Sau đó, hành giả tập trung vào ánh sáng hoàn toàn thanh tịnh.
12. Ánh sáng sau đó tụ họp trở lại vào tim bạn
Rồi từ từ giảm dần cường độ cho đến khi
Tâm trí bạn nghỉ ngơi trong trạng thái trống rỗng
Không tập trung vào bất cứ điều gì
Tâm trí bạn sẽ ở trạng thái trống rỗng, trong trẻo và minh mẫn
Sáng tỏ tự nhiên thoát khỏi mọi tạo tác hóa hiện.
Toàn bộ biểu lộ của ánh sáng được thu rút từ bốn luân xa quay trở lại luân xa tim của hành giả và ngày càng trở nên vi tế và thanh nhã hơn. Sau đó, anh ta nghỉ ngơi trong trạng thái đó, như chính không gian, chẳng tồn tại như bất cứ thứ gì cả. Nhờ đó, tính giác trong trẻo và rõ ràng, không pha trộn, không do tạo dựng, và không bị giới hạn, sẽ biểu lộ. Đây là trí tuệ bản nguyên, tự phát sinh, sáng chói và trống rỗng.
Tính quang minh vừa phát sinh đã được xác định.
13.Đó là trí tuệ ban sơ
Sáng chói và trống rỗng, không bị chế định.
Đó là phương thức căn bản của hiện tồn
Của Đại Toàn Thiện tự nhiên.
Trạng thái trong suốt sáng tỏ này, không pha tạp, không tạo tác, là pháp nền tảng cho sự tồn tại của Đại Toàn Thiện. Như được nói trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể:
Thoát khỏi sự vận hành tinh thần,
Không có các đặc điểm,
Đó là trạng thái
Của tính sáng tỏ tự phát sinh.
Những kinh nghiệm sau đây là kết quả của thiền định này.
14. Khi quen với thiền như vậy
Bốn kinh nghiệm sẽ biểu hiện
Bạn sẽ nghĩ những thứ xuất hiện
Là khó nắm bắt, trong suốt, và không bị ngăn trở.
Ánh sáng sẽ tràn ngập ngày và đêm của bạn
Tâm trí sáng suốt và minh mẫn của bạn sẽ không bị các suy nghĩ lay động
Và thoát khỏi tính nhị nguyên của người nắm bắt và đối tượng được nắm bắt.
Tri thức sẽ dâng trào từ bên trong
Thông qua thiền định về các luồng khí (tính sáng), ba kinh nghiệm sẽ xuất hiện. Bạn sẽ có ấn tượng rằng các hiện tượng là không thể nắm bắt và thuộc về sự mở rộng không bị cản trở. Đêm và ngày sẽ sáng rực rõ ràng. Suy nghĩ sẽ dừng lại, trạng thái tâm trí trong suốt và rõ ràng sẽ xuất hiện. Cuối cùng, kinh nghiệm đạt được thông qua nhận thức được duy trì liên tục về tính giác sẽ xảy ra: tính nhị nguyên của chủ thể nhận thức và đối tượng được nhận thức sẽ biến mất, và sự thông hiểu rộng lớn sẽ biểu lộ trong một tâm trí linh hoạt và mẫn tiệp.
Những phẩm chất có được từ phương pháp thiền này như sau.
15. Thông qua việc tăng cường thói quen
Thiên nhãn trí sẽ xuất hiện
Bạn sẽ phát triển quyền năng của linh ảnh
Nhận thức được các đối tượng siêu tinh thần
Ngay cả khi chúng bị che khuất bởi những vật khác
Bạn sẽ có được quyền năng thực hiện các phép màu
Sự giới thiệu bản tính của tâm
Bằng phương tiện của tính sáng tỏ là tinh hoa
Của những chỉ dẫn sâu sắc nhất.
Thông qua tu luyện yoga về khí, hành giả sẽ đạt được sự chú tâm, nhờ đó, kiến thức siêu nhiên sẽ biểu lộ. Hành giả sẽ có được các quyền năng về linh ảnh, chẳng hạn như khả năng nhìn thấy mọi thứ ngay cả khi chúng bị che khuất bởi một bức tường. Ngoài ra hành giả sẽ có được các thần thông. Như đã nói trong kinh Bát Nhã Tóm Lược:”Thông qua định, bồ tát sẽ tránh xa những thú vui thấp hèn của các giác quan và sẽ sở đắc các thắng trí, xuất thế gian trí và sự chú tâm”.
Bây giờ có một lời dạy liên quan đến trí tuệ nguyên thủy vô niệm, trống rỗng và tỉnh giác, trong đó các giai đoạn thiền định về phương tiện thiện xảo của vô niệm được giải thích. Nói chung, việc thành tựu trạng thái vô niệm nhờ tập trung vào sự gia tăng kích thước của vùng bên trong trung mạch tương tự như hai thực hành trước. Cụ thể hơn, thông qua ba giai đoạn thúc đẩy, tập trung và tinh chỉnh, hành giả tiến hành theo các điểm đặc biệt của tính giác, rồi bằng phường tiện này, hành giả được đưa vào trạng thái vô niệm nhanh chóng và trực tiếp.
(Một mô tả được đưa ra lúc này về kỹ thuật đầu tiên, kỹ thuật đẩy).
16. Thứ ba, thông qua phương tiện thiện xảo của vô niệm
Bản tính của tâm được giới thiệu
Hãy thiền như trước đây về các pháp sơ bộ.
Sau đó thực hiện ba điểm của thực hành chính thức:
Đẩy mạnh, tập trung và sau đó là tinh chỉnh
Thực hành đẩy mạnh như sau:
Quán tưởng trong tim bạn
Tâm trí bạn nghỉ ngơi, sáng ngời tự nhiên
Có một chữ A hoặc một quả cầu ánh sáng
Kích thước bằng ngón tay cái của bạn
Sau đó đọc HA một cách mạnh mẽ
Hai mươi lần
Quán tưởng rằng chữ cái được
Phóng thẳng lên đỉnh đầu bạn
Càng lúc càng cao hơn lên bầu trời phía trên
Cho đến khi nó biến mất khỏi tầm nhìn
Thư giãn cả tâm trí và cơ thể thật sâu
Và duy trì trạng thái thiền định quân bình
Dòng tư tưởng ngay lúc đó sẽ dừng lại, và bạn sẽ được nghỉ ngơi
Trong một trạng thái không thể diễn tả bằng lời nói hay ý niệm.
Một kinh nghiệm vượt ngoài tầm suy nghĩ
Nơi không có gì để thấy.
Sau đó, hành giả nên tiếp tục thiền định như trước (về các kinh mạch, vân vân) cho đến ranh giới trống rỗng của trung mạch. Sau đó, một quả cầu ánh sáng năm màu kỳ diệu bắn ra từ đỉnh đầu và đi vào không gian, ngày càng cao hơn, cho đến khi nó trở nên vô hình. Tiếp theo, hành giải phải đọc mạnh âm tiết HA hai mươi mốt lần, rồi thư giãn cơ thể và tâm trí.48 Khi đó, tính sáng vượt ngoài suy niệm và ngôn từ, siêu việt mọi mô tả, sẽ xuất hiện. Hành giã cũng sẽ trải nghiệm một trạng thái như không gian, vượt ngoài tầm biểu đạt khái niệm.
Kỹ thuật thứ hai bây giờ được mô tả: tập trung vào tính giác của hành giả.
17. Bây giờ đến giai đoạn tập trung tỉnh giác
Quay lưng về phía mặt trời
Hướng mắt lên bầu trời trong trẻo
Yên lặng và để hơi thở thư giãn
Cho đến khi bạn không còn cảm thấy chuyển động của nó nữa
Và từ bên trong trạng thái vô niệm
Tự do khỏi tạo tác sẽ xuất hiện
Một kinh nghiệm thiền về tính không như không gian
Sẽ nảy sinh.
Khi bầu trời hoàn toàn trong xanh, hành giả nên ngồi quay lưng về phía mặt trời và tập trung vào bầu trời với ánh mắt bất động. Hành giả nên để hơi thở của mình trôi chảy nhẹ nhàng. Trong khoảnh khắc hơi thở được giữ ở bên ngoài, minh không sẽ xuất hiện. Hành giả sẽ có kinh nghiệm về trạng thái tâm trí trong suốt và rộng mở, như bầu trời, không giới hạn hay thiên lệch. Vì như đã nói: “Ngoài sao, trong vậy”: các phạm vi bên ngoài và bên trong phụ thuộc lẫn nhau.
Lúc đó, cái thấy về “ba không gian” sẽ xuất hiện. Trên cơ sở không gian bên ngoài trong trẻo và trống rỗng (bầu trời), không gian bên trong không có tạp niệm sẽ xuất hiện. Khi điều này xảy ra, không gian bí mật vô ngại và thâm nhập toàn thể, tính giác trần trụi rỗng rang, sẽ được chứng ngộ, được nhận thức thông qua pháp thiền được phú cho các phương tiện thiện xảo và phúc lành. Đây là một chỉ dẫn vô cùng sâu sắc của vị thầy người Nepal Kamalasila.
Cuối cùng, kỹ thuật thứ ba được mô tả: tinh chỉnh mọi thứ thành tính giác trần trụi.
18. Sau đó, không xao lãng, cố định ánh mắt chăm chú của bạn lên trời
Và trong trạng thái tinh thần sáng suốt
Nơi mà những ý nghĩ không phát triển hay tan biến,
Hãy thiền, quán chiếu rằng đất và đá
Những ngọn đồi, vách đá
Vũ trụ và chúng sinh trong toàn thể của chúng
Trở nên giống như không gian, một sợ mở rộng không bị cản trở
Bạn không có sự nắm bắt
Ngay cả thân thể bạn như một hình tướng thô thiển, có thật
Hãy an trú trong trạng thái mà không gian và tâm trí bạn
Không thể phân biệt được
Không có sự nhìn nhận về thế giới bên ngoài hay bên trong
Hoặc cái gì đó ở giữa
Và trong trạng thái không gian đó
Hãy thư giãn thật sâu cơ thể và tâm trí bạn
Ký ức và suy nghĩ, mọi chuyển động tinh thần
Đều tự nhiên dừng lại
Với vô niệm lan tỏa và tan biến
Tâm trí vẫn ở trong tình trạng tự nhiên của nó
Trạng thái tối hậu của các hiện tượng
Và tâm trí vượt trên mọi ý niệm và ngôn từ
Vào thời điểm đó, là không hai
Một sự chứng ngộ giống như không gian giờ đây ló rạng
Đây là bản tính tinh hoa của các Đấng Chinh Phục
Từ quá khứ, hiện tại, đến tương lai.
Khi sự tỉnh giác của một người hướng vào bầu trời, bầu trời sẽ trở nên rộng rãi và trống rỗng, vào này, người đó sẽ cảm thấy mọi quang cảnh bên ngoài, đất và đá, núi, vách đá, vân vân, chung quy, toàn thể vũ trụ cùng cư dân của nó trở nên hoàn toàn phi vật chất. Chúng tan biến vào trạng thái rộng mở và hội nhập với chính không gian. Ngay cả cơ thể cua chính mình cũng tự nhiên tan biến và trở thành như chính không gian. Mọi thứ giống như những đám mấy tan vào bầu trời. Tâm trí, thoát khỏi vận hành của những suy nghĩ, lắng đọng trong trạng thái tỉnh thức thâm sâu, quảng đại, bao trùm toàn thể, trong đó không có phạm vi bên ngoài hay bên trong, cũng chẳng có bất cứ chiều kích nào ở giữa. Sự chứng ngộ thoát khỏi những cực đoan, giống như không gian, tự nhiên hiển lộ. Trạng thái này được biết đến là nhận ra sự cạn kiệt của các hiện tượng trong tính thanh tịnh bản nguyên. Như đã nói trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể: “Yoga này giống như thiên đạo của loài chim”. Còn Bát Nhã Ba La Mật Tóm Lược nói: “Muốn biết điều này là gì, hãy thẩm tra không gian thanh tịnh”.
Những kinh nghiệm có được từ phương pháp thiền định này như sau.
19. Khi bạn thiền như vậy
Bốn kinh nghiệm xảy ra
Mọi hiện tượng dường như không thực chất
Vì bạn không có cảm giác về vật chất thô
Cả ngày và đêm bạn không rời khỏi trạng thái vô niệm
Vì năm độc tự nhiên lắng dịu
Dòng tâm thức của bạn sẽ mềm mại nhẹ nhàng
Bạn sẽ nếm trải bảnh tính rộng lớn của mọi thứ.
Nhờ làm quen với ba yếu tố thúc đẩy, tập trung va tinh chỉnh này, nhiều kinh nghiệm khác nhau liên quan đến trung mạch và bản chất của tính giác sẽ xuất hiện. Biết rằng mọi thứ xuất hiện đều khó nắm bắt, không thể nắm bắt và không có thực chất, người ta sẽ không còn nhận thức về mọi vật như là thô và vật chất nữa. Người đó sẽ duy trì cả ngày lẫn đêm trong trạng thái không có sự vận hành của ý niệm. Phiền não không thể phát sinh, trong bất kể hoàn cảnh nào, người đó sẽ không có hy vọng và sợ hãi. Dòng tâm thức của người đó sẽ mềm mại và nhẹ nhàng. Hiểu rằng mọi hiện tượng đều không sinh như không gian, người ta sẽ không thực hiện các hành động cố ý và chẳng tốn công để lưu ý về chúng.
Những phẩm chất có được từ việc quen thuộc với vô niệm như sau.
20. Thông qua tu luyện kỹ thuật thứ ba này về vô niệm.
Bạn sẽ đắc quyền năng linh ảnh và thần nhãn
Sự tập trung và nhiều phẩm chất khác.
Thông qua sự hợp nhất của phương tiện thiện xảo và trí tuệ
An trú tĩnh lặng và nội quán sâu sắc
Bạn sẽ đạt được cho bản thân và người khác
Các mục tiêu trước mắt và cuối cùng.
Nhờ tu tập trong phương pháp thiện xảo thứ ba (vô niệm), người ta đạt được sự chú tâm thiền định. Những quyền năng của linh ảnh, kiến thức siêu nhiên và một dạng tập trung mà trước đây chưa từng được biết đến, cùng với con đường hợp nhất giữa phương tiện thiện xảo và trí tuệ, cùng với con đường hợp nhất giữa an trú tĩnh lặng và tuệ quán sâu xa, sẽ được thành tựu. Nhờ đó, những nền tảng và con đường tạm thời cũng như tối hậu cùng tất cả những phẩm chất tuyệt diệu sẽ được thành tựu.
Đến đây kết thúc phần nói về các giai đoạn thực hành thiền định thực sự, hay chủ đạo.
Bây giờ chúng ta tới phần kết luận thứ ba, đó là phần hỗ trợ nhữ áo giáp phụ trợ cho thực hành chính. Đây là mục tóm lược.
21. Trong phần giải thích kết luận
Bốn chủ đề được thảo luận:
Các kinh nghiệm trong thiền
Tăng cường, chứng ngộ và thành quả.
Sau lời giải thích ngắn gọn này là lời giải thích chi tiết hơn.
Đầu tiên trong bốn chủ đề là mô tả về những kinh nghiệm sai lầm (có thể xảy ra trong quá trình thiền định).
22. Các kinh nghiệm thiền có hai loại:
Những thứ không có khuyết điểm đã được thảo luận ở trên.
Thứ có khuyết điểm đến từ sự dính mắc và bám chấp
Về hỷ lạc, sáng tỏ, vô niệm
Những thứ này bao gồm việc bám víu vào những kinh nghiệm
Hỷ lạc, sáng suốt, vô niệm.
Khi xem xét những kinh nghiệm như vậy
Như các đối tượng tự thân
Khi bám chấp vào chúng một cách sai lầm
Và trộn chúng với chất độc
Hỷ lạc sai lệch báo hiệu dục vọng thô tục
Hao tổn tinh khí gây ra
Hầu hết sự bất mãn và ngu độn.
Tính sáng sai lệch ám chỉ sự nhiễu loạn điên cuồng
Của khí và những cơn giận thông thường .
Nó chủ yếu dẫn đến sự lan truyền
Những ý nghĩ thô tục hoặc kích động.
Vô niệm sai lệch là trạng thái vô minh thông thường,
Chủ yếu bao gồm trạng thái trì trệ tinh thần
Buồn ngủ, uể oải,
Trạng thái trống rỗng trong tâm trí.
Khi những trạng thái sai lệch
Hoặc những trải nghiệm khiếm khuyết như vậy xảy ra,
Bạn phải xác định chúng
Và dùng pháp đối trị để tu sửa chúng.
Nhờ tu luyện theo cách mô tả ở trên, những kinh nghiệm thiền định sẽ xảy ra, có thể là tốt hoặc xấu. Các kinh nghiệm tốt đã được mô tả. Những kinh nghiệm xấu thì vô hạn, nhưng tóm lại chúng có ba loại, kết quả từ việc sai lầm dính mắc và kẹt vào hỷ lạc, sáng tỏ và vô niệm.
Khi thiền về hỷ lạc, hành giả dính mắc vào nó. Nghĩ rằng bản tính của tâm là lạc không, anh ta tập trung mạnh mẽ vào chính lạc không. Nghĩ rằng, ngoài thiền định về hỷ lạc như vậy, mọi thứ khác đều là con đường sai lầm. Anh ta coi đó là mục đích tự thân. Anh ta không nhận ra rằng hỷ lạc được trộn lẫn với thuốc độc của dục vọng. Đây là năm triền cái có liên hệ với các pháp đối trị.49 Ngoài ra còn có năm khuyết điểm cần bị loại bỏ. Kinh nghiệm sai lầm về hỷ lạc có hại cho giọt tinh chất và dẫn đến thất thoát giọt tinh hoa. Một dục vọng quá mức phát sinh sẽ dẫn đến việc mất đi sức mạnh. Khi giọt tinh hoa bị xuất tiết, cảm giác buồn chán phát sinh. Vì những giọt tinh túy bị khuấy nhiễu và đục ngầu, tâm trí chìm xuống và trở nên uể oải. Cuối cùng, người ta trở nên dính mắc chặt chẽ vào đối tượng ham muốn của mình.
Khi thiền về khí (ánh sáng), một lần nữa hành giả phải đấu tranh với năm triền cái liên quan đến pháp đối trị. Hành giả bị dính mắc vào trạng thái sáng, anh ta kẹt trong bản tính của tâm là quang và không, anh ta từ bỏ mọi con đường khác, coi kinh nghiệm về ánh sáng chính là chung cuộc, và anh ta không biết rằng kinh nghiệm về ánh sáng bị nhiễm độc bởi sân hận. Ngoài ra còn có năm khuyết điểm cần được loại bỏ. Đây là thực tế về ánh sáng sai lạc, thứ nhất, có hại có các luồng khí, khiến chúng trở nên cực kỳ hỗn loạn, thứ hai, nó khiến một dạng tức giận tầm thường bùng nổ, thứ ba, nó khiến những suy nghĩ của ta trở nên thô thiển, thứ tư, nó khuấy động các luồng khí và làm nhiễu loạn sự lưu thông của chúng, và thứ năm, nó dẫn đến một tình huống mà ta không còn muốn ở lại cùng một nơi nữa.
Khi hành giả thiền về vô niệm, anh ta dính mắc vào trạng thái không có ý niệm, anh ta kẹt vào bản tính của tâm như là hoàn toàn trống rỗng; quay lưng lại với mọi con đường khác, anh ta coi trạng thái trống rỗng đó là mục đích tự thân, và anh ta không biết trạng thái vô niệm bị ô nhiễm bởi chất độc của tính vô minh. Sau đó, đây là năm triền cái liên quan đến pháp đối trị. Sau đó có năm khuyết điểm cần bị loại bỏ. Một kinh nghiệm sai lệch về vô niệm sẽ gây hại cho trạng thái không suy nghĩ (của nhận thức phi khái niệm). Trạng thái trống rỗng này của tâm trí trở thành trạng thái vô định của tính vô minh tầm thường. Nó buồn tẻ vì không có tính sáng suốt, nó mịt mờ vì không minh mẫn. Do không bị loại bỏ, trở thành sáng trần trụi, tâm trí chỉ trống rỗng. Trong trạng thái hoàn toàn trống rỗng của tâm trí, trống rỗng và không tỉnh giác, mọi vận hành của nhận thức đều dừng lại.
Tóm lại, điều này dẫn đến ba mươi kinh nghiệm sai lầm. Đối với phương pháp thông thường để sửa chữa chúng, điều cần thiết là phải xác định từng kinh nghiệm và áp dụng pháp đối trị tốt nhất theo từng trường hợp. Điều này dễ hiểu. Tuy nhiên, có một cách phi thường mà qua đó những kinh nghiệm sai lệch này được sửa chữa bằng một điểm then chốt duy nhất, đó là nhận ra tính giác của hành giả. Sau khi xác định được bất kỳ trở ngại nào phát sinh, hành giả nên, với lòng sùng kính và cầu nguyện mạnh mẽ tới đạo sư của mình, cầu xin phúc lành của người đó. Sau đó, hành giả nền tìm kiếm nguồn gốc của chướng ngại, nơi nó trú ngụ, và người bị tổn hại vì nó. Và khi không tìm thấy gì, hành giả nên nghỉ ngơi trong trạng thái sáng suốt của tâm tỉnh giác tươi mới rộng mở trần trụi. Vào thời điểm đó, mọi kinh nghiệm sai lệch sẽ lắng xuống trong sự tỏa rạng của tính giác, và khi đó anh ta trở thành cái được gọi là “hành giả nhận ra các chướng ngại chính là thành tựu”. Vì thực ra, tất cả những gì biểu hiện, mọi thứ xảy ra, mọi sai lệch và mọi phẩm chất chỉ là sự hiển lộ của tính giác, không có gì khác. Khi hành giả khỏe mạnh, đây là sự hiển lộ của tính giác, khi anh ta không vui, đây cũng là tính giác, khi anh ta ốm đau, đây là tính giác.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks