ĐIỂM KIM CƯƠNG THỨ BA
Giảng nghĩa giáo lý thực hành
Bài bình giảng bắt đầu bằng phần giới thiệu ngắn gọn.
1. Bài giảng thực hành có ba phần: mở đầu, phần chính và kết luận.
Mỗi giai đoạn này, phần chuẩn bị, phần chính của bài giảng, và phần kết luận, sẽ được giải thích chi tiết.
2. Giáo lý sơ bộ được trình bày trước tiên.
Các pháp sơ bộ bên ngoài là hiểu biết
Về vô thường và không còn mê muội vào luân hồi.
Những điều này nhổ tận gốc rễ từ sâu thẳm trong tâm trí
Mọi thứ bám dính vào cuộc sống này.
Các bước chuẩn bị cụ thể là
Lòng từ và thái độ bồ đề tâm mà nhờ đó
Mọi thực hành đều được chuyển hóa vào con đường Đại Thừa.
Vì vậy, để bắt đầu, hãy tu tập những pháp sơ bộ này.
Bất kể thiền định theo cách nào trên con đường Đại thừa, điều quan trọng ngay từ đầu là cần suy ngẫm rằng cuộc sống của mình là vô thường và luân hồi là trạng thái đau khổ. Sau đó, liên quan đến điều này, người ta nên vun trồng lòng từ và thái độ giác ngộ của bồ đề tâm, tức là nghĩ rằng mình sẽ tự đạt được quả vị Phật vì lợi ích của chúng sinh. Điều này là cần thiết vì khi người ta nhận ra rằng cuộc sống là vô thường, họ sẽ không trì hoãn việc thực hành của mình, và việc thừa nhận rằng luân hồi là trạng thái đau khổ sẽ phá vỡ sự bám chấp của người ta vào cuộc sống này. Thông qua việc vun trồng lòng từ bi vô tư, người ta sẽ không rơi vào thái độ của Tiểu thừa; và bằng cách rèn luyện bồ đề tâm, người ta sẽ nhanh chóng đạt đến giác ngộ.
Những điểm đặc biệt của Đại thừa là phương tiện thiện xảo của từ bi kết hợp với trí tuệ, nhờ đó người ta sẽ không ở trong bất cứ cực đoan nào trong hai cực đoan. Như được nói trong kinh Bát Nhã Ba La Mật Rút Gọn: “Nếu không có phương tiện thiện xảo và trí tuệ, người ta sẽ rơi vào con đường của các Thanh Văn”. Và còn nói thêm trong kinh Ratnavali:
Tính không được phú cho tinh túy của lòng từ:
Đó là thực hành của những người muốn giác ngộ.
Và Abhisamayalamkara nói thêm:
Nhờ trí tuệ mà không ở lại trong luân hồi
Cũng nhờ từ bi mà không ở lại trong an lạc niết bàn.
Đạo lộ thiếu phương tiện thiện xảo thì dài
Nhưng có phương tiện thiện xảo thì không dài.
Và trong Doha có nói rằng:
Những người ôm lấy tính không mà không có từ bi
Không tìm thấy con đường tối thượng.
Những người chỉ nuôi dưỡng từ bi
Ở lại trong luân hồi này họ sẽ không đạt được giải thoát
Những người có thể kết hợp hai điều này
Không sống trong luân hồi cũng chẳng ở trong niết bàn.
Những bước chuẩn bị căn bản như sau.
3. Những pháp sơ bộ sau đây vượt trội hơn nhiều
Với mọi quán đỉnh được nhận
Bạn thực hành hai giai đoạn: phát sinh (và thành tựu)
Bạn nhận thức thân thể mình như một thần bản tôn
Như những vị thần của vũ trụ và chúng sinh
Nhờ vậy bạn lật đổ sự dính mắc vào tồn tại đích thực
Về những gì thường được nhận thức.
Nhờ thực hành trên con đường sâu sắc của guru yoga
Phúc lành vô biên sẽ phát sinh
Nhờ lòng từ mạnh mẽ của thầy
Những chướng ngại được xua tan
Và hai thành tựu đạt được
Vì vậy, theo các pháp sơ bộ bên ngoài và đặc biệt
Hãy thiền về hai pháp cao hơn.
Khi quán đỉnh đã được thọ nhận đúng cách, trước tiên người ta thực hành các giai đoạn phát sinh và thành tựu. Đây được coi là bước vào trình độ căn bản của tư lương đạo 38 sự khởi đầu trên con đường giải thoát. Do đó, quán đỉnh là nền tảng của con đường.
Khi điều này được tiếp nhận, con đường thực tế được mô tả, trong Mật thừa thông thường như thiền định “trên một chỗ ngồi duy nhất” trên các giai đoạn kết hợp giữa phát sinh và thành tựu. Tuy nhiên, trong bản chú giải hiện tại, phù hợp với Đại Toàn Thiện, quán tưởng một vị thần bản tôn, cùng với đạo sư yoga và sau đó là yoga vi tế của các kinh mạch, khí và giọt tinh hoa,39 đều được phân loại là khái niệm, thấp hơn, giai đoạn thành tựu, và được dạy như là các pháp chuẩn bị cho con đường của Đại Toàn Thiện. Sơ đồ chung này có thể được mô tả ngắn gọn trước tiên là ban quán đỉnh mang lại sự trưởng thành và thứ hai là các giai đoạn phát sinh, thành tựu mang lại giải thoát. Như được nói trong mật điển Bình Minh của Ánh Sáng Bất Hoại:
Nhiều lời dạy được ban ra
Bởi đức Kim Cang Trì vĩ đại
Nhưng tóm lại chúng là hai:
Những thứ mang lại sự chín muồi và những thứ mang lại giải thoát.
Chúng tôi sẽ giải thích các quán đỉnh theo số lượng, trình tự và từ nguyên tiếng Phạn của chúng.
Về số lượng quán đỉnh, vì có bốn phiền não cần được tịnh hóa, bốn ấn của việc thực hành, bốn kinh nghiệm của hỷ lạc, và bốn thân kết quả, vân vân, nên người ta nói, đối với những người tinh tấn trong đó, có bốn quán đỉnh.
Có một trình tự nhất định (trong các quán đỉnh) được hiểu bằng cách áp dụng chúng vào quan kiến và cung cách mà cái hỗ trợ và cái được hỗ trợ sẽ được thanh lọc. Đầu tiên, quán đỉnh bình tiết lộ rằng các hiện tượng và tâm trí là một vị thần như huyễn, và do đó quan điểm Duy Thức được nhận ra. Quán đỉnh bí mật tiết lộ rằng các hiện tượng không nằm trong bất cứ cực đoan bản thể học nào và vượt ra ngoài cấu trúc khái niệm, và nhờ vậy quan điểm của Trung Đạo được nhận ra. Quán đỉnh trí tuệ tiết lộ sự không thể tách rời giữa hỷ lạc và tính không, và do đó các quan điểm của hai lớp bên trong của Mật tông (Maha và Anu) được nhận ra. Cuối cùng, thông qua quán đỉnh ngôn từ, tính giác siêu việt tâm trí thông thường được tiết lộ là tâm giác ngộ,40 và nhờ vậy quan điểm của Đại Toàn Thiện được nhận ra.
Khi áp dụng vào phương pháp thanh lọc hỗ trợ và được hỗ trợ, trình tự các quán đỉnh như sau. Khi một người còn sống, tức là khi thân và tâm hợp nhất, chính thân và tâm này (cái hỗ trợ và cái được hỗ trợ) sẽ ảnh hưởng và thanh lọc lẫn nhau. Tinh túy của thân thể là sự đa dạng của các kinh mạch vi tế. Các kinh mạch là cơ sở cho các luồng khí và các giọt tinh chất, và các giọt tinh chất là cơ sở của tính giác, tức là tâm giác ngộ. Theo đó, quán đỉnh bình thanh lọc thân thể và đưa nó đến sự chín muồi. Quán đỉnh bí mật thanh lọc và làm chín muồi các kinh mạch. Quán đỉnh trí tuệ thanh lọc và làm chín muồi các giọt tinh chất. Và quán đỉnh ngôn từ quý giá thanh lọc và đưa tính giác của một người, tâm giác ngộ, đến sự chín muồi.
Từ tiếng Phạn của “quán đỉnh” là abhiseka. Về mặt từ nguyên, yếu tố tiếng Phạn Abhiseka ám chỉ việc thanh lọc tạp chất, trong khi sikta biểu lộ việc đổ ra phúc lành. Nói cách khác, quán đỉnh thanh lọc tạp chất và truyền tải may mắn. Người ta nói về quán đỉnh vì nhờ đó họ được ban cho quyền năng để đến với linh ảnh về chân lý ngay trong kiếp này trên nền tảng của Hỷ Lạc Viên Mãn.41 Mật điển Kim Cương Đỉnh nói:
Nghi thức, lời dạy, và hành giả,
Theo nghi thức của mandala,
Làm phát sinh bí ẩn của giải thoát viên mãn
Và dẫn đến ngay trong kiếp này
Đạt đến nền tảng của Hỷ Lạc Viên Mãn.
Về những khiếm khuyết phát sinh nếu quán đỉnh không được nhận, Guhyagarbha nói rằng:
Nếu một người không làm hài lòng vị thầy
Và nếu tất cả quán đỉnh không được nhận
Sự học và thực hành của người đó
Sẽ không có kết quả và chẳng đi đến đâu.
Và trong mật điển Cực Lạc Huyễn Ảo có nói:
Nếu, không nhìn chăm chú vào mandala
Mà yogi vẫn mong ước đạt được thành tựu
Anh ta giống như một kẻ ngu si đập vỏ trấu
Dùng nắm tay siết chặt đấm vào bầu trời.
Mặt khác, những lợi ích đến từ việc thọ nhận các quán đỉnh được mô tả trong mật điển Bí Mật Tối Thượng:
Nếu được ban truyền quán đỉnh chân chính
Người ta sẽ đạt được thành tựu ngay cả khi không nỗ lực.
Vậy là đã có một phác thảo chung về các quán đỉnh. Các giai đoạn của con đường mang đến giải thoát bao gồm giai đoạn phát sinh và giai đoạn thành tựu. Trong mật điển Guhyashamaja có nói rằng:
Toàn bộ giáo lý của đức Phật
Được trình bày hoàn hảo qua hai giai đoạn
Giai đoạn phát sinh đến trước;
Giai đoạn thành tựu diễn ra sau đó.
Trong giai đoạn phát sinh, thông qua sự xuất hiện được quán tưởng của một vị thần bản tôn ở mức độ tương đối, hành giả tu luyện để loại bỏ mọi suy nghĩ thông thường và thanh lọc các uẩn, các nguyên tố và bảy thức. Trong giai đoạn thành tựu, thông qua thực hành phù hợp với lĩnh vực vi tế, tức là tính quảng đại tối thượng, không thể quan niệm được, hoạt động khái niệm của tâm trí thông thường hoàn toàn lắng xuống. Sự hợp nhất của hai giai đoạn này được định nghĩa là con đường dẫn đến thành tựu. Trong mật điển Am Kim Cương có nói:
Nhờ thực hiện đại ấn
Người ta đạt được thân kim cương
Nhờ phương tiện trì tụng quý giá
Lời nói của người ta trở thành ngữ kim cương vô nhiễm
Trong sự chú tâm kim cương, tâm trí của người ta
Sẽ được chứng ngộ như là báu tâm.
Và:
Vì vậy người ta nói về bánh xe mandala
Phương pháp là giới nguyện về hỷ lạc
Các yogi có niềm tin thành Phật
Sẽ không mất nhiều thời gian để đạt tới giác ngộ.
Nếu không thực hành giai đoạn phát sinh thì không thích hợp để tiến tới giai đoạn thành tựu. Như đã nói trong mật điển Lời Cam Kết của Dakini:
Một con đường không có thần bản tôn
Là một con đường sai lầm
Và nó không phù hợp để làm con đường mật tông.
Mặc dù thân, khẩu, ý của một người, ngay từ đầu là thân, khẩu, ý giác ngộ, nhưng chúng không xuất hiện rõ ràng như vậy, bị che khuất bởi những khuynh hướng thói quen của người đó. Để làm chúng bộc lộ rõ ràng, cần phải thiền định về các mandala của hai giai đoạn. Như đã nói trong mật điển Hevajra:
Yoga phát sinh là
Các khía cạnh hình thể của thần bản tôn
Có màu sắc, khuôn mặt và cánh tay
Tuy nhiên nó loại bỏ các khuynh hướng tầm thường.42
Những lợi ích thu được từ việc thực hành này được mô tả trong mật điển Am Kim Cương:
Những ai thiền về một vị Phật như vậy
Ngay cả khi họ không đạt đến giác ngộ
Trong những kiếp sau,
Họ sẽ đạt được cấp độ của một vị vua vũ trụ
Hoặc quyền thống trị trên trái đất này
Hoặc họ chắc chắn sẽ đến những cõi tịnh độ.
Bây giờ ý nghĩa chung của hai giai đoạn đã được phác thảo, chúng ta phải xem xét cách thiền định khi bắt đầu buổi thực hành.
Người ta có thể thiền về bất kỳ mandala nào phù hợp, dù là của một vị thần an bình hay phẫn nộ, thuộc gia đình Phật của mình. Ngoài ra, người ta có thể thiền về Kim Cương Tát Đỏa (người hiện thân cho toàn thể các vị thần của các gia đình Phật khác nhau) cùng với phối ngẫu của mình và trì tụng thần chú trăm âm. Như đã nói: “Thiền về một đấng chiến thắng duy nhất là thiền về toàn thể chư Phật”. Tại sao lại như vậy? Đó là bởi vì toàn bộ các vị Phật đều nằm trong ngũ bộ Phật (an bình hay hung nộ), vì họ có cùng bản tính, truyền xuống một vị thần duy nhất, và bản thân vị thần này hoặc là bình an hoặc là phẫn nộ. Mật điển Samputa nói:
Người ta nên thiền về tất cả các vị thần
Là một vị thần hòa bình hay phẫn nộ
Phật là một vũ công không thể tưởng tượng được
Tôi có quyền gì để nói về điều đó?
Tất cả đều là sự hóa hiện của tâm trí
Và do vậy là một gia tộc duy nhất của không tính kim cương
Sau đó trở thành năm bộ.
Sau đó người ta nên gia trì tràng hạt của mình. Người ta quán tưởng nó như vị thần yidam thiền định của mình và hòa tan vị thần trí tuệ vào trong nó. Người ta cúng dường và tán thán (cho tràng hạt được quán như một vị thần), và, đọc tụng dharani duyên khởi phát sinh, người ta rải hoa lên nó. Các vị thần phụ mẫu hòa tan thành ánh sáng và tan chảy vào hạt chủ, sau đó biến thành các âm tiết OM AH HUNG. Tất cả các hạt khác sau đó được hình dung như các nguyên âm và phụ âm, và khi một người tụng thần chú, người đó quán từ những chữ cái này phát ra các vị thần và âm thanh của thần chú. Người ta nên giữ tràng hạt của mình bên người theo cách mà người khác không được nhìn thấy nó.
Đối với mật chú của các vị thần, một số cầu khẩn các vị thần bằng tên, những câu khác cầu khẩn họ từ các âm tiết chủng tử của họ, trong khi những câu khác thể hiện các phẩm tính mà các vị thần được liên hệ. Như được nói trong mật điển Am Kim Cương:
Cũng như khi, với giọng khẩn thiết,
Bạn kêu gọi những sinh linh vĩ đại
Ai nghe thấy bạn sẽ đến,
Tương tự khi bạn mong ước sự hiện diện của họ,
Chư Phật, bồ tát, dakini, minh phi
Đến ngay lập tức khi họ nghe thấy mật chú của họ.
Mật chú phải cực kỳ rõ ràng. Đây là ý nghĩa của cụm từ “thu hút hoặc tập hợp thông qua mật chú”, được đề cập trong kinh điển của tất cả các tầng lớp Mật tông. Một câu chú đơn lẻ được đọc thuần túy và rõ ràng còn hơn một ngàn câu chú được lẩm bẩm không rõ rệt. Một câu chú được độc mà không mất tập trung còn hơn một trăm ngàn câu chú được đọc xao lãng thiếu tập trung. Mật điển Bí Mật Tối Thượng nói:
Trì tụng thanh tịnh thì ngàn lần
Cao hơn trì tụng bất tịnh.
Niệm với tâm tập trung
Vượt trội gấp trăm ngàn lần
Niệm mà không tập trung.
Và trong Con Đường Bồ Tát chúng ta thấy:
Trì tụng và khổ hạnh,
Mặc dù có thể chứng thực là lâu dài,
Nhưng nếu thực hành với tâm trí xao lãng,
Thì vô ích, Đấng Biết Thực Tại đã nói vậy.43
Khi đã quán tưởng bản thân trong hình dạng một vị thần yidam và trì tụng thần chú trong một thời gian ngắn, người ta hình dung vị thầy gốc của mình đang ngồi trên đỉnh đầu và được bao quanh bởi chư Phật, bồ tá, daka và dakini. Người ta cúng dường ngài, tụng những lời ca ngoại và sám hối, cầu nguyện để hoàn thành mục tiêu mong ước của mình. Vì vị thầy là gốc rễ của mọi con đường và là cội nguồn của mọi thành tựu. Mật điển Trí Tuệ Ban Sơ Xuất Hiện Đầy Đủ nói rằng:
Nhờ lòng tận tụy với thầy nhiều tháng nhiều năm
Bạn sẽ đi qua tất cả các giai đoạn của nền tảng và con đường.
Nếu vị thầy luôn hiện diện với bạn,
Bạn sẽ chẳng bao giờ xa cách toàn thể chư Phật.
Cũng được nói trong Sự Sắp Đặt của các Samaya:
Bằng lòng sùng kính không lay chuyển
Đạt tới cảnh giới Kim Cang Trì trong sáu tháng.
Và trong mật điển Trí Tuệ Bản Nguyên Siêu Việt nói rằng:
Hãy quán tưởng vị thầy vĩ đại của bạn
Như vật trang hoàng cho luân xa đỉnh đầu của bạn.
Guru Yoga là cần thiết để ngăn chặn những trở ngại xảy ra và để đảm bảo rằng sự chứng ngộ sẽ đến tự nhiên và dễ dàng ngang qua những nền tảng và con đường.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks