ĐIỂM KIM CƯƠNG THỨ NHẤT: NƠI CHỐN THIỀN ĐỊNH
Việc thực hành thiền định chuyên sâu, một cách tự nhiên đã ám chỉ việc ẩn tu trong cô tịch. Vì vậy, điểm kim cương thứ nhất của Tìm Nghỉ Ngơi trong Thiền định chứa đựng lời khuyên về cách lựa chọn địa điểm phù hợp nhất để tu tập samatha và vipassyana. Trong bản diễn giải của mình, Longchenpa tham khảo hai văn bản: Thực hành sâu xa Yoga cho Bốn mùa,11 được cho là của tổ phụ Đại Toàn Thiện Garab Dorje, và Vòng Hoa của Pháo Đài Quan Kiến,12 của đạo sư Liên Hoa Sinh. Trong cả hai văn bản này, có một tiên đề rằng thực hành thành công phụ thuộc vào việc nuôi dưỡng các trạng thái tâm trí thuận lợi, mà đến lượt nó lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tình trạng thể chất của hành giả cũng như môi trường bên ngoài. Đúng nơi, chế độ ăn uống đúng cách và quần áo phù hợp với mùa, đều là những yếu tố quan trọng góp phần vào sự thành công của việc thực hành. Ví dụ, các công trình xây dựng gọn nhẹ trên núi cao, mát mẻ thoáng đãng, có tâm nhìn rộng mở bao la, phù hợp nhất để trau dồi vipassyana, trong khi các khu vực yên tĩnh, trũng thấp, có rừng hoặc thung lũng khép kín lại thuận lợi cho việc hướng nội của thiền an trú tĩnh lặng samatha.
Longchenpa cũng đề cập đến những chiều kích tinh tế hơn liên quan đến bầu không khí vào “cảm giác” của những nơi chốn nhất định, và ông dành thời gian xem xét tác động của các vong linh địa phương lên tâm trí người thực hành. Những người đã thiết lập vững chắc sự tập trung thiền định sẽ không bị làm phiền quá mức bởi những hiện tượng ma quỷ lảng vảng quanh nghĩa địa hoặc bởi các hồn ma và những thực thể phi nhân khác tụ tập ở những nơi rùng rợn và kỳ quái: vách đá, ao hồ hẻo lánh, cây cối quạnh hịu, vân vân. Mặt khác, những người mới bắt đầu dễ bị quấy rầy và nên tránh xa những môi trường như vậy. Các hành giả đầy nhiệt huyết được khuyến cáo nên chọn vị trí ẩn tu của mình một cách đặc biệt cẩn thận và trước khi cam kết, hãy dành ra hẳn hai tuần để đánh giá những tác động mà một địa phương có thể gây ra cho tâm trí của họ. Họ nên cẩn thận tránh những nơi được phát hiện là gây ra sự kích động, mất tập trung, hoặc buồn tẻ, buồn ngủ, và đặc biệt là những môi trường dường như gây ra tình trạng tâm trí u ám, chán nản, có thể dẫn đến chán chường, rồi cuối cùng là từ bỏ thực hành. Ngược lại, những nơi thanh tịnh, không ô nhiễm, lành mạnh, đặc biệt là có liên quan đến việc tu luyện của các thiền sư vĩ đại trong quá khứ thì cần được đánh giá cao. Bất cứ ai đã đành thời gian với các lama và hành giả Tây Tạng sẽ quan sát thấy sự nhạy cảm mà họ phản ứng với cảnh quan và môi trường địa phương, và độ chính xác khi họ xem xét những địa điểm có thể thực hành.
ĐIỂM KIM CƯƠNG THỨ HAI: NGƯỜI THỰC HÀNH
Sự phân biệt của Longchenpa giữa thiền thế gian và thiền siêu thế gian, cùng ảnh hưởng của nó đến lời khuyên của ông dành cho các học trò, chủ đề kim cương thứ hai, có thể được làm rõ hơn bằng cách tóm tắt về cách phân chia truyền thống của các đạo sư thành ba nhóm hoặc cấp độ. Không giống như những chúng sinh của cấp độ đầu tiên, những người theo đuổi sai lầm các trạng thái hỷ lạc lâu dài ở những cõi giới cao hơn trong luân hồi, những hành giả cấp độ thứ hai hiểu rằng mọi trạng thái luân hồi, dù cao hay thấp, đều là tạm thời và không thể mạng lại giải thoát tối hậu khỏi đau khổ mà họ tìm kiếm. Do đó, khi truy cầu giải thoát, họ hoàn toàn từ bỏ luân hồi. Từ chối luân hồi, hay từ bỏ, đánh dấu sự khởi đầu đặc biệt cho con đường Phật giáo. Được diễn đạt theo truyền thống là “xuất gia”, sự từ bỏ đã được tìm thấy một cách tự nhiên qua biểu hiện chủ yếu của nó, qua nhiều thế kỷ, trong một cách sống, dù tốt hay xấu, đã được xác định trong tiếng Anh là “tịnh xá”. Như một kỷ luật đạo đức bao trùm toàn thể, bao gồm việc đánh giá sâu sắc lại các mối quan hệ và gắn kết cá nhân, những hy vọng và sợ hãi tạo nên cấu trúc của cuộc sống thể gian bình thường, sự từ bỏ thực sự là nghĩa vụ của tất cả những người thực hành Phật giáo, dù là tăng sĩ hay cư sĩ, và là nền tảng không thể thiếu của bất cứ pháp hành chân chính và nghiêm túc nào. Thách thức mang tính cách mạng đối với sự định hướng lại các giá trị cá nhân này là, nó bắt nguồn từ chẳng nới nào hơn là sự quan sát cẩn thận về chính cuộc sống. Nó phát triển từ nhận thức về những phiền não biểu hiện trong cuộc đời: sinh, lão, bệnh, tử, gặp phải những người đáng sợ, mất đi những người yêu quý, vốn là những câu chuyện bất tận về nỗi thống khổ của con người, ngay cả khi được chấm phá bằng hạnh phúc tạm thời và khoái lạc phù du, thì chúng vẫn tái diễn không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, có những cơ chế tự bảo vệ của tâm lý con người, thông qua sự lãng quên, giả vờ, và một quyết tâm thảm hại là “chỉ nhớ tới những thời điểm tốt đẹp”, nó thường xuyên tự cô lập chính nó khỏi trạng thái bất mãn. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi trong suốt văn bản của mình, đặc biệt là ở điểm kim cương thứ hai, Longchenpa liên tục nhấn mạnh rằng các hành giả cần phải nuôi dưỡng cảm giác buồn chán và mệt mỏi dai dẳng đối với sự tồn tại trong luân hồi.
Chúng ta hiểu rằng giải thoát không thể đạt được nếu không cắt đứt gốc rễ luân hồi: việc bám chấp sai lầm vào sự tồn tại thực tế của một bản ngã cá nhân và của các hiện tượng. Để điều này xảy ra, chứng ngộ sâu xa về tính không là điều chẳng thể thiếu. Việc này sẽ không thể đạt được nếu không thành thạo trong việc tập trung, và để phát triển sức tập trung, môi trường lành mạnh của kỷ luật và đạo đức trong sạch theo truyền thống được coi là điều kiện tiên quyết. Vì vậy, đạo hạnh thanh tịnh, như được nêu trong ba hệ thống giới nguyện, giới của tu sĩ và cư sĩ về giải thoát cá nhân pratimoska, giới nguyện bồ tát và giới nguyện kim cương thừa, là một đặc điểm nội tại của con đường Đại Thừa. Như Longchenpa nói, tất cả các thực hành hướng tới tự do giác ngộ đều nhất thiết phải bao hàm việc thọ giới. Tất nhiên, nếu không có giới nguyện, sẽ không có nguy cơ sa ngã, nhưng cũng không có khả năng thành tựu. Sự phá hoại hay thu hoạch mùa màng đều trở nên vô nghĩa như nhau khi không có cánh đồng.
Việc kết hợp ba bộ giới luật thành các phần của một con đường duy nhất là vấn đề khá phức tạp. Do đó, Longchenpa dành phần lớn điểm kim cương thứ hai để làm sáng tỏ câu hỏi này và khi làm như vậy, ông đã phác họa những gì về sau được coi là lập trường chính thức của phái Nyingma.13 Nhiệm vụ trước tiên là giải thích cách hiểu và thực hành cùng lúc ba bộ giới luật mâu thuẫn nhau bởi một hành giả như thế nào. Longchenpa giải quyết vấn đề theo sáu nguyên tắc, luận điểm của chúng là chỉ ra mục đích bên trong của tất các giới luật về căn bản là giống nhau. Khi các giới nguyện cao hơn được thụ nhận liên tiếp, các giới nguyện thấp hơn được chuyển hóa và tăng cường, với kết quả là, mặc dù các khía cạnh bên ngoài của các giới nguyện thấp hơn vẫn tồn tại nhưng bản thân các giới nguyện không bị vi phạm do giữ các giới cao hơn.
Longchenpa đặc biệt quan tâm đến việc chỉ ra giới nguyện xuất gia của tu sĩ phù hợp thế nào với các thực hành liên quan đến quán đỉnh thứ ba của Kim cương thừa. Bằng cách viện dẫn sáu nguyên tắc vừa đề cập, ông phân biệt giữ tu sĩ Thanh văn Sravaka (người vẫn ở cấp độ của giới xuất gia pratimoksa) và tu sĩ Kim cương thừa Vajrayana, những người có giới nguyện đã được nâng cao thông qua thọ nhận bồ đề tâm giới, các samaya của quán đỉnh mật tông, và tâm trí đã trưởng thành thông qua các yoga của giai đoạn phát sinh và thành tựu. Nhìn bề ngoài, các tu sĩ Sravaka và tu sĩ Vajrayana có vẻ như ở cùng một cấp độ, nhưng thực tế họ khá khác nhau. Ngoài ra, một hành vi bị cấm đối với nhóm trước lại có thể vừa phù hợp, vừa mang lại công đức to lớn cho nhóm sau.
Hiển nhiên, những câu hỏi như vậy chỉ trở thành vấn đề đối với những hành giả đã tiến xa trên con đường và thực sự có thể thực hành các yoga của quán đỉnh thứ ba, dĩ nhiên là trường hợp của chính Longchenpa. Tuy vậy, chủ đề này ít nhất vẫn có thể gây hứng thú cho những người khác, và chắc chắn cũng nhằm mục đích xoa dịu nghi ngờ của những hành giả ít kinh nghiệm hơn mà Longchenpa thảo luận về vấn đề ở đây.
Phần còn lại của điểm kim cương thứ hai đề cập đến những chuyện cấp bách hơn. Một điểm nổi bật mà Longchenpa đưa ra là những người đang tu tập trên con đường này nên tránh bị phân tâm bởi lòng vị tha sai lầm: ý tưởng sai lầm rằng một người có thể thực sự mang lại lợi ích cho người khác, có lẽ là trong vai trò của một vị đạo sư hoặc người hướng đạo tinh thần, trước khi người đó đạt được thành tựu thực sự cho chính mình. Bây giờ là lúc, ông nói, để tự tu tập và đảm bảo sự giải thoát cho chính mình. Chỉ khi người đó đạt được giác ngộ chân thực và sở hữu, ví dụ, một tuệ giác thiên nhãn về nhu cầu của người khác, thì người đó mới ở trong vị thế có thể cung cấp sự giúp đỡ và hướng dẫn hiệu quả. Nếu không thì hành động chẳng gì khác hơn ngoài sự phóng dật và tự lừa dối, là nguồn gây nguy hiểm cho người khác và lãng phí thời gian quý báu. Longchenpa bảo độc giả hãy trung thực với chính mình. “Nếu bây giờ chết, bạn sẽ ra sao?” ông hỏi. Nếu một người không thể quản lý được vận mệnh của chính mình tại một thời điểm quan trọng như vậy, thì thật vô lý khi giả vờ rằng mình có thể làm người hướng dẫn chân chính cho kẻ khác. Vì vậy, trong khoảnh khắc tự tu luyện chuyên sâu, mối quan tâm của một người đối với người khác chủ yếu nên được thể hiện bằng khát vọng và lời cầu nguyện chân thành.
ĐIỂM KIM CƯƠNG THỨ BA: HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
Điểm kim cương thứ ba và dài nhất trong ba điểm kim cương là thảo luận về bản thân việc thực hành. Đây là một chuyên luận được biên soạn đầy đủ theo đúng nghĩa của nó, bao gồm phần mở đầu, chủ đề chính, và hướng dẫn kết thúc. Nội dung chủ đề ở đây phức tạp và có hệ thống hơn so với các phần trước của cuốn sách và được đánh dấu bằng các tiêu đề chính và phụ, vì vậy mang đặc điểm của một bản đại cương cấu trúc. Vì vậy, chúng tôi đã trích đoạn chúng ở dạng đơn giản hóa một chút rồi liệt kê chúng, với các khoảng lùi so với lề và chỉ dẫn ở cấp độ văn bản, như một tài liệu riêng biệt trong phần phụ lục. Nhờ đó độc giả quan tâm có thể đánh giá ngay cách mà phần quan trọng của cuốn sách tiết lộ.
Tìm Nghỉ Ngơi trong Thiền Định, như tiêu đề phụ của nó tuyên bố, là một giáo lý của Đại Toàn Thiện. Hệ thống hướng dẫn này được coi là đỉnh cao của con đường Phật giáo trong phái Nyingma, liên quan đến tất cả các giáo lý khác, của Thanh Văn Thừa và Đại Thừa, kinh điển và mật điển, được coi là phần chuẩn bị và sơ bộ. Longchenpa phân loại những bước chuẩn bị này thành bên ngoài, đặc biệt và cao cấp. Các bước chuẩn bị bên ngoài là hiểu biết về vô thường, cảm giác không còn mê muội với luân hồi, lên đến đỉnh điểm là thái độ từ bỏ, là đặc điểm của hành giả thuộc cấp độ thứ hai. Các bước chuẩn bị cụ thể tương ứng với việc rèn luyện tâm trí và vun đắp lòng từ dẫn đến sự phát sinh bồ đề tâm tương đối và tuyệt đối. Nói cách khác, chúng tương ứng với giáo lý kinh điển của Đại Thừa, có thể liên tưởng rằng, thuộc về chúng sinh thuộc cấp độ thứ ba. Cuối cùng, các bước chuẩn bị cao hơn bao gồm các thực hành giai đoạn phát sinh và thành tựu của Kim Cương Thừa cùng với Guru Yoga.
Việc quán tưởng các vị bản tôn và tu luyện về các kinh mạch, khí, và các giọt tinh hoa của thân vi tế cùng với thực hành guru yoga, là những phần chuẩn bị thiết yếu cho con đường Đại Toàn Thiện. Với điều này trong tâm trí, Longchenpa mở đầu bài bình giảng của mình bằng một cuộc thảo luận ngắn gọn về các mật điển. Ví dụ, ông giải thích về số lượng, trình tự, và tác dụng của bốn gia trì, rồi đưa ra những hướng dẫn ngắn gọn về việc trì tụng thần chú. Ông giải thích ngắn gọn rằng mục đích của giai đoạn phát sinh, nói cách khác, việc quán tưởng ở mức độ tương đối về các vị thần bản tôn, vân vân, là để loại bỏ suy nghĩ phàm tục, thanh lọc, chuyển hóa kinh nghiệm của một người về thế giới, các uẩn, các nguyên tố và bảy thức, thành nhận thức về một cõi Phật. Sau đó, thông qua thực hành giai đoạn thành tựu, hoạt động diễn ngôn của tâm trí thông thường được làm cho lắng xuống triệt để. Các pháp sơ bộ cao cấp lần lượt được hoàn thành nhờ việc thực hành vô cùng quan trọng về guru yoga, vì “vị thầy là gốc rễ của mọi con đường và là cội nguồn của mọi thành tựu”. Theo cách này, Longchenpa tuyên bố, người ta có thể dấn thân vào con đường giải thoát mà không mắc sai lầm, không sợ chướng ngại hay chậm trễ. “Ngày nay”, ông kết luận, “nhiều người thiền định trên con đường này mà không thực hành các pháp sơ bộ này. Tuy nhiên, đây là một sai sót”.
Cuối cùng khi Longchenpa đi đến những giáo lý chính, ông không cung cấp cho chúng ta, như người ta có thể mong đợi, một trình bày chính thức về những gì thường được coi là hai thực hành cao nhất của Đại Toàn Thiện: trekcho và thogal. Thay vào đó, ông chỉ định “phương tiện thiện xảo của sự tập trung” vào hỷ lạc, sáng suốt và sự vắng mặt của các suy nghĩ lan man, thông qua đó, bản tính nền tảng của tâm trí, thay vì chỉ được mô tả, sẽ được làm cho xuất hiện trong kinh nghiệm thực tế. Nhờ có những phương tiện thiện xảo này, ông nói, “trí tuệ nguyên thủy sáng ngời, thoát khỏi mọi diễn giải, sẽ phát sinh, đồng khởi, không do tạo dựng”. Ông tiếp tục nói rằng, hỷ lạc tương ứng với các giọt tinh hoa, tính sáng tương ứng với khí hoặc hơi thở, còn vô niệm tương ứng với các kinh mạch vi tế. Tuy các kỹ thuật này được mô tả theo cách gợi nhớ đến các thực hành của giai đoạn thành tựu, nhưng chúng vẫn thuộc về truyền thống Đại Toàn Thiện như từng được các bậc thầy như Garab Dorje và Sri Simha thuyết giảng. Hơn nữa, Longchenpa tuyên bố rất rõ ràng rằng các thực hành về hỷ lạc, sáng tỏ, vô niệm không phải là mục đích tự thân. Mục đích của chúng đóng vai trò là các tác nhân kích hoạt, kết hợp với lòng sùng kính chân thành đối với vị thầy mà hành giả đã nhận được chỉ dẫn cốt lõi vô cùng quan trọng, trực tiếp thúc đẩy sự chứng ngộ bản tính của tâm trí. Thực tế, các kỹ thuật này có thứ tự hoàn toàn khác so với trải nghiệm mà chúng được mong đợi sẽ xảy ra, vốn chẳng có ý nghĩa gì. Lửa và nhiên liệu của nó cũng là hai thực thể hoàn toàn khác nhau, nhưng chính nhờ sự hiện diển không thể thiếu của gỗ mà lửa xuất hiện. Mặc dù các thực hành dựa trên hỷ lạc, sáng tỏ và vô niệm được giải thích khá chi tiết, nhưng phần lớn điểm kim cương thứ ba được dành cho các giải thích bổ sung, về cơ bản có hai loại. Đầu tiên là thảo luận về những dấu vết sai lầm có thể có trong ba thực hành vừa đề cập, cùng với mô tả về các pháp cứu chữa được kê đơn theo ba cấp độ hành giả. Tiếp theo là một loạt các hướng dẫn khác để có thể tăng cường kinh nghiệm về hỷ lạc, sáng suốt, vô niệm. Rõ ràng các thực hành được kê ra trong phần này cũng như các bài tập khắc phục được đưa ra trong phần trước, đước nhắm tới các yogi đã thành thạo các kỹ thuật như vậy. Sẽ là cực kỳ ngớ ngẩn nếu cho rằng phần này của văn bản cấu thành một cuốn sổ tay hướng dẫn cho độc giả phổ thông. Thỉnh thoảng, Longchenpa gọi các hướng dẫn của mình là bí mật, bằng cách này, ông dường như muốn nói rằng các thực hành liên quan chỉ được nói bóng gió một phần và gián tiếp. Chúng tiềm tàng một lượng kiến thức đáng kể và cần có thêm hướng dẫn từ một bậc thầy đủ tiêu chuẩn.
Nếu các độc giả phổ thông và thiền sinh mới bắt đầu hành thiền không thể bắt tay ngay vào con đường mà Longchenpa mô tả trong phần này của văn bản, thì đây vẫn là một câu chuyện truyền cảm hứng về các thực hành mà người ta có thể khao khát, và nhờ vào những chỉ dẫn nhận được từ một vị thầy đủ tiêu chuẩn, cuối cùng người ta vẫn có thể thực hiện được.
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình chuẩn bị phần hai của Bộ Ba Nghỉ Ngơi, chúng tôi một lần nữa biết ơn thầy mình, Pema Wangyal Rinpoche, nếu không có nguồn cảm hứng và sự hỗ trợ của ông, bản dịch này sẽ không bao giờ có thể được thực hiện. Chúng tôi cũng hết sức tri ân Khenchen Pema Sherab của tu viện Namdroling, Bylakuppe, Ấn Độ, người đã kiên nhẫn trả lời các câu hỏi của chúng tôi và làm rõ nhiều điểm khó hiểu. Chúng tôi đã cố gắng hết sức để làm theo chỉ dẫn của ông nhưng thừa nhận rằng mọi lỗi lầm và thiếu sót đều có thể xảy ra. Bản dịch này được thực hiện bởi Helena Blankleder và Wulstan Fletcher của Nhóm Dịch Thuật Padmakara.
Dordogne
Ngày 5, Tháng 6, 2017
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks