này? Bởi vì pháp tu này đơn giản, dễ dàng và có sự truyền thừa lâu đời. Phẩm Phổ Môn đã có mặt tại Việt Nam từ rất sớm cách đây hơn 1.700 năm, cha ông ta đã biết đến danh hiệu của Ngài. Từ đó đến nay, dù già hay trẻ, dù là vua chúa hay thường dân, ai cũng ít nhiều từng niệm qua một, hai lần hoặc biết đến Ngài.
Suốt cả ngàn năm qua, biết bao tiếng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát đã được cất lên trên mảnh đất này. Nguồn năng lượng đó vẫn còn lưu giữ mãi cho đến ngày nay và chưa bao giờ mất đi. Bao nhiêu người niệm đã được linh ứng, bao nhiêu người đã được ứng nghiệm, tất cả những điều đó tạo nên một trường năng lượng thiện lành bảo hộ cho xứ sở này. "Trớn" (đà) đã có sẵn nên khi chúng ta niệm sẽ rất dễ đắc lực.
Nếu như người Tây Tạng xem câu thần chú Om Mani Padme Hum là câu cửa miệng "quốc dân" mà ai ai cũng biết, ai ai cũng tụng, thì tôi nghĩ danh hiệu Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát chính là câu cửa miệng được truyền lại qua biết bao thế hệ người Việt cho đến ngày nay.
Có nhiều người cho rằng danh hiệu này quá đơn giản, không mang vẻ bí mật và thần diệu như các câu thần chú hay chân ngôn khác. Tuy nhiên, sự thật là cái gì càng đơn giản, càng đại đồng, càng phổ biến thì lại càng nhiệm màu và kỳ diệu. Rất nhiều thứ xung quanh ta đang chứng minh điều đó như: mặt trời, mặt đất, nước và cây cối. Tất cả những thứ ấy ngày nào ta cũng thấy, ai ai cũng cần, người người đều sử dụng, đến mức chúng ta thường phớt lờ và không mấy xem trọng. Chỉ cho đến khi mất đi một trong những thứ đó, ta mới thấu hiểu chúng quan trọng nhường nào.
Danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát cũng vậy. Tuy đơn giản, phổ biến và đại trà, nhưng nếu danh hiệu ấy mất đi, có lẽ chúng sanh sẽ không còn một chỗ dựa tinh thần vô cùng vững chãi.
-----
Ngày 12/10/2025
https://www.facebook.com/share/p/16d6tbtrCU/
Last edited by phoquang; 14-12-2025 at 01:05 AM.
Mẹo Dân Gian lưu truyền
Lưu lại khi cần 👇👇👇
1. Cách cai rượu:
Lấy 2 lạng hạnh nhân sống cùng một ít bột ngọt pha thành nước, sau đó ngâm hai ngày rồi nhỏ hai giọt vào rượu, cùng uống một ít, có thể cai rượu.
2. Cách cai thuốc lá:
Lấy một quả tân lang ( quả cau) ( k cần trầu không)
khoan một lỗ nhỏ, đổ một ít dầu thay thuốc lá vào lỗ đó, ngâm nước hai ngày rồi lấy ra để khô, khi muốn hút thuốc, chỉ cần ngửi một cái là không còn muốn hút nữa, ai ngửi cũng có thể cai thuốc lá.
3. Cách giải rượu:
Dấm, đường trắng, nước trà mỗi loại 100g, sau khi uống say, lập tức uống vào, có thể nhanh chóng tỉnh rượu, uống càng nhiều tỉnh càng nhanh.
4. Làm trắng răng:
Khi đánh răng, thêm một chút baking soda lên kem đánh răng, đánh ba lần răng sẽ trắng như ngọc, mảng bám tự nhiên rơi ra.
5. Cách khử hôi miệng:
Mỗi ngày nhai vài lá trà trong miệng ba lần, có thể giữ hơi thở thơm mát, ba ngày sau khử được hôi miệng.
6. Khản giọng phải làm sao:
Lấy 50g giấm tinh, 50g đường trắng, hòa với 250g nước nguội, khuấy đều rồi uống chậm rãi, một ngày là khỏi, bệnh nặng thì tối uống thêm hai lần.
7. Táo bón:
Lấy một đoạn hành to bằng ngón út, chấm ít dầu mè, rồi đưa vào hậu môn, kéo lên kéo xuống; nếu bị táo bón lâu năm thì dùng giấm tinh.
8. Bệnh vẩy nến:
Lấy nửa cân giấm gạo ngâm 1 lạng hạt thông đã bóc vỏ, ngâm hai ngày, mỗi ngày bôi ba lần, hiệu quả càng tốt hơn. Hoặc dùng một thìa bột vỏ quýt hòa với nửa thìa dầu mè rồi bôi.
9. Đau răng tuyệt chiêu:
Lấy nhân đào đốt nóng rồi cắn vào răng đau, làm vài lần sẽ không đau răng nữa.
10. Chảy máu cam:
Khi chảy máu cam nhiều, để bệnh nhân nằm ngửa, tay đối diện với bên mũi chảy máu giơ cao, huyệt vị sẽ tự động khép lại, máu lập tức ngừng.
11. Mắc xương cá:
Dùng giấm cũ súc họng, sau đó nuốt chậm, làm vài lần là khỏi.
12. Hôi chân, nấm chân:
Lấy một cân giấm gạo, đổ vào chậu, ngâm hoặc rửa chân, mỗi ngày hai lần, mỗi lần khoảng một giờ, có thể tiêu viêm sát khuẩn, chữa nấm chân, đơn giản và nhanh, nhẹ thì bốn ngày khỏi hẳn.
13. Điếc, ù tai sau bệnh:
Lấy nước tiểu mèo có mùi tỏi, nhỏ vào tai ba lần, mỗi lần hai giọt có thể chữa khỏi điếc sau bệnh. Ù tai có thể dùng da rắn nung thành tro, thổi vào tai, thổi ba lần là khỏi.
14. Kiểm soát tiểu đường phương pháp mới:
Lấy một cân hạt ngô tươi, thêm nước thích hợp, đun đến khi ngô nở bung, chia làm bốn lần, mỗi ngày uống một bát, phương thuốc này không chữa khỏi hẳn, chỉ kiểm soát bệnh, có thể hạ đường huyết. Người bị phù, tiểu nhiều dùng hiệu quả rất tốt.
15. Ngủ ngáy, nghiến răng:
Trước khi ngủ ngậm một miếng vỏ quýt trong miệng, ngậm 15 phút rồi nhổ ra, làm 3–5 lần sẽ khỏi ngáy và nghiến răng.
16. Hôi chân, ra mồ hôi chân:
Tán phèn chua thành bột mịn, xoa lòng bàn chân 10 phút, làm 3–4 lần, sau đó chân không còn ra mồ hôi, không hôi. Hiệu quả duy trì 7–8 tháng.
17. Động kinh (Dương cước phong):
Lấy một con giun đất, nửa lạng phèn chua, cho vào bát to, dùng nước sôi pha loãng, uống một bát mỗi sáng lúc đói, uống liên tục 10 ngày.
18. Viêm miệng:
Mỗi ngày sáng tối ăn một quả lê, nuốt chậm, giữ 3–4 ngày sẽ cải thiện ngay. Trường hợp nặng cũng có thể dùng cách này.
19. Bệnh mạch vành:
Lấy 50g đậu tương, luộc chín, thêm ít muối ăn nhiều, ăn liên tục 3–4 ngày, phương này giúp kiểm soát bệnh mạch vành không tiến triển, rất hiệu quả, khi phát bệnh cũng dùng phương này.
20. Chữa đau nửa đầu:
Dùng vỏ củ cải trắng dán lên hai bên huyệt Thái Dương mỗi tối 20 phút, hiệu quả nhanh, hết đau đầu thì không cần dán nữa, phương này chủ trị chóng mặt, đầu căng tức.
21. Chữa bệnh trĩ (phương thuốc dân gian):
Lấy 3 lạng urê, cho vào chậu, dùng nước sôi hòa tan, nhúng khăn vào cho ướt rồi vắt khô, đặt lên ghế ngồi xông. Mỗi lần 10 phút, mỗi ngày 3 lần, xông liên tục 7 ngày. Có thể chữa trĩ nội, trĩ ngoại, chảy máu, sa hậu môn.
22. Gọi sữa nhanh:
Vừng rang chín, thêm ít muối, tốt nhất nên ăn trước khi sinh 10 ngày, ăn kèm bữa cơm như món phụ, có thể nhanh chóng tăng sữa, ăn càng nhiều sữa về càng nhanh.
23. Chữa mất ngủ (mẹo nhỏ):
Cắt nhỏ phần trắng của hành, để vào đĩa nhỏ, đặt cạnh gối trước khi ngủ, sẽ ngủ yên giấc, liên tục vài ngày có thể khỏi hẳn. Người mất ngủ lâu năm, chỉ cần áp dụng 5 ngày là khỏi.
24. Bệnh tim:
Mỗi sáng và tối ăn 50g dứa, ăn 5–7 ngày hiệu quả tốt nhất, khoảng 2 năm không tái phát, nếu phát bệnh lại, tiếp tục ăn lần nữa. Người bệnh nặng mỗi ngày ăn 2 lần, có thể ổn định bệnh tình.
25. Suy giảm thị lực phải làm sao:
Lấy vỏ hạnh khô, xé nhỏ, làm gối nhỏ, có thể giúp sáng mắt, dưỡng thần. Có hiệu quả nhất định với giảm thị lực, chảy nước mắt khi gặp gió, cận thị, viễn thị.
26. Nứt da tay chân:
Dùng cao dán phong thấp dán lên chỗ bị nứt, sau một ngày bóc ra sẽ lành, trăm lần như một.
27. Viêm da (mẹo nhỏ):
Lá mướp rừng vò nát, chà lên vùng bị bệnh đến khi đỏ, mỗi 7 ngày chà một lần, làm 3 lần là khỏi; bệnh nặng làm 6 lần sẽ khỏi hẳn.
28. Viêm mũi:
Dùng bông gòn thấm một giọt dầu mè, đặt vào mũi 15 phút rồi lấy ra, liên tục 2–3 ngày, mỗi ngày 3 lần; bệnh nặng tăng thêm 2 lần. Cũng có thể ngâm tỏi với giấm rồi nhét vào mũi.
29. Cao huyết áp:
Lấy 2 lạng rong biển tươi, nấu thành một bát canh rong biển, không cho rau khác vào, sáng sớm uống khi đói, uống liên tục 10 ngày sẽ phục hồi huyết áp bình thường.
30. Thận hư:
Đậu khấu tươi 100g, thêm nước nấu nhừ, cho ít muối, uống trước mỗi bữa cơm, liên tục 3–5 ngày sẽ phục hồi sức khỏe. Nếu thường xuyên ăn, có tác dụng tăng cường thể lực.
31. Cách tẩy nám, đốm trên mặt:
Hạnh ngâm nước cho mềm, bóc vỏ, giã nhuyễn thành bột, thêm một lòng trắng trứng gà khuấy đều, mỗi tối bôi trước khi ngủ, sáng hôm sau rửa bằng rượu trắng, làm đến khi vết nám mờ.
32. Chữa bệnh dạ dày (dân gian):
Lấy 20 vỏ trứng gà đỏ, đặt lên ngói, hơ khô, tán bột mịn, uống với nước đường, trước bữa ăn uống một thìa nhỏ, ngày 2 lần, uống hết là được. Phương thuốc này rất quý, đồng thời có tác dụng bổ sung canxi và chữa bệnh còi xương.
33. Chấn thương bầm tím:
Hẹ giã nát, thêm một ít nước tiểu trẻ nhỏ, đắp lên chỗ bị thương, vài giờ là hết sưng, 3 ngày sau phục hồi bình thường.
34. Giảm béo nhanh:
Mua 2 lạng trà Ô Long ở cửa hàng quốc doanh, uống trong một tuần, trà Ô Long có thể nhanh chóng hòa tan mỡ, thúc đẩy chuyển hóa mỡ, đạt hiệu quả giảm cân, đồng thời phòng ngừa béo phì (trà phải đặc).
35. Bí quyết trường thọ:
Thường xuyên vận động, không nóng giận, không lo lắng, hằng năm nên ăn nhiều tỏi ngâm đường, tỏi ngâm đường là phương thuốc tốt nhất kéo dài tuổi thọ, có thể tiêu diệt nhiều loại vi khuẩn có hại trong cơ thể.
36. Kinh nguyệt không đều:
Lấy 2 lạng lá Tô Tử (lá tía tô), ngâm nước nóng rồi uống, người nhẹ chỉ cần uống 4 chén là được, người nặng uống nhiều ngày, có tác dụng điều kinh, an thần, đặc biệt hiệu quả với đau bụng kinh, lạnh bụng, kinh nguyệt không đều.
37. Tóc bạc sớm:
Lấy 500g vỏ sò điệp (canh bối) sắc nước gội đầu, mỗi ngày một lần, liên tục 6–8 lần, tóc mọc lại đen và dày, nếu tóc bạc nhiều thì gội thêm vài lần.
38. Da thô ráp trở nên mịn:
Mỗi tối dùng một lòng trắng trứng gà xoa mặt, sau một giờ rửa sạch bằng nước, nếu làm thường xuyên, da sẽ ngày càng mịn.
39. Viêm quanh khớp vai, đau lưng chân, đau thần kinh tọa, thoát vị đĩa đệm:
Lấy 7 con thổ nguyên (bọ xít đất) nung thành tro, 7 lạng rượu vàng, cho chung vào chai, ngâm 7 ngày 7 đêm, mỗi tối lúc 7 giờ uống 7 tiền rượu vàng, đồng thời dùng nắm tay vỗ mạnh lên chỗ đau 7×7=49 lần hoặc 9 lần, bệnh nặng uống nhiều liệu trình sẽ khỏi.
40. Lao phổi (phương thuốc dân gian):
500g kén tằm sống, hơ khô, tán thành bột mịn, mỗi lần uống 3–5g, ngày 2 lần, uống hết là được, hiệu quả rất tốt, phương thuốc này do Viện Nghiên cứu Trung Y Trung Quốc cung cấp.
41. Chữa đau khớp (viêm khớp):
Lấy rơm lúa đốt thành tro, cho vào túi nhỏ, chỗ nào đau thì dán vào đó, mỗi tối dán 1 giờ, dán 3 lần sẽ khỏi. Phương này vừa đơn giản, vừa hiệu quả, có cải thiện rõ rệt với đau lưng, đau chân.
42. Hôi nách:
Dùng 100g giấm gạo, 5g bột hồi hương, trộn đều, bôi nhiều lần dưới nách, hôi nách sẽ biến mất ngay.
43. Ngứa phải làm sao:
Lấy một lát gừng tươi, chà vào lòng bàn chân, nam chà bên trái, nữ chà bên phải, mỗi lần chà 10 phút.
44. Tăng sinh xương (gai xương):
Lấy 4 ống xương ống cừu, đốt bằng củi to đến khi cháy vàng, sau đó nghiền thành bột, mỗi tối sau bữa cơm uống với 1–2 lạng rượu vàng, dùng liên tục vài lần.
45. Nuốt phải vật kim loại:
Lấy hẹ xào chín, nuốt từng miếng to, vật sẽ theo phân ra ngoài. Với mảnh kính vỡ, sau khi nuốt phải cũng có thể dùng phương này.
46. Tay chân tê dại:
Nấm mèo đen đã ngâm, nhân đào, mật ong mỗi thứ 120g, giã nhuyễn, để vào bát hấp nóng, chia ăn hết trong 4 ngày, sẽ khỏi tê dại vĩnh viễn. Phụ nữ mang thai cấm dùng.
47. Rụng tóc, gàu:
Lấy rễ cải thảo, rửa sạch, thái lát, cho vào nồi gang thêm đủ nước, đun sôi rồi thêm giấm tinh, dùng để gội đầu, liên tục 7–8 ngày, tóc sẽ mềm mượt, bóng đẹp, gàu biến mất nhanh, không rụng tóc.
48. Chữa nấm móng (móng tay/móng chân bị mốc):
Tỏi vỏ tím giã nhuyễn, thêm ít phèn chua trắng, bôi lên móng bị bệnh, không bôi quá dày, dùng nilon bọc kín móng, nilon có tác dụng che sáng tốt, chỉ cần 7–8 ngày, cảm giác căng tức là khỏi.
49. Tẩy giun đũa:
Hạt bí đỏ (bóc vỏ giữ nhân) 50–100 hạt, nghiền nát, thêm nước và đường vừa đủ, khuấy thành hồ, uống lúc đói một lần sẽ khỏi. Phương này có thể tẩy nhiều loại ký sinh trùng ở trẻ em.
50. Viêm tuyến vú:
Lấy một miếng nhỏ cây xương rồng, giã nát, thêm 3 giọt dầu mè, đắp lên chỗ bị bệnh.
51. Chữa mắt cá chân (chai chân):
Lấy một miếng băng dính, cắt lỗ nhỏ giữa, dán lên mắt cá, lỗ trùng với mắt cá, rồi rắc ít bột urê (phân hóa học) lên mắt cá, dán thêm miếng băng dính khác đè lên, 3 ngày thay một lần, thay 6 lần, mắt cá tự tiêu biến.
52. Viêm tiền liệt tuyến:
Táo khô 3 lạng, gan gà trống 3 cái, hầm nhừ, ăn cả nước lẫn cái, uống liên tục 3 lần.
53. Thấp khớp dạng thấp:
Lấy cành dâu non, bao nhiêu cũng được, thái nhỏ, trộn ít rượu, xào vàng, thêm nước sắc uống, sáng tối mỗi lần 1 chén, uống liên tục có hiệu quả.
sưu tầm
https://www.facebook.com/share/p/1DAJZrCAb8/
There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)
Bookmarks