Lời giới thiệu của Nhóm Dịch Thuật
(PADMAKARA)

TÌM NGHỈ NGƠI TRONG THIỀN ĐỊNH,1 là phần hai trong Bộ Ba tác phẩm Nghỉ Ngơi của Longchen Rabjam Drime Ozer. Chi tiết về cuộc đời và thời đại của Longchenpa, như thường được biết, cùng với mô tả chung về các tác phẩm của ông có thể được tìm thấy trong phần giới thiệu của cuốn đầu trong bộ ba tác phẩm, Tìm nghỉ ngơi trong Bản tính của Tâm trí,2 và không cần phải lặp lại ở đây. Chỉ cần nhắn người đọc rằng Bộ Ba tác phẩm Nghỉ Ngơi, hay theo nghĩa đen là Ba Chu Kỳ Nghỉ Ngơi,3 không phải gồm ba cuốn mà là ba nhóm văn bản, mỗi nhóm bao gồm một văn bản gốc bằng thơ, một bản tự chú giải gọi là “cỗ xe”, một bản tóm lược ngắn gọi là “vòng hoa” và một chỉ dẫn thiết yếu hoặc “hướng dẫn thực hành”.4 Cuối cùng, bô ba tác phẩm này được kết thúc bằng một bài thuyết trình chung có tựa đề Một Đại Dương của những Chú Giải Tao Nhã.5

Vì lý do thời gian và tính thiết thực, chỉ có các văn bản gốc và các bản tự chú giải được đưa vào dự án dịch thuật hiện tại. Hơn nữa, như đã giải thích trong phần giới thiệu của các dịch giả về Tìm Nghỉ Ngơi trong Bản tính của Tâm trí, bản dịch hoàn chỉnh của Cỗ Xe Vĩ Đại, 6 bản tự chú giải đồ sộ cho tác phẩm đó, đầy rẫy những trích dẫn dài và khó hiểu từ các kinh điển và mật điểm, đã không được thực hiện. Thay vào đó, một số đoạn văn quan trong tiêu biểu cho tư tưởng của Longchenpa đã được trích dẫn, dịch, và cung cấp như phần đệm cho cho văn bản gốc. Ngược lại, Cỗ Xe Thanh Tịnh Vô Song,7 bản tự bình luận của Tìm Nghỉ Ngơi trong Thiền Định, là tác phẩm ngắn gọn và khá dễ hiểu, đã được dịch đầy đủ trong tập này. Không giống như Bảy Kho Tàng Vĩ Đại, chỉ có sáu kho tàng được liệt kê như các mục riêng biệt trong danh mục của Longchenpa, và dường như đã được nhóm lại với nhau như một thực thể duy nhất theo truyền thống sau này do tên của chúng giống nhau, ba nhóm văn bản tạo nên Bộ Ba Nghỉ Ngơi đã được chính tác giả biên soạn rõ ràng thành một bộ sưu tập đơn lẻ. Tuy nhiên, bất chấp ý định rõ ràng của Longchenpa là nhóm ba phần của bộ ba của ông lại với nhau, có lý do để nghĩ rằng chúng không được biên soạn có hệ thống như một thực thể văn học duy nhất.

Ví dụ, rõ ràng là thành phần của bộ ba tác phẩm không được viết theo thứ tự được đưa ra trong bản trình bày chung. Vì trong khi Tìm Nghỉ Ngơi trong Bản tính của Tâm trí và bản bình luận của nó Cỗ Xe Vxi Đại chắc chắn được sáng tác đầu tiên, được trích dẫn trong các văn bản tiếp theo, bằng chứng bên trong cho thấy ít nhất là bản bình luận cho Tìm Nghỉ Ngơi Trong Thiền Định được sáng tác sau bản bình luận cho Tìm Nghỉ Ngơi trong Tính Huyễn Ảo,8 là phần ba của bộ ba tác phẩm.

Tựa đề của ba văn bản gốc, cũng như của chính bộ ba, thực sự gợi ý rằng toàn bộ tuyển tập được hình thành và biên soạn cùng nhau xung quanh một chủ đề thống nhất là “nghỉ ngơi”, trạng thái yên tĩnh của giác ngộ mà chúng sinh tìm thấy sự thoải mái và giải thoát khỏi những cuộc lang thang bất tận của họ trong luân hồi. “Hôm nay”, Longchenpa tuyên bố trong lời mở đầu chung. “tôi sẽ mang lại sự nghỉ ngơi cho tâm trí kiệt quệ của họ”. Nhưng trong khi ý tưởng này thể hiện nổi bật trong Tìm nghỉ ngơi trong bản tính của tâm trí, xuất hiện trong các dòng kết thúc của mỗi chương tại mười ba chương của nó, thì lại không xuất hiện chút nào trong phần thứ hai và ba của bộ ba, ngoại trừ trong tiêu đề của các văn bản gốc chứa chúng. Chỉ trong phần trình bày chung của bộ ba, và thông qua phần giải thích chi tiết về tiêu đề của các văn bản gốc, Longchenpa mới mở rộng rõ ràng cho toàn thể bộ sưu tập một phép ẩn dụ, như một đặc điểm thơ tự chứng, chỉ có trong phần đầu tiên.

Longchenpa cho chúng ta biết rằng ông đã sắp xếp bộ ba tác phẩm của mình theo công thức nổi tiếng của nền tảng, con đường và hành động. Rõ ràng, nền tảng hay quan điểm được cung cấp bởi Tìm Nghỉ Ngơi trong Bản tính của Tâm trí, cùng với bản tự chú giải dài của nó, là một lamrim toàn diện hay trình bày về các giai đoạn của con đường Phật giáo, đỉnh cao là giáo lý Đại Toàn Thiện. Và có vẻ như tác giả muốn bổ sung cho bản bình luận của mình bằng cách thêm vào hai chu kỳ phụ trợ ngắn hơn của văn bản mà nó giải thích, thứ nhất, cách các hành giả tham gia vào thiền định trên cơ sở của một nền tảng hoặc cái thấy như vậy, và thứ hai, phương thức xử lý những trải nghiệm của cuộc sống trong giai đoạn sau thiền định. Có lẽ, để truyền tải cảm giác thống nhất về mặt văn học cho toàn bộ biên soạn mà Longchenpa đã lấy một ý tưởng hình thành mạnh mẽ trong cả tiêu đề lẫn nội dung của phần đầu tiên và mở rộng nó thành hai văn bản gốc tiếp theo, một quy trình mà sự tổ hợp sắp xếp của nó được gợi ý kéo dài thêm do khó khăn trong việc trình bày tổng quan, nhằm chú thích và biện giải cho những tiêu đề được đưa ra như vậy.

Trong phần thảo luận của mình về tựa đề Tìm Nghỉ Ngơi trong Thiền Định, Longchenpa bắt đầu bằng cách xem xét ý kiến phản đối, vốn cho rằng thiền định nhất tâm là trạng thái không có sự chuyển động của tư tưởng, nên theo định nghĩa, nó là trạng thái nghỉ ngơi hoàn hảo. Do đó, nói về việc tìm thấy sự nghỉ ngơi trong trạng thái này là thừa thãi và trùng lặp, ngụ ý một cách vô lý rằng có một khía cạnh nào đó của thiền không phải là sự nghỉ ngơi. Để trả lời phản đối này, Longchenpa đưa ra một sự phân biệt giữa cái ông gọi là thiền “thế gian” và thiền “siêu thế gian”.

Cần hiểu rằng thiền định được đề cập ở đây không phải là loại thiền phân tích, trong đó một ý tưởng được đưa ra phân tích bằng tri thức, mà thứ đang nói đến là an trú tĩnh lặng, hay thiền chỉ samatha, mục đích là đạt được sự tập trung sáng suốt và hoàn hảo trong trạng thái tinh thần tĩnh lặng. Là cơ sở cho tất cả các hình thức tèn luyện tinh thần và tâm linh khác, loại thiền định này được theo đuổi nhiệt thành trong hầu hết các truyền thống tôn giáo và triết học của Ấn Độ cổ đại, cả Phật giáo và phi Phật giáo.

Mặt khác, cần lưu ý rằng, dù thiền chỉ samatha có quan trọng đến đâu với tư cách là một công cụ rèn luyện tâm trí và phát triển các quyền năng, thì về mặt cứu cánh, nó chỉ có công dụng trung lập. Nó có thể tạo ra những kết quả hoàn toàn khác nhau tùy thuộc vào quan điểm hoặc lập trường triết học mà nó được kết hợp. Với nguy cơ bị đơn giản hóa quá mức, chúng ta có thể nói rằng các phái Bà la môn của Ấn Độ, đặc biệt là các phái dựa trên Upanishad và Vedanta khẳng định sự tồn tại của một bản ngã hạnh phúc trường cửu, vĩnh hằng, thuộc về linh hồn, hay atman, là bản thể cốt lõi của chúng sinh. Sự giải thoát hay moksa, đỉnh cao của con đường tâm linh, bao gồm kiến thức và giác ngộ ra rằng atman là bản thể sâu xa nhất, hay chân ngã của con người, và trong việc khám phá ra rằng nó giống hệt với Brahman, nguyên lý vĩnh cửu, tự tồn tại và là nguồn gốc vũ trụ.

Quan điểm của Phật giáo hoàn toàn khác với ljaap trường này. Đức Phật đã phủ nhận một cách sắc bén sự tồn tại của một bản ngã vĩnh hằng hay atman, cũng như sự tồn tại của một đáng sáng tạo vũ trụ vĩnh cửu. Ông tuyên bố rằng chính sự bám víu vào một bản ngã được cho là như vậy đã tạo ra hành động, thiết lập sự vận hành và duy trì chu kỳ bất tận cho sự tồn tại luân hồi. Vì vậy, hiểu sai về bản ngã là sự đối lập với con đường giải thoát. Theo quan điểm Phật giáo, sự làm chủ thiền chỉ samatha khi được định hướng niềm tin vào atman có thể dẫn đến trạng thái cao nhất của hỷ lạc thiên giới trong những khoảng thời gian vô tận. Nhưng cho dù những trạng thái này có thanh tịnh và kéo dài đến đâu trong cõi sắc và vô sắc, chúng cũng không thoát khỏi luật vô thường. Được xây dựng trên niềm tin vào bản ngã, chúng cũng là kết quả của hành động, cho dù là hành động vi tế của sự tập trung nhất tâm, và khi nguyên nhân cạn kiệt, cuối cùng chúng sẽ phải chấm dứt. Do đó, chúng bị hư hoại bởi tính bất mãn nền tảng vốn là dấu hiệu đặc trưng của tồn tại luân hồi. Ngược lại, chỉ khi bản ngã được cho là độc lập và vĩnh cửu được chứng minh là không tồn tại, và khi sự bám chấp vào nó bị tiêu tan, thì sự giải thoát khỏi luân hồi mới có thể xảy ra. Vì thế, mặc dù việc thành thạo thiền chỉ samatha thực sự là một công cụ không thể thiếu trong nỗ lực tinh thần, nhưng nếu muốn đạt được giải thoát, nó phải được kết hợp với quan điểm vô ngã, trí tuệ về tính không, nội quán thâm sâu của vipassyana.

Đây là nguyên nhân cho sự phân biệt của Longchenpa, đã đề cập từ trước, giữa thiền thế gian và thiền siêu thế gian. Thiền trước, tức là thực hành samatha không được định hướng bởi trí tuệ, được định nghĩa là “một sự tập trung được đo lường bằng sự sáng suốt và vô niệm, và được kinh nghiệm trong ba cõi luân hồi”.9 Điều này có thể dẫn đến sự kìm nén tạm thời của đau khổ hiện hữu, tuy trong khoảng thời gian rất dài, nhưng giải pháp không phải là triệt để. Khi những nguyên nhân của hỷ lạc thiên giới cạn kiệt, tâm trí chắc chắn sẽ trở thành con mồi cho sự tiến triển của nghiệp chướng và sẽ phải tiếp tục lang thang trong luân hồi, thông qua các trạng thái đau khổ hiện hữu hoặc tiềm ẩn, mà không bao giờ có hy vọng tìm thấy được trạng thái nghỉ ngơi chung cuộc. Ngược lại, thiền siêu thế gian xảy ra khi sự an trú tĩnh lặng được kết hợp với trí tuệ của tính không. Được trao truyền như vậy, tâm trí có thể nhổ tận gốc bám chấp sai lầm vào bản ngã. Gốc rễ của sự tồn tại bị cắt đứt và sự mệt mỏi vì trôi lăn vô tận cuối cùng cũng được chấm dứt. Chỉ có trí tuệ chứng ngộ không có bản ngã mới có thể mang lại bình yên và tươi mới cho tâm trí kiệt quệ của chúng sinh. Tóm lại, Longchenpa nói, tìm thấy nghỉ ngơi trong thiền định là khám phá ra sự giải thoát chỉ có được thông qua việc hợp nhất thiền chỉ samatha và thiền quán vipassyana.10

Vì vậy, đây là chủ đề của văn bản này, trong đó trí tuệ của vipassyana được trình bày theo các giáo lý của Đại Toàn Thiện, mục đích của giáo lý này là chứng ngộ bản tính của tâm trí rồi làm cho trạng thái chứng ngộ này ổn định và kéo dài, khiến cho trạng thái giác ngộ nguyên thủy và nội tại của tâm trí được biểu hiện đầy đủ. Để đạt được mục đích đó, Tìm Nghỉ Ngơi trong Thiền Định, đề cập đến ba chủ đề hoặc “ba điểm kim cương”: đầu tiên, thảo luận về các điều kiện, về mặt địa lý cũng các điều kiện khác, phù hợp để ẩn dật trong cô tịch; thứ hai, xem xét những loại người có khả năng thành công trong những cố gắng như vậy, và thứ ba, trình bày chung về các hoạt động liện quan, đi kèm lời khuyên về cách tăng cường hiệu quả của chúng và sửa chữa các sai lầm.

Longchenpa mô tả văn bản của mình như một loại các chỉ dẫn cốt lõi thiết yếu. Thay vì giảng giải có hệ thống về thiền, nó là một loạt các luận điểm với lời khuyên cụ thể hướng đến những hành giả có kinh nghiệm. Đây là một điều quan trọng. Những hướng dẫn trong sách này không dành cho người đọc chưa được nhận quán đỉnh, những người được khuyên không nên bắt đầu bất cứ thực hành nào được mô tả, mà chưa được chuẩn bị đáng kể và được hướng dẫn chuyên môn từ một vị thầy có đủ tiêu chuẩn. Tuy nhiên nó có sức hấp dẫn phổ quát vì toàn bộ các giải thích mà nó chứa đựng, rõ ràng, mạch lạc như chúng vốn có, phản ánh những mối bận tâm và những phát hiện riêng của Longchenpa. Như đã nói trong lời mở đầu chung và nhiều lần sau đó, giáo lý của ông được bảo chứng, do đó nó được ghi chép lại từ chính kinh nghiệm của ông. Vì vậy, mặc dù văn bản này không phải là một cẩm nang hướng dẫn dành cho công chúng, nhưng chúng ta được tưởng thưởng bằng hào quang mà cho soi chiếu qua tính cách của tác giả. Nó được truyền cảm hứng sâu sắc, thậm chí là thú vị khi được thoáng nhín vào quá trình thực hành cá nhân của Longchenpa và có một số ý tưởng về lòng quyết tâm và tính siêng năng chuyên nhất, cũng như năng lực phi thường đã hỗ trợ cho nó.