Avadhutipà bảo thái tử: “Hãy trở về kinh đô của phụ vương ngày hôm nay. Hãy quán xét những khuyết điểm nơi lối sống của một cư sĩ thế tục.”
Và thế là thái tử về nhà, khiến cha mẹ ngài rất vui mừng. Họ hỏi: “Con đi đâu thế, hởi Chadragarbha (Nguyệt Tạng). Con có mệt chăng? Có sầu muộn chăng? Ôi thật tốt thay con đã trở về.” Thái tử trả lời:
Con đã đi tìm thầy học đạo
Vì thầy là nơi nương tựa quý báu như Phật
Con đã tìm trong hang núi
Và những nơi tịch mịch hoang vu
Nhưng dù đi đến đâu
Con cũng có thể thấy lỗi lầm của sinh tử.
Bất cứ người bạn nào con gặp
Ðều nói cho con nghe những lỗi lầm của sinh tử.
Mặc dù thế, con vẫn chưa được vừa lòng.
Xin cho con tự do để quay về với Pháp.
Cha mẹ thái tử bảo ngài rằng việc sinh tử làm cho ngài đau khổ như thế, thì thái tử nên làm vua rồi tha hồ mà cúng dường Tam Bảo, bố thí cho người nghèo, xây chùa, trai tăng, vân vân. Như vậy ngài sẽ hoàn toàn hạnh phuc. Thái tử trả lời:
“Con đã thấy nhiều cảnh khổ sinh tử. Con không chút nào bị lôi cuốn vào những cạm bẫy của cuộc đời vua chúa. Cung vàng điện ngọc đối với con không khác nào lao ngục. Những mỹ nữ không khác gì con gái của ma vương. Ba chất ngọt ngào (?) chẳng khác nào thịt chó, mủ và máu. Mặc lụa là trang sức châu báu với đắp một cái mền rách không có gì khác nhau. Con sẽ vào rừng để thiền định. Hôm nay hãy cho con một ít thịt, sữa, mật, đường mía để con đi đến bậc thầy Avadhutìpà.” Ðấy là đại ý những bài ca được hát cho cha mẹ ngài. Những vị này cho phép ngài làm theo ý muốn, và thái tử khởi hành vào rừng cùng với một ngàn kỵ sĩ đi theo.
Ngài trở thành đồ đệ của Avadhutìpà, người khai thị cho ngài sự phát tâm bồ đề. Ông bảo: “Hãy đi đến chùa Krshnagiri (Hắc sơn) nơi tiên Ràhulagupta đang ở. Ông ấy cũng từng là thầy con trong quá khứ.”
Bậc thầy Ràhula lúc ấy đang giảng giáo lý mật tông. Khi thấy thái tử đi vào, mặc dù đã biết thái tử đến để cầu Pháp, để thử thách ông tung một luồng sét đánh vào thái tử, rồi đi lên đỉnh núi chỗ có một ngôi tháp Tìrthika màu đen. Các ẩn sĩ tùy tùng hỏi ông người ấy là ai. Ràhula trả lời: “Trong năm trăm năm mươi hai đời tái sinh, ông ấy luôn luôn làm học giả. Bây giờ ông ấy là thái tử sắp nối ngôi vua Pháp ở xứ Bengal là Kalyànashrì. Ông ta không màng tới đời sống vương giả, mà mong muốn thực tập khổ hạnh.”
Mọi người đều ngạc nhiên. Họ đứng lên mời thái tử gia nhập vào đoàn họ.
Khi gặp bậc thầy này, Atìsha nói:
Hỡi đạo sư thánh thiện xin nghe con đây:
Con đã từ bỏ gia đình
Con mong đạt giải thoát
Nhưng con đã sinh vào nhà danh tiếng
Và có thể trói buộc vào xứ Bengal.
Con đã tôn thờ những bậc thầy
Jitàri, Bodhibhadra, Vidyakokila và Avadhutìpà,
Những bậc đạo sư có thần thông
Nhưng ngay đến bây giờ, con vẫn chưa thoát khỏi
Những bổn phận làm vua.
Nay con được gởi đến Thầy, hỡi bậc Ðạo sư:
Xin hãy khai thị cho con giáo lý Ðại thừa
Và sự phát bồ đề tâm,
Mong sao con thoát khỏi những trói buộc.
Thái tử tiếp tục năn nỉ vị thầy suốt mười ba ngày. Cuối cùng ông đáp ứng, làm pháp quán đảnh Hevajra cho thái tử và truyền riêng cho ngài tất cả những chỉ giáo. Thái tử được pháp danh trong mật giáo là Jnànaguhyavajra.
Rồi Ràhula bảo tám vị nam nữ khổ hạnh lỏa thể có nhiều thần thông khủng khiếp rằng: “Hãy đi theo ông ấy về Bengal, làm cho nhà vua đổi ý. Khi thái tử đã được giải thoát khỏi phận sự làm vua, thì hãy đưa ông đến bậc thầy của ông là Avadhutìpà.”
Bấy giờ thái tử trang phục như thần Heruka, đi vào hoàng cung. Mọi người trông thấy đều nhận ra ngài và rất hoảng sợ. Ngài lang thang suốt ba tháng, hành xử như một người điên. Những tu sĩ khổ hạnh đi theo ngài thì chạy nhảy cùng khắp. Mọi người đều quyết định rằng ngài không còn đủ tư cách để trị vì nữa, và không ai cầm được nước mắt.
Phụ thân ngài là người buồn sầu nhất. Ông nói:
Ôi con tôi! Từ khi sinh con ra
Cha đã thấy con có giá trị phi thường
Cha những tưởng con sẽ làm phận sự quốc vương của con
Còn ai hạnh phúc hơn con nữa?
Sự ẩn cư trong rừng dã tác hại gì đến tâm con như thế?
Thái tử đáp:
Thưa cha, nếu con làm vua
Con chỉ được sống với cha trong đời này
Nhưng rồi cha con không nhận ra nhau trong những đời sắp tới.
Thật sai lầm biết bao khi làm một việc
Không đem lại lợi ích gì mà chỉ có hại.
Nếu con từ bỏ đời sống vương giả
Mà thực hành Con đường bảo đảm
Ðưa đến giải thoát giác ngộ,
Thì cha con mình sẽ được hạnh phúc
Trong những đời tương lai
Bởi thế, cha hãy buông con ra!
Bà mẹ nói:
Có ích gì đây? Ta không thuyết phục con nổi
Nghiệp là cái tiên quyết
Ðã ném tất cả chúng ta vào tái sanh trong đời.
Ôi hỡi người con thánh thiện, cứ việc tu pháp gì con cho là tốt nhất,
Còn mẹ sẽ cầu nguyện được gặp con trong tất cả các đời sau.
Rồi cha mẹ đều cho phép thái tử xuất gia.
Thái tử cùng với những tu sĩ khổ hạnh rời cung điện sáng sớm để đi đến nơi ẩn cư trong rừng của bậc thầy Avadhutìphà, ở đấy ngài học Phật của trường phái Trung quán. Atìsha được thụ giáo về những điều vi tế sâu xa của luật nhân quả, từ năm 21 tuổi cho đến năm 29, ngài gần ngang với bậc thầy Avadhutiphà. Vắn tắt là ngài đã thiền quán, chiêm nghiệm về mọi sự mà ngài đã học được. Tác phẩm Quyển Sách Xanh về những Bùa Chú nói: “Ngài đã theo học Avadhutìphà trong bảy năm.”
Atìsha đáng lẽ đã lên ngôi làm vua, sự nghiệp rực rỡ không thua gì hoàng đế Trung Quốc Li Shi-min, mà hoàng cung có đến mười vạn ngôi nhà với những tràng phan chiến thắng, hai mươi lăm ngàn ao tắm, bảy trăm hai mươi lạc viên, và năm mươi sáu ngàn cây cổ thụ. Ngài cóthể sở hữu ba triệu rưỡi thần dân. Cung điện của ngài được vây quanh với bảy lớp trường thành nối liền bằng ba trăm sáu mươi ba ngôi chùa. Nhưng ngài Atìsha vĩ đại đã hiến mình cho Chánh pháp và đã từ bỏ tất cả những cạm bẫy vô song ấy của vương quyền như thể là người ta nhổ nước bọt vào đống rác. Ðức Phật đấng Ðạo sư của chúng ta cũng đã từng làm như vậy: mặc dù nắm chắc uy quyền của một vị chuyển luân vương trong tay. Ngài đã từ bỏ để xuất gia. Bởi vậy, bạn phải đọc lại một cách say sưa lịch sử của các ngài. Nếu bây giờ có ai bảo chúng ta: “Hãy xả giới hoàn tục, rồi ông sẽ cho làm quận trưởng.” Ta sẽ làm theo ngay không chút do dự. Thế cũng đủ chứng minh tầm mức sự phát tâm của chúng ta.
Thật khó cho chúng ta từ bỏ những vặt vãnh trong căn phòng nhỏ hẹp của mình, nói gì đến chuyện từ bỏ uy quyền của vương vị. Hãy xem điều này trái ngược với Atìsha, người đã vứt bỏ vương vị xem như đờm dãi, người theo thầy học đạo trải qua bảy năm ròng. Ngài cũng thọ giáo Kim cang thừa với nhiều bậc đạo sư có thần thông khác, trở thành một học giả về tất cả cổ thư và mọi ngành giáo lý. Một hôm ý nghĩ này khởi lên nơi ngài, “Ta rất uyên thâm về mật giáo.” Nhưng ngài liền mất tất cả kiêu mạn khi ngài mộng thấy một số nữ thần (dàkinìs) đưa cho ngài xem nhiều pho sách mật giáo mà ngài chưa từng thấy. Và khi ngài khởi lên tư tưởng, “Ta sẽ đạt những thần thông tối thượng về Ðại thủ ấn (mahàmudrà) ngay trong đời này bằng cách áp dụng một cách hành xử có nhiều tính chất mật giáo hơn nữa” (nghĩa là có vợ), thì đạo sư Ràhulagupta hiện đến với ngài bằng thần thông đi xuyên qua tường vách mà bảo: “Cái gì? Con đã quên chúng sinh rồi sao? Hãy thụ giới ngay. Ðiều này sẽ làm lợi lạc cho nền giáo lý và cho nhiều hữu tình chúng sinh.”
Khi thần Heruka xuất hiện trước ngài, và cũng yêu cầu như thế. Ngài cũng mộng thấy Ðức Thích Ca Mâu Ni bậc Ðạo sư của chúng ta, và Ðức Di Lặc, bảo ngài phải thụ giới. Ngài thụ giới cụ túc với ngài Shìlaraksha (Giới hộ), một tu viện trưởng thuộc bộ phái Mahàsamgika (Ma ha tăng kỳ vực), người đã đạt giai đoạn Nhẫn trên đạo lộ chuẩn bị. Atìsha được thọ cụ túc giới vào năm 29 tuổi.
Atìsha đã theo học một trăm năm mươi bảy bậc thầy, học tất cả các học thuật, kinh giáo và mật giáo cùng những bài dạy truyền khẩu liên hệ. Ngài làm một khảo cứu đặc biệt về những điểm then chốt trong Tứ Phần Luật dưới sự hướng dẫn của Dharmarakshita (Pháp hộ), và làm một bộ luận khổng lồ bao gồm một trăm lẽ tám bài tụng trình bày phần của Thắng pháp (Abhidharma) gọi là “Luận Về Những Ðiểm Ðặc Biệt.” Ngài nghe giảng những giáo lý này trong mười hai năm, và nghiên cứu tường tận. Ngài còn am tường tất cả những pháp tu khác nhau của mười tám bộ phái (thuộc bộ phái Vaibhashika - Ðại tỳ bà sa), về những vấn đề như thành phần nào trong tăng chúng phải tịnh thí một phần thực phẩm mình xin được, hoặc thứ nước nào được phép uống, vân vân. Bởi thế ngài trở thành viên ngọc tối thượng của cả mười tám bộ phái Ấn Ðộ.
Nhưng mặc dù ngài đã học và hành tất cả kinh giáo và mật giáo có thể tìm thấy được vào thời ấy tại Ấn, ngài vẫn không ngừng tự hỏi con đường nào là đường nhanh nhất đến giác ngộ, và Ràhulagupta bậc thầy của ngài, đang ở trong hang động núi Krishnagiri, biết được tâm niệm ngài nhờ tha tâm thông, liền đi đến bảo: “Có gì hay ho trong việc thấy những linh kiến về các thần bảo hộ, làm xuất hiện được nhiều bộ loại chư thần trong những đồ hình, phô diễn được vài thần thông vặt vãnh, hoặc đạt được định vững như núi đá? Hãy luyện tâm người về lòng từ mẫn và tâm bồ đề. Ðức Thiên Thủ Quán Thế Âm là vị bồ tát của lòng từ mẫn, hãy cầu ngài làm thần bảo hộ cho ngươi và phát nguyện làm lợi lạc loài hữu tình cho đến khi cõi sanh tử trống rỗng.”
Một ngày kia, trong khi Atìsha đang kinh hành quanh Kim cang tòa của Phật tại Bồ đề tràng, ngài nghe cuộc đàm thoại giữa hai pho tượng. Một lần khác, có hai thiếu nữ đã vượt được những giới hạn của thân xác con người, đang nói chuyện trên bầu trời phía nam của Bồ đề tràng. Một cô hỏi: “Muốn giác ngộ cho toàn vẹn và nhanh thì người ta nên tu theo pháp nào?” Cô kia bảo: “Hãy tu luyện tâm bồ đề.” - “Phải đấy, tu bồ đề tâm là phương tiện cao cả nhất.”
Atìsha đã dừng kinh hành để nghe cuộc đàm thoại, và ghi hết vào lòng như một bình chứa nhận hết nước trút từ bình khác.
Có lần ngài đang đứng cạnh hàng rào bằng đá do bậc thầy Long Thụ dựng lên, thì nghe ở đấy có một bà già bảo cô gái: “Bất cứ người nào muốn đạt giác ngộ sớm phải tu luyện tâm bồ đề.”
Một pho tượng Phật ở dưới hành lang của ngôi đại điện tại Bồ đề tràng có lần bảo Atìsha, trong khi ngài đang kinh hành tại đấy: “Hỡi khất sĩ, nếu ngươi muốn giác ngộ sớm, thì hãy tu luyện tâm từ, tâm bi và tâm bồ đề.”
Một lần khác, khi ngài đi quanh vách đá một am cốc nhỏ, pho tượng Ðức Thích Ca bằng ngà voi nói với ngài: “Hỡi thiền giả, hãy tu luyện tâm bồ đề nếu ngươi muốn sớm đạt toàn giác.”
Thế là Atìsha tu tập phát triển tâm bồ đề hơn bất cứ lúc nào trước đấy, và vì muốn tu đạt đến trạng thái cao nhất của tâm bồ đề, ngài tự hỏi: “Ai là người nắm giữ toàn bộ giáo lý về điều này nhỉ?” Ngài tra tầm và nhận ra chính Suvarnadvìpi là người nổi tiếng bậc thầy về tâm bồ đề. Ngài dự định đi đến vị ấy (ở Nam Dương) để thụ giáo một cách toàn triêt về bồ đề tâm. Ngài vượt đại dương suốt mười ba tháng trên một con thuyền với vài thương gia đi buôn bán. Khi ấy Kàmadeva, thần dục lạc, vì không chịu nổi sự lan truyền của Phật pháp, muốn ngăn cản tâm bồ đề của Atìsha, nên đã thổi một luồng gió mạnh để làm cho chiếc thuyền xoay quanh, lại hóa một con cá voi lớn án ngữ trước mũi không cho thuyền đi tới, hóa sấm chớp, vân vân, gây khá nhiều rối loạn. Hiền trí Kshitagarbhà xin Atìsha xử dụng thần thông giận dữ. Ngài bèn nhập định quán tưởng thần Yamàtaka màu đỏ hiện ra hàng phục được đám quỷ quấy phá, và cuối cùng đoàn người đến Nam Dương.
Atìsha đã trở thành một học giả và hành giả vĩ đại. Như ta đã nói, lúc mới mười tám tháng tuổi, ngài đã tự thốt ra những lời chứng tỏ ngài đã am tường về tâm bồ đề. Thế mà ngài vẫn tình nguyện trải qua bao nhiêu gian khổ để đi đến Nam Dương, điều ấy chứng tỏ cho chúng ta thấy trong phái Ðại thừa, không có gì quan trọng cốt cán hơn là bồ đề tâm.
Atìsha trải qua cuộc hành trình đến mười ba tháng nhưng không bao giờ ngài cởi chiếc áo tu sĩ, dấu hiệu của giới pháp. Ngài không du hành như chúng ta ngày nay. Các tu sĩ bây giờ mỗi khi đi xa, vừa ra khỏi tu viện là đã khoác y phục thế gian, một số người lại còn đeo bao gươm dài vào nữa. Tôi nghĩ có lẽ người ta phải sợ hãi khi trong thấy họ và tự hỏi, “Có phải là bọn cắt cổ người ta chăng?” vậy ta phải nêu gương bằng cách đừng cởi pháp phục, dấu hiệu chứng tỏ ta đã thụ giới cụ túc. Kaedrub Rinpoche nói:
Thân thể của vị tỷ kheo đẹp là nhờ pháp phục
Khi nào tu sĩ đã thụ giới
Mà mặc y phục thế gian
Lối cư xử ấy làm giáo lý suy tàn.
Một vài người tuyên bố: “Người ta nên thuần thục từ bên trong” mà không giữ bề ngoài chút nào. Ðiều này không tốt cho giáo lý chung. Mọi hoạt động của tăng chúng cần được thực hiện có giới luật và an tịnh. Xá Lợi Phất đạt đến địa vị kiến đạo là nhờ thấy cung cách của Ashvaji.
Trở lại chuyện Atìsha đến đảo Nam Dương. Ngài trong thấy một vài thiền giả đệ tử của Suvarnadvipì. Atìsha cùng những đồ đệ của ngài nghỉ ngơi nửa tháng và yêu cầu các thiền giả kể cho nghe câu chuyện về cuộc đời đạo sư Suvarnadvipì. Nếu là chúng ta thì khi đến đấy, chúng ta sẽ đến diện kiến bậc thầy tức khắc; như Atìsha không làm như vậy. Thay vì thế, ngài xem xét cuộc đời của bậc thầy. Ngài nêu một tấm gương cho ta: trước hết ta phải tra tầm về bậc thầy cho đúng cách.
Một vài người vội vã đi đến bậc thầy Suvarnadvipì và bạch: “Bạch thầy, nhà đại học giả Dìpamkàra Shrijnana, người nổi tiếng nhất khắp vùng Ðông và Tây Ấn, đã vượt biển với bao gian nan suốt mười ba tháng cùng với một trăm hai mươi lăm đồ đệ đã đến để thụ giáo với ngài về Bát nhã, bà Mẹ của tất cả những đấng Chiến thắng. Họ cũng đến để học pháp Ðại thừa về huấn luyện tâm để phát nguyện và khai triển những hình thức tu tập tâm bồ đề.”